xxxx_BoscoT_Don_Bosco_Una_Biografia_NuovaVIETNAMITA


xxxx_BoscoT_Don_Bosco_Una_Biografia_NuovaVIETNAMITA

1 Pages 1-10

▲back to top

1.1 Page 1

▲back to top
Teresio Bosco
Don Bosco
Một Tiểu Sử Mới
(Vietnamita)

1.2 Page 2

▲back to top
LỜI GIỚI THIỆU
Ngày 31-1-2011 kết thúc cuộc Viếng Thăm của Thánh Quan
Don Bosco. Ngài đến Việt Nam thăm các con cái của ngài với
khẩn hiệu: Cha đã đến thăm chúng con và ở lại với chúng con.
Cả trên trăm ngàn người đã được mục kích Di hài Don Bosco ở
giữa các bạn trẻ và dân chúng Việt Nam, người mà Đức Thánh
Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong là Cha, Thầy, Bạn của Giới
trẻ. Don Bosco thật sự đã chinh phục được con tim của các bạn
trẻ cùng đông đảo đồng bào Việt Nam.
Trong những thập niên đã qua đã có rất nhiều sách viết về Don
Bosco, và có thể phân làm hai loại:
Những sách kể những chuyện đẹp của đời sống ngài
cho “các trẻ em và dân chúng” mà không để ý đến
những nghiên cứu lịch sử tổng quát về thời Don Bosco,
và những nét đặc biệt của dung mạo ngài. Những sách
này được in ra rất nhiều, có cái lợi là cho nhiều người
biết Don Bosco, tuy nhiên làm mất giá dung mạo vĩ đại
của Don Bosco, vì các chi tiết của chúng nhiều khi dựa
vào các lời chứng đáng nghi ngờ, và “các chất liệu được
sử dụng trong “các trang tranh vui” mà thôi.
Các sách nghiên cứu một số các chiều kích nền tảng của
nhân cách Don Bosco, không nêu lên các biến cố, các
tường thuật, các dữ kiện về Don Bosco, vì coi những
điều đó mọi người đã biết. Mục đích chỉ nhắm tới “phi
huyền thoại hóa” hay nói cách khác trả lại cho dung
mạo Don Bosco tính cách chân thực hơn của nó. Tuy

1.3 Page 3

▲back to top
nhiên cũng vì thế mà các sách đó khô khan, khó đọc, và
ít gây cảm hứng!
Ngược lại sách của cha Teresio Bosco đã chọn con
đường thứ ba: giữ lại, trình bày lại tất cả các dữ kiện
làm nền tảng cho cuộc mạo hiểm bi thiết của vị linh
mục thánh thiện và là nhà giáo dục trứ danh này. Cách
riêng các tài liệu nguồn của nó chính là các trước tác
của chính Don Bosco như “Hồi Ký Nguyện Xá”, Sách
chuyện “Đaminh Saviô”, “Magone”, các chứng từ của
các học trò và các cộng sự viên của Don Bosco, đã từng
tuyên thệ trước các phiên tòa trong án vụ phong thánh
cho ngài.
Do đó sách này làm nổi bật lên dung mạo Don Bosco trong lịch
sử của thời ngài và của Hội Thánh thời ngài, do các nghiên cứu
nghiêm chỉnh và mới nhất đã cung cấp cho chúng ta.
Hiện nay phải thành thật mà nói một cuốn sách vừa tầm tay
mọi người, nhưng lại trình bày được cho chúng ta “một Don
Bosco đích thực, bằng xương bằng thịt” quả vẫn còn rất hiếm ở
Việt nam, đang khi tên và hình ảnh của Don Bosco thì lại được
rất nhiều người Việt Nam biết đến. Do đó qua những học tập
và dịch thuật về Don Bosco hiện có, chúng tôi cố gắng cho
xuất bản toàn bộ cuốn “Don Bosco, Một Tiểu Sử Mới” của cha
Teresio Bosco sang tiếng Việt, để chúng ta có thể tiếp thu lấy
một linh đạo rất hợp thời để sống, và cũng để mọi thành phần
trong gia đình Salêdiêng, cách riêng các Salêdiêng, Con Đức
Mẹ Phù Hộ, các Cộng Tác Viên Salêdiêng, và tất cả các bạn
hữu v.v...., các tu sinh, học sinh, sinh viên nữa có thể đọc để
bước đi theo lời mời gọi của Don Bosco: “Các con hãy dấn

1.4 Page 4

▲back to top
thân làm việc cho giới trẻ nghèo và bị bỏ rơi. Các con hãy sống
cho Chúa Giêsu. Các con hãy quyết đồng hành cùng Đức
Maria Phù Hộ. Các con hãy nên những Kitô hữu tốt và những
công dân lương thiện!”.
Don Bosco còn có một bí mật đặc biệt: Đó là đời sống kết hiệp
thâm sâu cùng Thiên Chúa. Tác giả là cha Teresio Bosco
khiêm cung nhận định rằng bí mật đó chúng ta chỉ có thể hiểu
được khi đi sâu vào vào đời sống nội tâm được dấu ẩn kỹ
lưỡng của ngài.
Chúc bạn lần dở những trang sách này với lòng tri ân và yêu
mến Don Bosco, quyết tâm thụ lãnh gương sáng và lời giáo
huấn của ngài, nhất là trong lãnh vực giáo dục giới trẻ.
Chúc bạn thành công!
Xuân Uyển SDB

1.5 Page 5

▲back to top
NƯỚC Ý VÀO NĂM 1848
THỜI KỲ DON BOSCO BẮT ĐẦU HOẠT ĐỘNG MẠNH

1.6 Page 6

▲back to top
Chương 1
XA NHÀ LÚC 12 TUỔI
Tối hôm ấy, trong gian bếp, họ nhai bánh chưng với những lời
lẽ cay nghiệt, những từ gây nhức nhối. Antôn nhìn Gioan với
một cuốn sách, như thường lệ, đặt bên đĩa ăn của cậu, hắn cất
cao giọng hơn:
"Tao thì, cuốn sách ấy, tao chỉ có quăng vào bếp mà thôi!"
Margarita, bà mẹ, lại thêm một lần nữa, ra sức dàn xếp mọi
chuyện:
Gioan nó cũng lao động như mọi người vậy. Nếu sau đó nó
muốn đọc sách, thì có mắc mớ gì con?
- Có mắc mớ con ở chỗ là căn nhà này chính nhờ một tay con
mà nó mới đứng vững được. Thằng này phải còng lưng cày sâu
cuốc bẫm. Và thằng này không muốn chu cấp cho một tên công
tử vườn đi đến nơi khác: sống đế vương bỏ bọn này lại ở đây
húp cháo bột ngô.
Gioan cãi trả kịch liệt. Lời lẽ thì cậu thiếu gì, và cậu đâu phải
loại người sinh ra chìa hết má này đến má kia cho ai đó muốn
làm gì thì làm. Antôn xuất chiêu như vũ bão.
Hoảng hồn, Giuse đứng nhìn trân trối. Mẹ Margarita gắng sức
len lách vào giữa hai anh em nhưng Gioan vẫn không thoát
khỏi trận đòn thù đã thành quen lệ, mà còn tàn bạo hơn thế nữa.
Mười hai năm tuổi của cậu làm sao mà địch lại nổi với mười
chín năm tuổi của Antôn.
Nằm trên giường, Gioan xụt xịt khóc, vì tức nhiều hơn là vì
đau. Không xa đó, mẹ cậu cũng khóc. Có lẽ đêm nay bà sẽ
không sao chợp mắt được.

1.7 Page 7

▲back to top
Sáng hôm sau, bà đã hạ một quyết tâm và đã nói với Gioan
những lời lẽ xót xa nhất đời mình:
- Tốt hơn là con nên đi khỏi nhà. Antôn hết chịu nổi con nữa
rồi, hắn có thể làm khổ con.
- Nhưng con đi đâu, hả mẹ?
Gioan chết điếng trong lòng; Mẹ Margarita cũng vậy. Bà nói
với con về các nông trại nằm trong khu vực Murialdo và
Monccuco:
"Họ đều quen biết mẹ. Họ sẽ cho con công ăn việc làm, ít ra là
tạm bợ ít lâu. Sau đó, thủng thẳng rồi mình sẽ tính".
Một tay nải trong tuyết lạnh
Trong ngày, bà chuẩn bị cho con một tay nải nhỏ, với vài cái
áo sơ mi, hai cuốn sách học của cậu và một ổ bánh nhỏ. Lúc ấy
đang là tháng hai dương lịch, tuyết và băng giá phủ kín mặt đất
và các ngọn đồi quanh vùng.
Gioan lên đường ngay sáng hôm sau. Mẹ Margarita đứng lại
một mình nơi ngưỡng cửa nhìn theo cậu, ra dấu cho cậu, cho
tới khi tuyết trắng che khuất chú bé di dân của bà.
Cậu đến trình diện tại các nông trang mà thân mẫu đã chỉ cho
mình. Người ta cho cậu biết là không có việc làm nào cho một
chú bé còn non choẹt. Đến trưa thì cả ổ bánh nhỏ lẫn mọi hy
vọng của cậu bé đều đã tiêu tan. Giờ đây, cậu chỉ còn có nước
ghé thăm gia đình Moglires. "Con hãy hỏi ông Lu-y", mẹ cậu
đã dặn thế.
Cậu dừng chân trước cổng dẫn vào sân; một người đàn ông
đứng tuổi đang bận đóng cổng, nhìn chòng chọc ngay mặt cậu:
- Tìm gì vậy, hả chú bé?

1.8 Page 8

▲back to top
- Cháu đang tìm việc làm.
- Lại còn thế nữa chứ! Thì cứ tìm đi! Hẹn gặp lại nhé! …
Và ông tiếp tục kéo cánh cổng nặng trịch để mong đóng cứng
lại. Gioan gom hết những chút can đảm cuối cùng của mình:
"Cháu cần phải gặp ông Lu-y".
Cậu bước vào. Gần lối vào, gia đình Moglires đang tước những
sợi lạt mây để cột các cây nho. Lu-y Moglires, chàng trại chủ
hai mươi tám tuổi, nhìn cậu với vẻ ngạc nhiên.
- Cháu tìm ông Lu-y
- Là ta đây.
- Mẹ cháu sai cháu đến. Mẹ đã bảo cháu hãy đến nhà ông để
làm lao công chuồng bò.
- Nhưng sao lại đuổi ra khỏi nhà một thằng nhóc như cháu?
Mà, mẹ cháu là ai chứ?
- Margarita Bosco. Anh Antôn làm dữ với cháu, vì vậy mẹ
cháu mới bảo cháu đi tìm một chân làm đầy tớ.
- Rõ tội cho cháu, lúc này đang là mùa đông. Kẻ ăn người làm,
mãi đến cuối tháng ba chúng tôi mới mướn. Cháu hãy kiên
nhẫn và hãy quay trở về nhà đi.
Vừa nản vừa mệt. Gioan cứ mặc cho những dòng nước mắt
tuyệt vọng tuôn rơi lã chã.
Ông hãy giữ cháu lại, cháu van ông. Ông đừng trả lương cho
cháu, nhưng xin đừng đuổi cháu về nhà. Thế này nhé - cậu nói
tiếp với sự táo bạo nảy sinh từ nỗi bất hạnh - cháu sẽ ngồi bệt
xuống đây và cháu sẽ không nhúc nhích nữa. Ông muốn làm gì
thì làm, nhưng cháu, cháu nhất định không nhúc nhích.

1.9 Page 9

▲back to top
Vừa xụt xịt khóc, cậu vừa bắt đầu lượm những cọng mây vung
vãi và xếp gọn lại.
Bà Dorothea, người phụ nữ tuyệt vời ở cái tuổi hai mươi lăm,
thấy tội nghiệp cho cậu bé:
"Giữ nó lại đi, anh Lu-y. Mình cứ thử xem sao; cho dẫu chỉ
trong vài ba hôm".
Cả Têrêxa, một cô gái mười bốn tuổi, cũng động lòng trắc ẩn,
cô nói: "Con nay đã khá lớn, có thể ra đồng làm việc với ba
má. Chú bé này dư sức lo việc thay con ở chuồng bò".
Chính nhờ cách đó mà tháng Hai năm 1827, Gioan Bosco đã
bắt đầu làm việc với tư cách lao công chuồng bò. Họ Moglires
là một gia đình nông dân khá giả, dù ai nấy đều cật lực lao
động từ sáng sớm đến tận chiều tối. Họ làm việc đồng áng:
vườn nho và ruộng rẫy. Họ có nuôi mấy con bò đực và bò cái.
Họ cùng đọc kinh cầu nguyện với nhau. Tối đến, quanh bếp lửa
hồng, cả gia đình quây quần lần hạt. Chúa nhật, ông Lu-y dẫn
mọi người đi dự thánh lễ do cha xứ Phanxico Cottino cử hành
tại Monccuco.
Nghề của Gioan, lao công chuồng bò, không có chi là nhục
nhã, cũng chẳng phải là ngoại lệ. Trong các nông trại quanh
vùng, vào khoảng cuối tháng ba, người ta có thể bắt gặp hàng
chục những lao động nhỏ tuổi như cậu. Đây là con đường bình
thường vẫn được theo đuổi bởi đông đảo trẻ em nhà nghèo.
Hằng năm, cứ đến lễ Truyền tin (25 tháng 3), các ông chủ lại
đảo qua các làng mạt và đến các khu họp chợ để tuyển dụng
các trẻ em làm mướn cho đến hết năm: các lao động thời vụ và
kiếm ăn thêm. Tám tháng lao động cực nhọc (từ tháng Tư đến
tháng Mười Một) để đổi lấy miếng ăn, chỗ ở và bốn "lires" tiền
quần áo.

1.10 Page 10

▲back to top
Cậu bé lao công Gioan Bosco tuy vậy không giống với các lao
động nhỏ tuổi khác. Cậu còn trẻ khác thường (thiếu sáu tháng
nữa cậu mới đầy mười hai tuổi) và, ngoài ra cậu đang ấp ủ
trong lòng một giấc mơ: một giấc mơ đích thực, hình thành
giữa đêm hôm khuya khoắt, lúc mắt mũi nhắm nghiền. Chính
cậu đã đích thân kể lại như sau:
Giấc mơ dự báo tương lai
"Năm lên chín tuổi, tôi đã mơ một giấc mơ mà nó đã khắc sâu
vào đầu óc tôi suốt đời. Trong mơ, tôi thấy hình như lúc ấy
mình đang ở gần ngôi nhà của gia đình chúng tôi trong một cái
sân rộng trên đó qui tụ một đám đông, trẻ em đang chơi đùa.
Một số thì cười giỡn, rất nhiều đứa chửi bới om sòm. Khi nghe
những lời tục tĩu ấy, tôi liền lao ngay vào giữa bọn chúng, đấm
đá loạn xạ để bắt chúng câm họng.
Đúng lúc ấy, xuất hiện một người đàn ông oai vệ, phục sức
theo kiểu quý tộc. Diện mạo ông ta chói sáng đến nỗi tôi không
sao nhìn ngay mặt ông ta được. Ông gọi tên tôi và bảo tôi:
"Không phải nhờ đánh đấm, nhưng chính là nhờ sự dịu hiền và
nhờ đức ái mà con sẽ phải biến chúng thành bạn của con. Vậy
con hãy bắt đầu bằng cách nói với chúng về sự xấu xa của tội
lỗi và về giá trị của đức hạnh".
Run sợ, tôi trả lời rằng mình chỉ là một đứa bé ngu dốt đáng
thương. Lúc ấy, bọn trẻ chợt ngừng đánh lộn và gào la, đến
xúm quanh người đang nói. Làm như chẳng còn biết mình đang
nói gì nữa, tôi đã hỏi:
- Ông là ai mà lại truyền cho con phải làm những việc bất khả
thi như vậy?
- Chính vì những việc ấy dường như là bất khả thi đối với con
nên con sẽ phải biến nó thành khả thi bằng cách vâng lời và
bằng cách tiếp thu khoa học.

2 Pages 11-20

▲back to top

2.1 Page 11

▲back to top
- Làm thế nào mà con tiếp thu nổi khoa học?
- Ta sẽ cho con một Bà giáo. Dưới sự chỉ đạo của Bà, con sẽ có
thể trở nên thông thái.
- Nhưng ông là ai?
- Ta là con trai của người phụ nữ mà mẹ con đã dạy con cầu
khẩn ba lần mỗi ngày. Tên của ta, hãy hỏi mẹ ta ắt con sẽ rõ.
Tiến lại gần tôi đang hết sức hoang mang, Bà ra dấu cho tôi
bước tới và nắm tay tôi với vẻ nhân ái:
- Coi kìa! Bà bảo.
Mở mắt nhìn, tôi thấy bọn trẻ đã biến đâu hết. Ở chỗ chúng
đứng hồi nãy, tôi thấy hàng đàn hàng lũ nào dê con, nào chó,
nào mèo, nào gấu và nhiều thú vật khác.
"Đó là lãnh địa của con! Đó là nơi mà con sẽ phải làm việc.
Hãy trở nên khiêm tốn, can trường và dũng mãnh; và những gì
con thấy diễn ra lúc này cho bầy thú ấy, con sẽ biến nó thành
hiện thực với các con cái của ta".
Tôi ngó lại và đột nhiên tại chỗ các thú vật hoang đã xuất hiện
bao nhiêu là những chú chiên hiền lành đang đùa giỡn, chạy
nhảy, kêu be be quanh người Đàn ông và Bà nọ như để tỏ lòng
tôn kính hai vị ấy vậy.
Thế là, vẫn trong giấc mơ, tôi bắt đầu khóc ấm ức và xin Bà nọ
vui lòng giải bầy một cách sáng sủa hơn, vì tôi không hiểu mọi
chuyện ấy có nghĩa lý gì.
Bà đặt tay lên đầu tôi và nói:
"Con sẽ hiểu cả, khi tới thời tới lúc".
vừa dứt lời thì một tiếng động đã khiến tôi tỉnh giấc. Tôi
bàng hoàng choáng váng. Tôi có cảm tưởng tay mình nhức

2.2 Page 12

▲back to top
nhối vì bao cú đấm mà mình đã ban phát, và mặt tôi rất ê ẩm vì
những cú tát tai mà bọn nhóc ấy đã tặng lại tôi.
Sáng hôm sau, tôi đã thuật lại giấc mơ, đầu tiên là các anh trai
tôi khiến họ đều cười rộ, rồi cho bà nội. Mỗi người đều ra cách
giải đoán của mình. "Em sẽ trở thành một mục tử chăn nuôi
chiên cừu, anh Giuse nói, "Thằng ăn cướp", Antôn độc địa chửi
bóng chửi gió. Mẹ tôi: “Biết đâu con lại chẳng trở thành linh
mục". Chính bà nội là người phát biểu nhận định dứt điểm:
"Hơi đâu mà bận tâm với những giấc mơ". Tôi nhất trí với bà
cụ, thế nhưng tôi vẫn không sao dẹp được mọi chuyện ấy ra
khỏi đầu óc của mình.
Tất cả những năm tháng tiếp nối sau đó đều chịu ảnh hưởng
sâu đậm của giấc mơ này. Mẹ Margarita đã hiểu (và Gioan
cũng đã hiểu rất nhanh như vậy) rằng giấc mơ ấy đã chỉ ra một
hướng đi.
180 trang đầy những kỷ niệm
Khi được 58 tuổi, hầu như chẳng ai còn nhớ đến những chuyện
gì đã xảy đến với mình năm chục năm trước. Nhưng hầu như ai
nấy đều nhớ rõ như thể mới xảy ra hôm kia hôm kìa những
năm mình mới lên chín, lên mười một, mười lăm tuổi. Ta vẫn
còn thấy ở hai đầu gối, lớp vỏ xù xì của những thân cây mà
mình đã leo trèo trước kia.
Tưởng như chỉ mới hôm qua mình đã đụng vào mớ lông ấp của
chú chó đang nhảy tung tăng kế bên mình trong những cuộc
chạy đua như xé gió.
Khi được năm mươi tám tuổi, theo lệnh của Đức Giáo Hoàng,
Don Bosco đã viết lịch sử những thập niên đầu tiên của đời
mình. Với ký ức phi thường khác nào một máy camera thu lại
những hình ảnh (hơi kém "lôgíc" nhưng rất ư "thính thị") ngài
đã ghi kín đáo ba cuốn tập dầy cộm (180 trang).

2.3 Page 13

▲back to top
Về năm tháng, chính ngài hơi lúng túng, nhưng các biến cố,
các kỷ niệm, các tình tiết đều giữ được vẻ tươi mát và đầy sức
sống.

2.4 Page 14

▲back to top
Chương 2 :
NHỮNG BI KỊCH NHỎ VÀ LỚN
Margarita Occhiera, quê ở Capriglio, đó là tên của mẹ tôi, còn
Phanxicô là tên của cha tôi. Họ đều là dân quê và nhờ vào việc
làm và sự tiết kiệm, họ đã làm ăn sinh sống một cách lương
thiện.
Gioan Bosco chào đời ngày 16 tháng 8 năm 1815. Mẹ cậu đặt
tên cho cậu là Giuanin [Gioan bé nhỏ của mẹ], cách gọi tắt tên
Giovanni, rất thân quen trong toàn xứ Piemonte.
Cái chết của người cha là kỷ niệm đầu đời của cậu. Phanxicô
Bosco đã mua một ngôi nhà nhỏ và vài mảnh đất nhỏ để canh
tác. Nhưng, để nuôi năm nhân khẩu thường trú tại nhà của
mình, ông còn phải làm mướn tại nhà ông chủ giàu có ở lối
xóm.
Một buổi chiều tháng 5 năm 1817, mình mẩy ướt đẫm mồ hôi
vì vừa từ ngoài đồng về, ông đã sơ ý mò xuống hầm rượu của
nhà chủ. Vài giờ sau, một cơn sốt dữ dội đã đốn ngã ông: viêm
phổi kép, chắc vậy. Bốn ngày sau, ông đã bị tử thần rước đi,
hưởng dương được 33 năm.
"Tôi chưa đầy hai tuổi, Don Bosco kể lại, hồi cha tôi lìa đời và
tôi thậm chí còn không nhớ nổi mặt của ông nữa. Tôi chỉ còn
nhớ những lời nói của thân mẫu: "Thế là con mồ côi cha rồi,
Giuanin [Gioan bé nhỏ của mẹ] ạ". Mọi người đã ra khỏi phòng
đặt linh cữu, nhưng riêng tôi vẫn cố lì ở lại. "Đến đây nào,
Giuanin [Gioan bé nhỏ của mẹ]", mẹ tôi ôn tồn năn nỉ. Tôi đáp
lại: "Nếu cha không ra, con cũng không ra luôn". "Thôi chứ, ra
đây đi con, con của mẹ, con đâu còn cha nữa". Nói xong những
lời này, người đàn bà thánh thiện vừa òa lên khóc vừa lôi tôi
theo. Thấy mẹ khóc, tôi cũng khóc. Một đứa con nít mới bằng
ấy tuổi đầu thì đã hiểu quái gì chứ? Nhưng câu nói ấy "thế là

2.5 Page 15

▲back to top
con mồ côi cha rồi" đã mãi mãi lưu lại trong ký ức tôi. Đây là
biến cố đầu tiên trong cuộc sống mà tôi còn nhớ được".
Một thời vụ xui xẻo
Kỷ niệm thứ hai của Gioan, đó là kỷ niệm về nạn đói phải chịu
trong năm ấy.
Thôn xóm nhỏ trong đó có ngôi nhà của gia đình Bosco được
gọi là xóm Becchi. Mười nông trại nằm rải rác trên một vùng
đất dài thòng và nhô cao giữa một khung cảnh đồng quê bao la
bát ngát và nhấp nhô như sóng gợn, với những vườn nho và
những rừng cây. Xóm Becchi là một phần của địa phương
Murialdo, nằm cách xa năm cây số thủ phủ của quận
Castelnuovo d'Asti.
Năm 1817, vùng đồi núi Montferrat (Casteluovo nằm ở ngoại
vi phía nam của vùng Montferrat) đã phải chịu, cũng như toàn
xứ Piemonte, một cơn túng bẫn khắc nghiệt. Những trận băng
giá của mùa xuân đã được tiếp nối bởi một vụ nắng hạn dài vô
tận. Mùa màng đều bị thất thu.
Tại các vùng nông thôn, thế là xảy ra nạn đói, một nạn đói đích
thực, đến nỗi người ta bắt gặp nhiều kẻ ăn xin gục chết dưới
các kênh mương, miệng còn ngậm nắm cỏ chưa kịp nhai nuốt.
Một tư liệu thời ấy mô tả Torino, kinh đô của xứ Piemonte, bị
xâm lấn bởi một cuộc di dân hết sức quy mô. Những đoàn
người dài dằng dặc, tiều tụy và rách rưới, lũ lượt kéo nhau rời
bỏ vùng nông thôn; từ các thung lũng và các vùng đồi núi đổ
xô về phía thành đô. Những nhóm gia đình đến cắm dùi trước
các giáo đường và các dinh thự để xin của bố thí.
Chính trong cái năm gian khổ ấy, Mẹ Margarita đã phải oằn vai
gánh vác toàn bộ giang sơn của người chồng quá cố. Thường
trú trong ngôi nhà là bà mẹ chồng (tức mẹ già của Phanxicô)
ngồi chết dí trên chiếc ghế của kẻ bại liệt, Antôn (chín tuổi),

2.6 Page 16

▲back to top
đứa con trai của đời vợ trước của Phanxicô, và hai đứa con nhỏ
của bà: Giuse và Gioan (bốn tuổi và hai tuổi). Là dân quê thất
học, bà đã tỏ rõ trong suốt thời kỳ ấy phẩm chất chủ lực của
mình, nghị lực của cá tính của bà.
"Mẹ tôi đã cung ứng của ăn cho gia đình bao lâu bà còn có để
cho, Don Bosco thuật lại, rồi bà giao một số tiền cho một người
hàng xóm. Ông này liền tìm đến những khu họp chợ khác nhau,
nhưng không sao mua được bất cứ thứ gì, dù là với giá đắt như
vàng. Hai hôm sau, ông trở về, vào lúc chiều tối, được mong
đợi với tất cả sự nôn nóng. Khi ông ta trả lại tiền, miệng giải
thích là mình chẳng mua được thứ gì cả, nỗi kinh hoàng đã đổ
ập xuống trên đầu chúng tôi. Suốt ngày hôm ấy chúng tôi chưa
có miếng nào dằn bụng. Mẹ tôi, không hề mất bình tĩnh, liền
tuyên bố: "Lúc lâm chung, Phanxicô đã dặn dò mẹ hãy tin
tưởng vào Chúa. Chúng ta hãy quỳ gối và cầu nguyện".
Sau một lời nguyện ngắn, bà đứng lên và thêm: "Bệnh quỷ đã
có thuốc tiên, trong những trường hợp túng quẫn, cần áp dụng
những biện pháp mạnh". Và với sự tiếp tay của Bernald
Cavallo, bà đi xuống chuồng bò, hạ thịt một con bê, nấu nướng
một phần cho chúng tôi ăn. Lúc ấy chúng tôi đều đã lả người vì
đói. Những ngày sau đó, bà đã mua được từ phương xa một số
lúa gạo, mà bà phải trả với giá cắt cổ.
Cho mãi đến mấy thập niên gần đây, trong các gia đình dân quê
ở Piemonte, thịt một con bê vốn là một hành động tuyệt vọng.
Con bê ấy, mà người ta vỗ béo trong chuồng, quả thật là một
vụ đầu tư mà khi đem ra bán ở chợ, sẽ có thể cho phép họ
đương đầu với một hoàn cảnh khó khăn, chẳng hạn trong
trường hợp đau yếu. Hạ thịt nó, chính là chịu để mất khoản dự
trữ tối hậu của gia đình.
Một biến cố sẽ làm thay đổi cục diện thế giới

2.7 Page 17

▲back to top
Cái chết, nạn đói, sự bất an - những kỷ niệm đầu đời của một
cậu bé sẽ trở thành một người cha cho những khối lượng trẻ
mồ côi, và trong các nhà của ngài, sẽ cung cấp cơm bánh cho
vô số các thanh thiếu niên nghèo.
Bi kịch nhỏ của gia đình Bosco, trên một ngọn đồi hẻo lánh, đã
góp thêm vào tấn bi kịch lớn đã tựa cơn vũ bão làm đảo lộn
Châu Âu và cả nước Ý trong những thập niên trước đó.
Hai mươi năm trước (1789), ở Paris, đã bùng nổ cuộc cách
mạng Pháp, một biến cố sẽ làm biến đổi cục diện thế giới.
Chúng tôi không có ý định phủ nhận lịch sử của cuộc cách
mạng đó, nhưng chúng tôi cũng cho rằng cần thiết phải dò tìm
ở đó một số khía cạnh đã có một ảnh hưởng sâu sắc tới tận
cuộc sống của Don Bosco.
Trên toàn cõi Châu Âu, không khí lúc ấy đã bỗng nhiên trở
nên quá tải bởi những cải cách và những kỳ vọng. Ở Ý cũng
dội lại những âm vang của các chuyển biến diệu kỳ. Sau bao
thế kỷ xã hội hóa đá dưới sự thống trị tuyệt đối của nhà vua và
của bọn quý tộc, nước Pháp đã nổ tung. Giới trưởng giả và
nhân dân đòi hỏi sự thừa nhận các quyền lợi của họ và sự bãi
bỏ những đặc quyền đặc lợi của giới quý tộc và của hàng giáo
sĩ cao cấp. Các từ "tự do" và "bình đẳng" không còn phải thì
thầm nữa, mà đã được gào to lên giữa thanh thiên bạch nhật.
Cũng như trong mọi thời điểm có những đổi thay tận cốt lõi,
những quyết định tuyệt vời rất chính đáng đã xen lẫn với các
vụ bạo động lãng nhách và độc đoán.
Các nhà trưởng giả lớn đã lèo lái cuộc cách mạng sao cho
quyền bầu cử được dành riêng cho các chủ nhân ông: "Sự can
thiệp vào các quyết định của chính phủ đến từ phía nhân dân đã
vô học thức lại không biết tự chủ, họ tuyên bố, sẽ chỉ dẫn đến
những sự quá lố".

2.8 Page 18

▲back to top
Cách mạng, do sự kiện ấy, đã bãi bỏ mọi độc quyền, trừ độc
quyền của sự giàu có. Giới trưởng giả đã đạt được quyền tự do,
còn dân nghèo thì ai nghèo vẫn hoàn nghèo.
Song song, người ta đã tiến hành một vụ "bài trừ Thiên Chúa
Giáo" trên một quy mô rộng lớn: cấm việc phụng thờ, hủy diệt
các ảnh tượng Kitô giáo, bách hại các linh mục, lấy việc "tôn
thờ lý trí" thay thế cho việc thờ phượng Thiên Chúa (với những
đoàn người mang mặt nạ lố bịch kéo vào tận bên trong nhà thờ
Đức Bà ở Paris).
Châu Âu nhìn xem, sững sờ. Các biến cố ở Pháp có vẻ, trong
suốt mấy tháng đó, như là những vụ biểu dương chứng điên
khùng tập thể; ngay cả những người dấn thân hăng say nhất, đã
từng có cảm tình với cách mạng ngay từ những ngày đầu, cũng
cảm thấy bàng hoàng sửng sốt.
Những năm tiếp sau đó, khi người ta nhắc đến cách mạng với
nỗi sợ hãi, chính đó là lúc người ta nghĩ đến sự khủng bố ở
Paris. Dưới cụm từ đầy khinh miệt "cách mạng dân chủ" người
ta sẽ hiểu là "sự bứt xiềng hung bạo và hỗn loạn của đám tiện
dân".
Vị đại tướng 27 tuổi: Napoléon
Năm 1796, một quân đội của phe cách mạng đã đến nước Ý
dưới quyền chỉ huy của một vị đại tướng 27 tuổi, Napoléon
Bonaparte. Tại thung lũng sông Pô, ông đã chiến thắng quân
Áo qua bao trận đánh đẫm máu. Lính Pháp nói về tình huynh
đệ, về sự bình đẳng, về tự do. Bất chấp những bóng đen của sự
khủng bố, các từ trên đã làm thức dậy một sự hưng phấn rộng
lớn trong các thế hệ trẻ. Vương quốc Sardaigne (gồm các xứ
Piemonte - Savoia - Sardaigne) đã bị bãi bỏ. Nhà vua đã bị đưa
đi đày biệt xứ.

2.9 Page 19

▲back to top
Nhưng Napoléon là một thiên tài ưa gây rối. Hơn cả thắng lợi
của cuộc cách mạng, ông vẫn tiếp tục theo đuổi các thành công
ròng rã và áp sát của vinh quang quân sự.
Các biến cố bi thảm của những năm ấy tại Ý, trẻ em hiện nay
học được tại trường, lớp. Năm 1799, Napoléon đang ở Ai Cập;
liên quân Áo-Nga, một lần nữa, lại xâm lược miền Bắc Ý: trên
lưng những con ngựa nhỏ của vùng thảo nguyên, bọn Cosaque
(những bộ râu dài và rậm, những cây thương đầy đe dọa) lại
kéo vào các thành phố. Napoléon trở lại, và chiến tranh lại diễn
ra, gieo cơ cực đến những vùng nông thôn trù phú của đồng
bằng sông Pô.
Rồi Napoléon thẳng tay cưỡng đoạt tiền của và lính tráng từ
khắp mọi miền trên đất Ý. Tất cả là để phục vụ cho cuộc chiến
tranh du kích ở Tây Ban Nha và cho chiến dịch Nga; đất nước
xa xôi và huyền bí mà Napoléon sẽ xâm lược bằng cách cầm
đầu một quân đội lớn mạnh nhất trong mọi thời đại. Trong mùa
đông khắc nghiệt ở Matxcơva, đó là cuộc rã ngũ toàn diện và
cuộc rút lui thảm hại. Napoléon đã thấy gục chết quanh mình
600.000 người. Trong số đó, 25.000 người Ý, 20.000 người
trước đó đã bị giết tại Tây Ban Nha.
Từ ngày 16 đến ngày 19 tháng 10 năm 1818, tại bình nguyên
Leipzing, "trận đánh đa quốc gia" với quy mô rộng lớn đã đánh
dấu sự cáo chung của đại đế quốc Pháp và (trong đầu óc của rất
nhiều người) sự mai táng các lý tưởng của cách mạng.
Một lần nữa, từ trên dãy núi Alpes và vượt qua sông Tsonzo,
kéo xuống vùng châu thổ sông Pô, quân Áo, quân Đức, quân
Croatia. Tất cả đều hô hào là mình đến để "giải phóng nước
Ý", nhưng cũng như mọi quân đội giải phóng khác, không một
ai đã kêu gọi họ và họ đã tự đền bù cho mình bằng cách cướp
bóc vơ vét ở cả nông thôn lẫn thành thị. Sau cú giãy chết của
cuộc chiến tranh trăm năm và sau trận đánh ở Waterloo,

2.10 Page 20

▲back to top
Napoléon sẽ kết liễu đời mình trên một hòn đảo nhỏ ngoài khơi
Đại Tây Dương.
Cả Châu Âu lẫn nước Ý đều mỏi mệt, đầy dãy những cảnh
hoang tàn đổ nát và lũ trẻ mồ côi. Các vùng nông thôn đã bị
càn quét bởi chiến tranh và bị vét sạch dân cư do các vụ "tuyển
quân" nhằm trưng dụng lực lượng trai tráng để gửi họ đi phơi
thây trên những chiến trường xa xôi nào đó.
Nhân dân đã kêu gào "tự do" suốt bao năm dài, giờ đây chỉ còn
tìm kiếm hòa bình.
Chính trong bối cảnh của tấn bi kịch lớn ấy mà gia đình Gioan
Bosco đã sống trong năm 1817, vở bi kịch nhỏ của riêng họ, vở
bi kịch tuy có phần hạn chế nhưng rất ư là trĩu nặng.
Một ông Vua vặn cho đồng hồ lui lại 15 năm
Gioan Bosco sẽ học được qua các trang sách sử ký là mình đã
ra đời vào đúng lúc khai nguyên một thời đại mới, được gọi là
Trung hưng. Thời đại ấy đã mở màn vào ngày 1 tháng 11 năm
1814, với lễ khai mạc tại Vienna của đại hội các quốc gia chiến
thắng trong cuộc đấu tranh chống lại Napoléon. Đối với một
phần lớn lãnh thổ Ý, thời kỳ này sẽ kéo dài mãi tới năm 1847,
nghĩa là tới lúc bắt đầu cuộc đồng khởi chính trị của nước Ý,
được mệnh danh là "Risorgimento" (sự phục hưng).
Thời kỳ Phục hưng là một thời kỳ có nhiều chuyện ám muội
tầy trời. Các Quốc vương đã bị hạ bệ bởi cách mạng và bởi
Napoléon đều quay về, thể theo ý muốn của đại hội, ngồi trở lại
trên ngai vàng của họ và đòi, bằng vài nét bút, xóa bỏ 25 năm
lịch sử.
Nước Ý, trong buổi lễ thành Vienna, được chia làm tám phần,
như một chiếc bánh tráng: vương quốc Sardaigne (bao gồm các
xứ Piemonte, xứ Sardaigne, xứ Savoia, Nice và người ta coi
như thuộc quyền tiếp quản của xứ Genova), vương quốc

3 Pages 21-30

▲back to top

3.1 Page 21

▲back to top
Lombardo - Venise - (trực thuộc Áo), công quốc Modène, công
quốc Parme và Plaisance, đại thái công quốc Toscone, hầu tước
Lucca, các quốc gia của Giáo hoàng, vương quốc Nhị-Siciles.
Vittorio Emmanuel I quay trở lại Torino. Ông ngồi trong cỗ xe
ngựa xa hoa lộng lẫy, vây quanh là các nhà quý tộc ăn mặc
theo mốt chế độ cũ, với mái tóc giả bạc trắng có đuôi.
Quần chúng, dọc theo các đường phố, hồ hởi tung hô nhà vua.
Cư dân ở nông thôn chẳng mơ ước gì hơn là hòa bình. Nhưng
nền hòa bình ấy, các mái tóc giả bạc phơ của các nhà quý tộc
lại muốn đảm bảo nó bằng cách tái lập "mọi sự như trước kia".
Họ đòi làm ngơ trước những thực tế mới, tích cực mà bất chấp
bao chiến dịch đẫm máu của Napoléon, đã nẩy mầm và đã
được củng cố ở Ý.
Lịch sử đã đi con đường của nó và không một sự gì có thể làm
nó quay trở lui. Giới trưởng giả đã tự khẳng định như một giai
cấp mới trong xã hội. Hàng hóa và những con người lưu thông
trên hệ thống đường xá đã được xây dựng bởi các kỹ sư thời
Napoléon.
Trải qua hàng trăm năm, khối cư dân khổng lồ đã sinh ra, đã
sống và đã chết dưới cùng một chính quyền, trong cùng một
ngôi làng, bị hóa đá trong các thể chế kinh tài nhỏ bé của họ,
trong các tập tục ngàn đời của họ. Các đạo quân của Napoléon
đã phá vỡ tình trạng bất động. Việc di dân trong nội bộ quốc
gia, dẫu nó thường được điều động do những nguyên nhân bi
thảm, đã trở thành một hiện tượng quần chúng.
Trên các cỗ xe ngựa chở khách cũng du hành cả sách vở và báo
chí. Ít ai biết đọc nhưng khát vọng hiểu biết giờ đây đã là một
phẩm chất phổ biến: những kẻ biết đọc, dù không mấy đông
đảo, loan truyền rộng rãi các tin tức, các chân trời được mở
rộng thêm. Tại cuộc đại hội Lubiana, năm 1821, Francois IV de
Modène sẽ đưa ra lời báo động này: "Quyền tự do báo chí, sự

3.2 Page 22

▲back to top
nhân gấp các trường học, khả năng cho phép ai nấy đều được
tập đọc và tập viết, đó chính là hạt giống xấu mà từ đó nẩy
mầm các cuộc cách mạng".
Trong xứ Piemonte, nông nghiệp sắp mau chóng bắt đầu một
sự phát triển mới, nở rộ. Người ta đến hạ những rừng cây cuối
cùng trên các vùng đồng bằng cũng như trên các núi đồi. Nhiều
vùng rộng lớn đã trở thành có thể canh tác. Hàng ngàn cây dâu
đã được trồng, nhờ đó đẩy mạnh sự bành trướng việc nuôi
tằm.
Đột nhiên, từ mọi phía, sắp xuất hiện những cơ sở sản xuất,
những xưởng máy, những máy để nâng những kiện hàng lớn.
Nền công nghiệp sắp được tổ chức, giá cả được ổn định.
Vittorio Emmanuel đệ nhất, ngay hôm sau ngày hồi hương, đã
bãi bỏ các đạo luật của 15 năm trước đó và phục hồi hiệu lực
của các đạo luật ban hành trước thời Napoléon. Các nhà quý
tộc và hàng giáo sĩ cao cấp lại vãn hồi được toàn bộ các đặc
quyền của họ. Đùng một cái, giới trưởng giả đã bị mất đi rất
nhiều quyền lợi mà họ đã phải trầy da tróc vẩy mới dành được.
Hậu quả ra sao? Đang khi nhà vua vặn ngược đồng hồ của
mình cho chậm lại cả mười lăm năm, thì các nhà trí thức
trưởng giả, như Silvio Pellico, lo di tản tới Milan. Những người
trẻ xuất thân từ các thế giá vọng tộc, lại vào hùa với phe đối
lập, gia nhập các hội kín và đặt hết hy vọng của mình vào một
hoàng thân rất trẻ tuổi của dòng họ Savoia-Carignan, tức Carlo
Alberto, kẻ xem ra rất quan tâm đến các thời đại mới.
Những tiếng dội của các biến cố trên đã dịu đi nhiều khi vang
tới vùng đồi núi Montferrat, nơi mà Gioan Bosco đang trải qua
những năm tháng nghèo khổ và êm đềm của tuổi thơ của mình.
Vương quốc Sardegna màu vàng nhạt

3.3 Page 23

▲back to top
Chương 3
NHỮNG NĂM SỐNG TRONG TỔ ẤM
Khi chồng từ trần, Margarita mới hai mươi chín tuổi. Còn quá
trẻ đối với gánh nặng mà bà sắp phải kề vai gánh vác. Nhưng
bà đã không bỏ phí nhiều ngày giờ để khóc than cho số phận
hẩm hiu của mình. Bà đã xắn cao tay áo và bắt tay vào việc.
Trong nhà có chén dĩa phải rửa, có cơm canh phải nấu, có nước
nôi phải đi xách về, có các phòng ngủ phải thu dọn cho ngăn
nắp. Mọi việc ấy đều phải làm vào các giờ rảnh rỗi, vì vào các
giờ lao động thì vấn đề là phải đi đầu để đôn đốc mọi việc,
ngoài đồng ruộng cũng như trong chuồng bò.
Cũng như các phụ nữ nhà quê khỏe mạnh khác ở quanh vùng,
bà xúc rơm rạ, cày bừa, gieo hạt, gặt lúa, cột lại thành từng bó,
đưa về sân phơi rồi đập lấy thóc gạo. Bà cuốc đất, nhổ cỏ ngoài
vườn nho, canh chừng thợ hái nho và chế biến thành rượu.
Đôi tay bà bận khâu vá, đan, thêu nhưng bà cũng biết dùng tay
để vuốt ve con cái. Bà là nông dân, nhưng trước hết, là mẹ của
các con mình. Bà nuôi dạy chúng vừa với sự dịu hiền vừa với
sự cứng rắn. Một trăm năm sau, các nhà tâm lý học sẽ viết rằng
để lớn lên đúng quy cách, nhất thiết đứa bé cần đến tình yêu
trầm tĩnh và tươi vui của người mẹ. Họ cũng sẽ phải nói rằng
thân phận mồ côi khiến đứa trẻ, về mặt tình cảm, dễ mắc phải
nguy cơ bị lệch hẳn về một phía: về sự xìu xìu ển ển nếu là trẻ
mồ côi mẹ, về sự cằn cỗi đầy lo lắng nếu trẻ bị mồ côi cha.
Mẹ Margarita đã bắt gặp ngay trong bản thân mình sự cân bằng
tự nhiên, giúp bà liên kết và vận dụng luân phiên sự cứng rắn
trầm tĩnh và nguồn vui làm lắng dịu.
Don Bosco, trong phong cách giáo dục của ngài, sẽ rập khuôn
theo mẹ rất nhiều.

3.4 Page 24

▲back to top
Một Đấng Vĩ Đại.
"Chúa thấy con" đã là một thành ngữ thường xuyên trên môi
miệng Margarita Occhiera. Bà để mặc con cái nô đùa trên đồng
cỏ kế bên nhà và bảo chúng trước khi chúng đến chơi ở đó:
"Hãy nhớ là Chúa thấy các con". Nếu bà quan sát thấy chúng
đang giận hờn vặt vãnh hoặc sắp sửa bịa ra một câu nói dối
nhằm che dấu tội lỗi: “Hãy nhớ là Chúa biết rõ mọi tư tưởng
của các con".
Nhưng bà đã không khắc vào tim con cái hình ảnh của một
Thiên Chúa luôn hằm hằm đe dọa. Nếu đêm đẹp trời và bầu
trời lấp lánh đầy sao nhằm đúng lúc chúng đang hóng gió trước
cửa, bà liền lên tiếng: "Chính Chúa đã dựng nên thế giới và đã
sắp đặt trên đó bao nhiêu là tinh tú". Khi trên các đồng cỏ, trổ
đầy hoa tươi, bà thì thầm: “Chúa đã tạo ra cho Chúng ta biết
bao cảnh đẹp!". Sau mùa gặt, sau mùa hái nho, lúc chúng đang
nghỉ xả hơi vì mệt nhoài vì vụ thu hoạch, bà nói: "Chúng ta hãy
đội ơn Chúa, Ngài đã rất nhân hậu với chúng ta. Ngài đã rộng
ban cho chúng ta lương thực hàng ngày".
Thậm chí, sau cơn dông với những "vòi rồng" đã san thành
bình địa tất cả, bà mẹ vẫn vận động các con suy gẫm: "Chúa đã
trao ban, Chúa đã lấy lại. Ngài biết rõ vì sao. Nếu Chúng ta ăn
ở gian ác, hãy nhớ rằng loài người không sao giỡn mặt được
với Chúa".
Kế bên mẹ hiền, kế bên các anh trai của mình, bên bà con
chòm xóm, Gioan đã quen dần với việc nhìn thấy một nhân vật
khác, Thiên Chúa, một nhân vật vĩ đại, vô hình nhưng luôn
luôn hiện diện và ở khắp mọi nơi: trên bầu trời, trên các ruộng
đồng, trên gương mặt những người nghèo khó, trong tiếng nói
của lương tâm nhắc bảo: "Ngươi đã làm tốt, ngươi đã làm bậy".
Một nhân vật mà nơi Ngài, mẹ cậu có một niềm tin vô biên và
không sao chối cãi được; một người cha nhân từ và chuyên

3.5 Page 25

▲back to top
chú, trao ban lương thực hàng ngày, tuy thỉnh thoảng cũng cho
phép xảy ra một số tai ương nhất định (cái chết của người cha,
mưa đá rơi xuống trên vườn nho) khó chấp nhận, nhưng "Ngài"
biết rõ vì sao và bấy nhiêu đó cũng đủ rồi.
Đánh khăng và đổ máu
Năm Gioan lên bốn hoặc năm tuổi thì mẹ cậu giao cho cậu ba
bốn cây đay ngâm nước đầu tiên trong đời để cậu tước thành
sợi, công việc chẳng đáng gì cả, nhưng dù sao vẫn là công việc.
Chính nhờ cách này mà cậu bắt đầu cống hiến phần đóng góp
khiêm tốn của mình cho gia đình, một cộng thể sống nhờ vào
lao động của mọi thành viên, bất kể già trẻ lớn bé.
Sau này, cậu tiếp tay với các anh trong những công tác phục vụ
phúc lợi của gia đình: chẻ củi, nhóm bếp bằng cách thổi thật
khéo lên mấy cục than hồng ủ dưới tro (nhằm tiết kiệm những
cây củi mồi, đầu có nhúng lưu huỳnh), xách nước, nhặt rau,
quét nhà, chà rửa chuồng bò, dắt bò ra đồng, canh chừng bánh
trong lò nướng …
Nhưng, sau những công việc lặt vặt (được kiểm soát bởi mẹ)
cầu liền phóng một mách đi chơi. Khoảng không, chẳng cần
tìm kiếm đâu xa: cùng khắp chung quanh, xa ngút ngàn là đồng
cỏ tiếp nối đồng cỏ. Bạn bè đang chờ sẵn: những đứa con trai
lực lưỡng, nhanh nhẹn với những gương mặt kệch cỡm và vô
duyên. Họ chia nhau đi lùng sục những hang chuột chũi, đi bắt
các tổ chim và đối đầu với nhau trong những trò chơi bất tận.
Một trong những trò chơi hào hứng nhất là trò đánh: bằng một
cây gậy, ta làm nẩy cao một khúc cây mà một đầu nhô lên khỏi
miệng lỗ phân nửa khúc và khi khúc cây đang ở trên không, ta
lại quất mạnh vào nó sao cho nó bay đi thật xa, càng xa càng ăn
nhiều điểm.

3.6 Page 26

▲back to top
Một chiều nọ, Gioan về nhà sớm hơn thường lệ. Máu me đầm
đìa trên mặt cậu. Trong một ván đánh khăng, cậu đã bị khúc
cây do một thằng bạn quất thẳng cánh bay trúng vào một bên
má. Mẹ Margarita rất lo lắng, vừa săn sóc vết thương cho con
vừa nói:
- Sớm muộn gì cũng có ngày con trở về nhà với một con mắt
đã lòi tròng. Sao con lại cứ chơi chung với lũ con trai ấy? Con
thừa rõ là chẳng một đứa nào trong bọn chúng là con nhà tử tế
cả mà!
- Nếu chỉ là để làm vui lòng mẹ thì con sẽ không trở lại chơi
với bọn chúng nữa! Nhưng mẹ có biết không? Một khi con
chơi chung với chúng, chúng tỏ ra đàng hoàng hơn nhiều. Có
một số từ mà chúng không văng ra nữa.
Mẹ Margarita để mặc cho cậu tiếp tục.
Sự can trường lớn nhanh hơn cả tầm vóc.
Gioan đã lên năm. Giuse bảy tuổi. Mẹ Margarita đã sai hai anh
em đi chăn một bầy gà tây. Đang khi đàn gà đuổi bắt dế, hai
anh em bầy trò chơi với nhau. Đột nhiên, đang lẩm bẩm đếm
ngón tay, Giuse bỗng lớn tiếng la hoảng vì thấy thiếu mất một
con gà tây.
Lo lắng, hai anh em chia nhau đi kiếm, chẳng thấy đâu hết. Gà
tây là một con vật lớn xác, đâu có thể "bốc hơi" như vậy được.
Khi bọc vòng một hàng rào cây, Gioan chợt phát hiện một gã
đàn ông. Cậu liền nghĩ "Chính hắn là kẻ đã ăn trộm gà!" Cậu
gọi Giuse và tiến lại gần một cách kiên quyết.
- Ong hãy trả lại cho chúng tôi con gà tây.
Kẻ lạ mặt nhìn cậu ra vẻ ngạc nhiên:
- Gà tây à? Nó đâu?

3.7 Page 27

▲back to top
- Chính ông đã bắt trộm nó. Hãy trả lại cho chúng tôi, bằng
không chúng tôi sẽ la làng "Bớ người ta! Ăn trộm!" và người ta
sẽ đuổi bắt để đập cho ông một trận nhừ xương.
Hai thằng nhãi ranh. Chỉ cần đét đít mỗi thằng một hai cái là đủ
để đuổi chúng chạy xa cả ba cây số. Nhưng quyết tâm của hai
thằng này khiến gã cảm thấy chột dạ. Có những nông dân đang
lao động gần đó mà hai thằng nhóc này lại gân cổ lên mà gào
thì ai mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra? Thế là gã liền lôi ra
khỏi hàng rào cả một cái bao bố và thọc tay vào kéo ra con gà
tây "đi lạc".
- Tao chỉ muốn giỡn chơi cho tụi mày đứng tim chút xíu thôi!
- Giỡn chơi kiểu ấy đâu có lương thiện, hai anh em vừa càu
nhàu vừa bỏ đi, ôm theo con gà mập ú.
Tối đến, như thường lệ, chúng báo cáo công tác trong ngày cho
mẹ.
- Các con đã trải qua một mối nguy hiểm.
- Sao vậy, hả mẹ?
- Trước hết, vì lúc ấy các con đâu biết chắc là ông ta có phải là
kẻ trộm hay không.
- Nhưng lúc ấy đâu có ai khác ở quanh quẩn gần đó.
- Điều ấy đâu đủ để kết tội một người là "ăn trộm". Với lại, hai
đứa con đều nhỏ, còn ông ta là một người lớn. Lỡ ra ông ta
hành hung các con thì sao?
- Nếu vậy, không lẽ chúng con phải để mặc cho ông ta ăn trộm
con gà hay sao?
- Can đảm thì không có gì là bậy. Nhưng chẳng thà chịu mất
một con gà còn hơn là bị ai đó thanh toán gọn.

3.8 Page 28

▲back to top
- Ừ hứ! Gioan lẩm bẩm. Mẹ nói đúng, mẹ ạ! Nhưng để mất con
gà thì thật uổng, nó mập ú à! …
Cây roi trong góc nhà
Mẹ Margarita là một phụ nữ rất hiền dịu, nhưng đầy bản lãnh
và mạnh mẽ. Bọn trẻ biết rằng nếu bà đã nói không, thì có
nhõng nhẽo mấy cũng không làm bà đổi ý được.
Trong một góc bếp, có cây roi: một cây gậy nhỏ có thể uốn
cong được. Bà không dùng đến nó, nhưng bà không bao giờ
quăng nó ra khỏi cái xó được dành riêng cho nó.
Một hôm, Gioan đã phạm lỗi nặng. Chắc là do hấp tấp muốn đi
chơi, cậu đã bỏ ngỏ cánh cửa chuồng thỏ và toàn bộ lũ thỏ nuôi
trong đó đã đào thoát ra các đồng cỏ quanh nhà. Đuổi bắt
chúng lại quả không phải là chuyện dễ. Quay trở vào gian bếp,
Mẹ Margarita đưa tay chỉ vào xó nhà:
- Gioan, đến lấy cây roi cho mẹ.
Cậu bé lấm lét rút lui về phía cửa.
- Mẹ tính làm gì với cái ấy?
- Cứ đem lại đây cho mẹ, rồi con sẽ rõ!
Giọng nói đầy kiên quyết. Gioan cầm cây roi và đứng từ xa đưa
cho mẹ.
- Mẹ tính quất lên vai con chắc …
- Chứ sao! Sau khi con đã làm bậy, hành khổ mẹ tới mức đó.
- Mẹ ơi! Con sẽ không tái phạm nữa đâu.
Bà mẹ nở một nụ cười và cậu bé cũng vậy …
Nhân một ngày tiết trời oi ả, Gioan và Giuse, cả hai đều khát
khô cổ, vừa từ vườn nho trở về. Mẹ Margarita ra giếng, kéo lên

3.9 Page 29

▲back to top
một xô nước mát lạnh và dùng cái muỗng lớn bằng thau, múc
nước đưa cho Giuse uống trước.
Gioan nhăn mặt khó chịu. Cậu cảm thấy ghen tức trước sự đãi
ngộ ưu ái ấy. Khi mẹ chìa muỗng cho cậu uống, cậu ra dấu
không thèm. Mẹ Margarita chẳng nói chẳng rằng. Bà xách xô
nước vào bếp và đóng cửa lại. Lát sau, Gioan bước vào:
- Mẹ …
- Gì vậy?
- Mẹ cho cả con uống nữa chứ!
- Vậy mà mẹ tưởng con không khát.
- Xin lỗi mẹ.
- Thôi, được rồi. Và bà chìa ra, cả cho cậu nữa, một cái muỗng
đầy ắp nước.
Năm lên tám, Gioan đã là một cậu con trai dồi dào sức khỏe
với tiếng cười lanh lảnh. Hơi nhỏ con nhưng cứng cáp, cậu có
đôi mắt đen, mái tóc quăn và rậm chẳng khác gì lông cừu. Cậu
ham thích phiêu lưu và mạo hiểm. Không bao giờ cậu than
phiền về những vết trần xước ở hai đầu gối.
Cậu đã từng trèo cây bắt các tổ chim. Một hôm, cậu đã gặp xui.
Một tổ chim bạc má nằm sâu tuốt trong kẽ nứt của một thân
cây. Cậu thọc tay vào trong hốc cây, qua khỏi cùi chỏ, không
sao kéo tay ra được nữa. Cậu cố thử nhiều lần nhưng bên trong
cái ê tô quái quỷ ấy, cánh tay bắt đầu sưng vù lên. Giuse nãy
giờ vẫn đứng dưới gốc cây nhìn lên, vội chạy về nhà loan báo
hung tin cho mẹ. Bà Margarita đem thang tới, nhưng cả bà
cũng chẳng giải nguy được cho Gioan. Cần phải kêu một người
hàng xóm. Ông này chạy đến với cái đục thợ mộc trong tay.
Trong khi chờ đợi, mồ hôi rịn ra trên trán Gioan. Giuse, còn teo

3.10 Page 30

▲back to top
xoắn hơn cả đứa em, từ dưới la vọng lên "ráng chịu nghe em,
họ tới rồi kìa!".
Ông hàng xóm dùng "tạp dề" của bà Margarita quấn quanh
cánh tay cậu bé và bắt đầu đẽo cây, bảy hoặc tám cú đục đã đủ
để trả lại tự do cho cánh tay bị nhốt.
Mẹ Margarita không nỡ la rầy con. Cậu bé bẽn lẽn, tiu nghỉu
như mèo cụt đuôi. Bà chỉ bảo cậu:
- Đừng có làm mẹ phải đứng tim như vậy nữa nghe con!
Con quỷ trong kho chứa đồ cũ
Một tối mùa thu, hai mẹ con Gioan đang ở nhà ông bà nội ở
Capriglio. Trong bữa ăn tối, đại gia đình đông đúc quây quần
bên bàn ăn, nằm giữa khoảng tranh tối tranh sáng, chỉ hơi bị
khuấy loãng bởi ánh sáng nhạt nhòa của một ngọn đèn dầu leo
lét. Bỗng nhiên, người ta nghe một tiếng động lạ từ trên cao
vọng xuống. Tiếng ấy lặp lại một, hai, ba lần. Mọi người đều
nhìn lên, nín thở. Yên lặng được tái lập, rồi, lần nữa tiếng động
kỳ bí trên kho chứa đồ cũ lại vang lên, nối tiếp là tiếng trượt
dài y hệt như tiếng khò khè, ngộp thở. Mấy bà mấy cô vội đưa
tay làm dấu Thánh giá, trẻ con thì sà vào lòng mẹ mà núp.
Một bà cất tiếng kể lại, với những lời lẽ đắn đo thận trọng, là
xưa kia người ta cũng đã từng nghe, trong kho chứa đồ cũ,
những tiếng ồn kéo dài, những tiếng rên và những tiếng thét hãi
hùng.
"Quỷ đấy! Nó lại trở lại nữa rồi", miệng run rẩy thì thầm, trong
lúc tay bà thoắt vẽ một dấu Thánh giá.
Gioan phá tan sự yên tĩnh bằng một câu nói bình tĩnh:
"Con tin rằng đó chỉ là một con chồn chứ chẳng có ma quỷ gì
hết".

4 Pages 31-40

▲back to top

4.1 Page 31

▲back to top
Coi cậu như một thằng nhỏ xấc láo, "phạm thượng", người ta
nạt nộ bắt cậu câm họng. Và tiếng động ồ ề lại nổi lên, nối tiếp
là một tiếng cọ mình rên xiết.
Mọi ánh mắt, đầy khắc khoải lo âu, đều hướng lên trần nhà
đóng bằng ván, được dùng làm sàn gác cho kho chứa đồ cũ.
Lần thứ hai, bé Gioan lại phá tan sự yên lặng trong lúc từ trên
ghế nhảy xuống:
- Mình thử lên trên ấy coi xem nào.
- Mày điên hả? Margarita, nắm đầu nó lại! Ai đời lại đi đùa với
quỷ bao giờ!
Nhưng cậu bé đã bắt tay vào việc: vừa tìm được một ngọn đèn,
cậu bèn châm lửa, rồi quơ lấy một cây gậy. Mẹ Margarita bảo
con:
- Hay ta đợi đến mai, có lẽ tốt hơn chẳng?
- Mẹ à! Bộ cả mẹ cũng hơi sợ nữa hả?
- Bậy nào. Ta cùng đi coi thử xem sao.
Họ bước lên cầu thang bằng gỗ. Những người khác cũng nối
gót theo sau, một tay cầm đèn, tay kia lăm lăm gậy gộc. Gioan
đẩy cánh cửa kho chứa đồ cũ và giơ cao đèn để nhìn cho rõ
hơn. Một phụ nữ la hoảng, câu nói bị ngắt quãng từng chập như
bị một bàn tay vô hình nào chặn họng:
"Kìa, trong có..cái gì thế? thấ….ấy chưa?"
Ai nấy đều căng mắt nhìn. Một cái thúng đựng hạt giống bị lật
úp đang lắc lư, nhúc nhích, tiến tới. Gioan tiến lên một bước.
"Đừng, coi chừng! Đó là một cái thúng có quỷ nhập đấy!".

4.2 Page 32

▲back to top
Gioan nắm lấy miệng thúng và nhấc lên. Một chị gà mái thất
kinh, bị nhốt ở dưới đó, không biết đã mấy tiếng đồng hồ, lao
vụt ra như một quả đạn trái phá, miệng la oang oác.
Vây quanh Gioan, lúc này, ai nấy đều cười như nắc nẻ. Thì ra
con quỷ chỉ là một gã gia cầm. Cái thúng, nhẹ bâng, đã được
đặt chênh vênh dựa vào vách tường. Vì bên trong còn sót vài
hạt lúa mì kẹt giữa các nan lạt mây, một chị gà mái đã muốn
mổ lấy để ăn, nhưng chị đã làm thúng úp xuống ngay lưng và
nhốt chị trong đó. Vừa mệt vừa đói bụng, con vật xấu số đã cố
vùng vẫy để mong thoát được ra ngoài, lôi theo cái thúng đi
khắp trong kho chứa đồ cũ, đụng nhằm đủ thứ đồ đạc lỉnh kỉnh
trong đó, gây nên những tiếng động ầm ì và những tiếng trượt
dài trên sàn gác.
Vết dầu loang
Thứ năm tuần nào, Mẹ Margarita cũng đi chợ quận ở mãi
Castelnuovo. Bà mang theo hai cái thúng đựng đầy pho-mát, gà
và rau để bán. Bà quay về với vải vóc, đèn nến, muối và vài
món quà vặt cho các con, thường chạy và xuống đón mẹ băng
ngang qua các lối mòn khi vầng kim ô đã ngả bóng phía trời
Tây.
Một ngày thứ năm nọ, trong quá trình một ván đánh khăng bất
phân thắng bại, khúc cây cụt đã bay tuốt lên ngự trên mái nhà.
"Trên nóc tủ kê dưới bếp có một khúc cây khác, Gioan nói: để
em đi lấy cho".
Cậu phóng vội xuống bếp. Nhưng tủ quá cao đối với cậu và cậu
phải leo lên một cái ghế. Cậu cố nhón gót, vươn dài cánh tay và
... loảng xoảng! Hũ dầu ăn đặt trên nóc tủ rơi xuống nằm trên
nền gạch tàu của gian bếp và vỡ tan tành. Dầu ăn tràn lan lênh
láng trên nền gạch đỏ tươi.

4.3 Page 33

▲back to top
Đợi mãi không thấy em trở lại, Giuse lúc ấy vừa kịp chạy tới,
chứng kiến cảnh đổ vỡ, hoảng hồn đưa tay lên bụm miếng:
"Lần này thì, tối nay, mẹ sẽ …"
Hai anh em ra sức thu dọn gian bếp, những mảnh vỡ của cái hũ
sành đã được quét sạch trong chốc lát, nhưng vết dầu, không
sao chùi sạch, vẫn mỗi lúc một lan rộng, y hệt như nỗi lo phập
phồng trong lòng hai đứa trẻ.
Gioan đứng lặng người suốt nửa giờ đồng hồ. Rồi cậu lôi ra từ
trong túi một con dao nhỏ, tiến về phía hàng rào, chặt lấy một
cành cây hình dáng thanh thoát và uốn cong được, cậu liền
khởi công đẽo, gọt trong lúc miệng hát ê a một bài ca vui. Cả
đầu óc cậu cũng làm việc để tìm ra những lời lẽ mà cậu sẽ phải
thưa lại với mẹ tối nay.
Rốt cuộc, mặt ngoài của cây roi ấy đã được tô điểm đầy những
vết đẽo, gọt tạo thành những hình khắc nổi đẹp mắt.
Tối đến, hai anh em cùng nhau ra đón mẹ. Giuse, ngập ngừng,
bước chân từng bước.
Gioan, ngược lại, phóng như bay:
- Chào mẹ. Mẹ khỏe chứ, mẹ?
- Khỏe. Còn các con, mọi sự tốt đẹp cả chứ?
- Ừ hứ! Mẹ hãy coi nè. Và cậu đưa cho mẹ cây roi chạm trổ
tinh vi.
- Con đã làm gì vậy?
- Lần này thì con thật sự đáng bị mẹ cho ăn đòn. Con đã xui
xẻo làm bể hũ dầu ăn.
Cậu kể luôn một mạch từ đầu đến cuối tai nạn trong bếp rồi kết
luận:

4.4 Page 34

▲back to top
- Con đem cho mẹ cây roi này vì con thật đáng ăn đòn. Mẹ hãy
cầm lấy đi.
Cậu chìa cây roi ra và đảo mắt nhìn từ đầu đến cuối công trình
đẽo gọt của mình với những ánh mắt vừa hối hận vừa láu cá.
Mẹ Margarita quan sát thằng út một lát rồi nở một nụ cười. Và
Gioan bỗng bật cười lớn tiếng. Mẹ cậu dắt tay cậu và cả hai
tiến về phía ngôi nhà.
"Con có biết là con đã trở thành một tên láu cá số 1 không đấy,
hả Gioan? Mẹ lấy làm bực mình về chuyện hũ dầu, nhưng mẹ
lại hài lòng vì con đã không đến đón mẹ để kể lại một chuyện
gian dối. Lần sau, dù sao con cũng nên thận trọng, vì dầu ăn
đắt tiền lắm đó".
Gioan tiến tới và lúc này cậu đã thấy tan biến cơn giông tố mà
mình đã lo ngại suốt một ngày dài. Giuse đã lên mười, đã lớn
khôn hiền hòa và điềm đạm. Anh ta không năng động và cũng
không ham quậy phá như Gioan. Bản tính của anh là nhẫn nại,
cần cù, sáng tạo. Anh rất mực yêu mẹ và em trai của mình, và
anh cũng hơi ngán ông kẹ "Antôn".
Mẹ là mẹ của con, chứ không phải là một bà mẹ ghẻ
Antôn hơn Gioan những bảy tuổi và lúc nào hắn cũng tỏ ra là
một gã khép kín, cộc cằn và thô bạo.
Gặp dịp là hắn đánh đập các em một cách tàn nhẫn và mẹ
Margarita lại phải chạy tới lăn xả vào để giật chúng ra khỏi tay
hắn. Có lẽ hắn chỉ là một thằng con trai quá nhạy cảm mà hai
đại tang liên tiếp (chưa mãn tang mẹ đẻ, lại phải chịu thêm tang
cha) đã khiến hắn bị chấn thương nặng.
Hắn cảm thấy một thứ tình yêu chen lẫn sự ghen ghét đối với
mẹ Margarita, lúc yêu tha thiết, lúc lại tức giận lung tung. Khi

4.5 Page 35

▲back to top
bị quở trách vì tính hay thay đổi của hắn, hắn nắm chặt tay lại
và dứ lên, rồi nói với giọng ấm ức: “Mẹ ghẻ!”
Mẹ Margarita có thể đưa hắn lại với lẽ phải bằng cách tát mạnh
hai cú tát vào mặt hắn, như nhiều người mẹ ưa làm ngày nay.
Nhưng mẹ cảm thấy ghê tởm đánh dập một ai đó. Không bao
giờ mẹ giơ tay lên đánh hắn. Mẹ mạnh mẽ nhắc lại cho hắn:
“Antôn, mẹ là mẹ của con, chứ không phải là một bà mẹ ghẻ.
con hãy bình tĩnh lại và suy nghĩ kỹ. Con sẽ thấy là con sai khi
con suy nghĩ như vậy.”
Khi Antôn bình tĩnh trở lại, nó đi xin lỗi mẹ. Nhưng nó lại có
thể nổi nóng lên bất cứ lúc nào, khiến cho các em nhỏ của nó là
Giuse và Gioan khiếp sợ.

4.6 Page 36

▲back to top
Chương 4
NHỮNG NGÀY THÁNG BA
Cuộc sống của gia đình Bosco thật nghèo nàn. Trong số vài
nóc gia ở xóm Becchi, nhà của gia đình Bosco là khiêm tốn
hơn cả: ngôi nhà chỉ có duy nhất một tầng, vừa là chỗ ở, vừa là
vựa lúa, vừa là chuồng bò.
Những bao bố đựng ngô xếp trong bếp và sau một tấm liếp
mỏng, hai con bò cái nằm nhẩn nha nhai lại. Trên gác là các
phòng ngủ hẹp và âm u, nằm ngay dưới mái ngói.
Không phải là cơ cực mà là một cảnh nghèo đích thực: mỗi
người đều ráng chu toàn phần việc của mình và việc đồng áng
bao giờ cũng sinh lợi, không nhiều thì ít. Dù sao, có còn hơn
không. Bốn vách tường trống trơn, quét vôi trắng. Các bao bắp
không có nhiều lắm, nhưng nhờ tiêu thụ một cách dè sẻn, tằn
tiện, nên dù sao cũng tạm đủ dùng. Lũ bò cái vừa phải kéo xe,
vừa phải kéo cày, chỉ cung cấp rất ít sữa tươi, nhưng như người
ta thường nói: “Thừa no, ít đủ”.
Chính vì lẽ đó mà bọn trẻ trong nhà Bosco không hề vướng
mắc bởi nỗi buồn, vả lại càng không mắc phải chứng chống đối
quàng xiên. Ngay trong cảnh nghèo, người ta vẫn có thể cảm
thấy hạnh phúc, nếu biết nhẫn nhục an phận thủ thường.
Từ năm tám tuổi bước sang tuổi lên chín (1823-1824), Gioan
bắt đầu tham gia tích cực hơn vào các công việc của gia đình
và chia sẻ cảnh sống khó khăn và kham khổ với các người thân
của mình.
Họ lao động từ lúc mặt trời mọc cho mãi tới lúc mặt trời lặn,
mà vào mùa hè mặt trời lại thường mọc sớm. “Người ngủ
không bắt được cá”, mẹ Margarita nói với các con vừa thức
giấc lúc hừng đông. Và Gioan, có lẽ đã hơn một lần tự hỏi
kiếm đâu ra những con cá ngon lành ấy.

4.7 Page 37

▲back to top
Bữa điểm tâm buổi sáng là một bữa ăn hết sức đạm bạc: một
khoanh bánh mì khô và nước lạnh. Gioan tập cách cuốc đất, cắt
cỏ, cách sử dụng dao quắm, cách vắt sữa bò. Một nông dân
chính hiệu. Đi đâu cũng phải cuốc bộ. Trục lộ có xe ngựa chở
khách ở rất xa, trên đường đi Castelnuovo với giá rất mắc. Đêm
đến, mọi người lăn ra ngủ trên những ổ đệm bằng lá ngô chất
thành đống.
Đôi chân người Ăn mày
Nếu có ai ngã bệnh nặng trong một nhà hàng xóm, người ta
thường đánh thức bà Margarita. Họ biết rằng bà không khi nào
từ khước cứu giúp. Bà liền đánh thức một đứa trong các con để
đi kèm với mình.
“Ta đi thôi! Để làm một việc bác ái đó”.
“Làm một việc bác ái”, trong cụm từ đơn giản này, thời ấy
người ta bao gồm cái “giá trị” mà ngày nay chúng ta gọi là lòng
quảng đại, việc thiện, sự dấn thân phục vụ người khác, tình yêu
cụ thể, lòng vị tha.
“Vào mùa đông - Don Bosco nhớ lại - thường xảy ra là một
người ăn xin đến gõ cửa nhà chúng tôi. Bên ngoài tuyết rơi lả
tả; kẻ khó xin vào ngủ trên kho chứa đồ cũ. Mẹ Margarita trước
khi cho ông ta lên gác, dọn cho ông ta một dĩa canh nóng; sau
đó bà kiểm tra hai bàn chân của ông khách, thường thì đôi chân
ấy rất “dơ”. Đôi guốc mộc đã mòn khiến nước và đủ thứ dơ
dáy lọt vào. Bà không có sẵn một đôi guốc khác để cho ông ta,
nhưng bà bọc chân cho ông bằng những mảnh vải và cột lại
cho ấm chân ông.
Một trong các nóc gia của xóm Becchi là nơi thường trú của
Lão Cecco. Lão này trước kia rất giàu nhưng đã phung phí hết
của cải. Bọn trẻ trong xóm thường chọc phá lão. Có khi chúng
gọi lão là “ve sầu”. Các bà mẹ chỉ cho con cái thấy lão khi lão

4.8 Page 38

▲back to top
đi qua và kể cho chúng nghe chuyện ngụ ngôn “ve sầu và
kiến”: “ Đang khi chúng ta lao động như bầy kiến thì riêng lão,
lão ca hát và ăn nhậu xa xỉ. Lão vô tư như một con ve sầu. Các
con hãy coi lão ta đã sa sút tới mức nào. Hãy nhớ lấy bài học
ấy!”.
Lão già rất xấu hổ, không dám đi ăn xin và thường phải nhịn
đói luôn. Mỗi khi màn đêm buông xuống, Mẹ Margarita lại đặt
lên thành cửa sổ một hũ đầy súp nóng. Cecco mò đến lấy và
mang đi trong bóng tối.
Gioan nhớ nằm lòng những bài học ấy. Thà quảng đại còn hơn
tiết kiệm! Một thằng nhỏ kiếm sống bằng nghề bồi phòng trong
một nông trại ở vùng bên. Tên nó là Secondo Matta. Mỗi sáng,
ông chủ cho nó một khoanh bánh mì đen và đặt vào tay nó
những sợi dây cột cổ hai con bò cái. Nó phải đưa hai con vật
này đi ăn cỏ cho tới đúng ngọ. Đang khi đi xuống thung lũng,
nó gặp Gioan cũng đang dẫn mấy con bò cái của gia đình cậu
ra đồng cỏ, khoanh bánh mì trắng bóc còn cầm nơi tay. Loại
bánh mì này, thời ấy là loại bánh thượng hạng rất ngon. Một
hôm, Gioan nói với nó:
- Cậu muốn làm vui lòng tớ chứ?
- Tất nhiên rồi.
- Tớ muốn là bọn mình đổi bánh cho nhau. Bánh của cậu hẳn là
phải ngon hơn bánh của tớ.
Bạn Secondo tin chắc nịch là như vậy, và suốt ba tháng trời
ròng rã – chính hắn thuật lại – lần nào gặp nhau hai đứa cũng
đổi bánh cho nhau. Khi đã lớn khôn, Matta đã suy nghĩ lại và
đã hiểu rằng Gioan Bosco đúng là một cậu bé tốt bụng.
Bọn cướp trong khu rừng cây

4.9 Page 39

▲back to top
Gần nhà có một khu rừng cây. Đã nhiều phen, khi đêm về,
những nhóm nhỏ "quân cướp", bị lính gác truy lùng gắt gao, đã
gõ cửa nhà bà Margarita. Họ đến xin một dĩa súp và một mớ
rơm để ngủ qua đêm.
Bà Margarita không ngán những vị "khách không mời mà đến"
ấy tí nào. Bà đã quá quen rồi. Vào thời Napoléon, số thanh niên
thoát khỏi các cuộc "tuyển quân" là vô cùng đông đảo. Các sử
gia đưa ra con số 70% trong những năm chót của Đệ Nhất Đế
Chế.
Họ sống thành từng nhóm, trong các rừng cây hoặc trên những
ngọn núi cao. Họ lao vào con đường cướp bóc để kiếm sống,
hoặc đi làm mướn dưới một cái tên giả trong các nông trại hẻo
lánh (trong số những kẻ "bất phục tùng lệnh tuyển quân" của
Napoléon, tại Pháp, người ta thấy có Gioan Maria Vianey, đã
giả làm dân quê dưới cái tên Vincent - Ông sẽ trở thành thánh -
Cha sở họ Ars).
Cái đáng sợ, đó là sau lưng bọn cướp thường xuất hiện các
cảnh sát viên (được thành lập vào chính những năm ấy, do vua
Victor Emmanuel Đệ Nhất). Nhưng đối với ngôi nhà của gia
đình Bosco, một hòa ước bất thành văn đã được áp dụng triệt
để. Lính gác, mệt mỏi vì phiên gác, đến xin bà Margarita một
ly nước và thậm chí một chút xíu rượu vang. Bọn cướp trên
kho chứa đồ cũ nghe tiếng liền lẳng lặng rút lui có trật tự. "Dù
họ biết rõ những ai đang trốn trong nhà, cũng vào lúc đó, lính
gác luôn luôn giả bộ như chẳng biết gì hết và không bao giờ
phấn đấu cố bắt lấy một vài tên để lĩnh thưởng". Chính Cha
Jean-Baptiste Lemoyne đã viết thế. Là nhân vật chính chuyên
viết tiểu sử của Don Bosco, Cha đã từng có nhiều cuộc đàm
đạo với thánh nhân trong những ngày ngài còn sống ở Torino.
Gioan quan sát mọi sự và cố tìm hiểu. Nhờ mẹ, cậu được biết
là trước tiên đã có các binh sĩ của dân chủ đã săn đuổi những

4.10 Page 40

▲back to top
kẻ tiếp tục trung thành với nhà vua. Giờ đây, chính những
người săn đuổi lại trở thành những kẻ bị săn đuổi. Các cảnh sát
viên của nhà vua đang truy lùng phe dân chủ. Chẳng bao lâu,
mọi sự sẽ còn thay đổi nữa. Các "con mồi của giá treo cổ" (đây
là danh hiệu mà hồi ấy hầu tước Michel de Cavour đã dùng để
gọi những người theo phe dân chủ) sẽ trở thành các bộ trưởng,
các cảnh sát trưởng, gánh vai những chuyện quốc gia đại sự.
Vai trò những kẻ săn đuổi sẽ lại được đổi qua cho những người
khác.
Bà Margarita, đã quá quen với những đổi thay ấy của các chiến
tuyến chính trị, bưng ra một dĩa canh và một khoanh bánh cho
bất cứ ai gõ cửa nhà mình mà chẳng bao giờ hỏi xem họ thuộc
phe phái nào. Có lẽ chúng ta có quyền nghĩ rằng tất cả các biến
cố ấy đã khiến cho Gioan Bosco vững tin ở "thuyết tương đối"
của chính trị và của đảng phái. Bản thân ngài sẽ luôn luôn coi
chính trị như một nhân tố có thể tranh cãi và có thể đổi thay
của kiếp nhân sinh. Do đó, ngài sẽ đặt cuộc sống của mình trên
những điểm nhắm kiên cố hơn nhiều: sự chăm lo cho các linh
hồn, đám thanh thiếu niên nghèo cần phải nuôi và cần phải
giáo dục, điều mà chính ngài sẽ mệnh danh cho là "nền chính
trị của Cha chúng ta".
Mẹ tôi đã dạy tôi cầu nguyện
Đức ái tại xóm Becchi, không phải được phát động bởi lòng
bác ái hoặc bởi tình cảm tự nhiên, mà là bởi lòng mến Chúa.
Thiên Chúa ngự trong gia đình Bosco chẳng khác gì ở trong
nhà riêng của Ngài vậy. Mẹ Margarita, người mù chữ thất học,
thuộc lòng nhiều đoạn dài trong Kinh Thánh và trong Phúc
Âm. Bà tin ở sự cần thiết phải cầu nguyện, nghĩa là phải
chuyện trò với Chúa ngõ hầu có đủ can đảm để sống và để làm
việc thiện.

5 Pages 41-50

▲back to top

5.1 Page 41

▲back to top
"Đến nỗi khi tôi còn nhỏ xíu, Don Bosco viết, bà đã đích thân
dạy tôi các kinh nguyện. Bà bắt tôi quì gối với các anh trai tôi
mỗi sáng và tối, cùng nhau chúng tôi đã đọc các kinh nguyện
tập thể".
Linh mục thì ở xa và đã không chờ đợi tới lúc ngài có thời giờ
rảnh để tới dạy giáo lý cho các con nhỏ của mình. Sau đây là
vài câu hỏi và câu thưa trong cuốn giáo lý Kitô Giáo yếu lược
mà Margarita, hồi còn bé đã học và sau này bà đã dạy cho
Gioan, Giuse và Antôn:
H- Một người Kitô hữu tốt phải làm gì khi thức giấc và buổi
sáng?
T- Phải làm dấu Thánh giá.
H- Chỗi dậy và thay đồ rồi, người ấy phải làm gì?
T- Nếu có thể, phải quì gối trước một ảnh đạo và giục lòng tin
ở sự hiện diện của Chúa, đồng thời phải đọc với tất cả lòng
sùng kính: Lạy Chúa, con thờ lạy Chúa…
H- Người ấy phải làm gì trước khi khởi sự công việc của mình?
T- Phải dâng việc làm của mình cho Chúa.
Một trong những "việc đạo đức" mà Gioan tham gia, đó là việc
lần hạt. Đây là kinh tối của mọi người người Kitô hữu thời ấy.
Nhờ đọc đi đọc lại năm mươi lần kinh Kính Mừng, ngay cả các
nông dân ở xóm Becchi cũng trò chuyện được với Đức Mẹ, là
Mẹ hơn là nữ hoàng của họ. Đối với họ, nói năm chục lần
những lời lẽ như nhau, không phải là một điều vô nghĩa. Trong
ngày, họ đã cuốc cả trăm lần xuống đất và họ biết rằng chính
trong điều kiện ấy mà mình đã đạt được những vụ thu hoạch
tốt. Trong khi lần hạt, tư duy hướng về con cái, về ruộng đồng,
về cuộc sống, về sự chết. Chính nhờ cách này mà Gioan bắt

5.2 Page 42

▲back to top
đầu trò chuyện với Đức Trinh Nữ và cậu tin chắc là người đang
nhìn mình và đang nghe mình.
Trong các kỷ niệm về mình, Gioan cũng còn nhớ cả lần xưng
tội lần đầu của cậu: “Chính mẹ tôi đã chuẩn bị cho tôi. Bà đã đi
kèm tôi tới nhà thờ, xưng tội trước tiên, gửi gắm tôi cho cha
giải tội. Sau đó bà đã giúp tôi đọc kinh đội ơn Chúa.
Trường học trong thời vụ chết của vùng nông thôn.
Lớp sơ cấp đầu tiên, Gioan đã theo học có lẽ vào năm lên chín,
trong mùa đông 1824-1825. Hồi ấy, các trường khai giảng ngày
3 tháng 11 và bế giảng ngày 25 tháng 3. Đây là thời vụ chết
của vùng nông thôn. Trước và sau thời gian này, thậm chí
những cánh tay yếu ớt của bọn trẻ nam cũng thiết yếu cả cho
ngôi nhà lẫn đồng ruộng (một sắc luật năm 1822 đã cưỡng bách
giáo dục sơ cấp. Việc học là bắt buộc và miễn phí. Nhưng,
không phải thôn làng nào cũng có khả năng chấp hành luật ấy).
Vì trường quận Castelnuovo ở cách xa năm cây số, nên người
thầy giáo đầu tiên của Gioan là một người nhà quê biết đọc,
tiếp đó dì Marianne Occhiena em gái của mẹ Margarita và là
người làm của cha phó kiêm giáo viên ở Castelnuovo, đã xin vị
linh mục này dành cho cháu mình một chỗ trong ngôi trường
của ngài.
Don Lacqua chấp nhận và Gioan có lẽ đã lưu lại nhà bà dì suốt
chín tháng. Chuyện cũng diễn ra như vậy trong mùa đông
1825-1826.
Phen này, Antôn đã mười bảy tuổi, bắt đầu nổi cơn thịnh nộ:
- Cho nó học nữa mà làm gì chứ? Nội cái nó biết đọc và ký tên
của nó cũng đã quá đủ rồi. Bắt nó cầm cuốc và cuốc đất như tôi
cho rồi!
Mẹ Margarita ráng lý luận phải trái với hắn:

5.3 Page 43

▲back to top
- Thời gian càng trôi đi thì tri thức càng trở nên thiết yếu. Con
không thấy là cả đến các bác thợ may và các ông thợ giầy cũng
đến trường đó sao? Trong nhà có người biết đếm, có gì là thừa
thãi đâu!
Ngay khi biết đọc, sách vở liền trở thành thú đam mê của cậu.
Cậu xin cha Lacqua cho mình mượn sách và cậu đã bỏ ra phần
lớn các buổi chiều trong suốt mùa hè để ngốn ngấu hàng bao
nhiêu trang giấy dưới hàng cây râm mát. Khi đưa bò đi ăn cỏ,
cậu đồng ý giữ bò giùm các bạn, với điều kiện họ để yên cho
cậu đọc sách.
Tuy nhiên, cậu không vì vậy mà lên mặt "thầy đời" hoặc trở
thành "ông cụ non". Cậu ham đọc sách, nhưng cậu cũng thích
chơi và thích trèo cây.
Một chiều nọ, đang lúc chơi với bạn bè, cậu thoáng thấy một tổ
chim oanh trên một cành cây sồi. Cậu liền thoăn thoắt leo lên
cây và thấy chưa gì mình đã có những chú chim con sẵn sàng
để đem nhốt vào lồng. Khổ nỗi tổ chim lại ở tuốt trên đầu một
cành lớn và dài, nằm gần như song song với mặt đất.
Gioan ngẫm nghĩ một lát rồi, từ trên cao cậu nói vọng xuống
cho các bạn biết: “Tớ leo ra đây". Chầm chậm, chầm chậm,
cậu bò lết trên cành cây càng lúc càng thon nhỏ và trĩu oằn.
Cậu vươn dài cánh tay, tóm gọn bốn chú chim non và bỏ vào
bên trong ngực áo sơ mi của mình.
Bây giờ, vấn đề là phải trở lui trên cành cây đã gập xuống dưới
sức nặng của cậu. Cậu nhoài người ra chầm chậm nhưng chân
cậu bị trượt và cậu thấy mình đu tòn teng bằng hai tay ở độ cao
đáng ngại. Vặn mình một cái, cậu lại tiếp tục bám cành bằng
hai chân nhưng không thể làm gì hơn nữa, không sao nằm sấp
trở lại trên cành được nữa. Những giọt mồ hôi lớn rịn ra trên
trán cậu. Bên dưới, bạn bè hò la và vẫy tay nhưng không can
thiệp gì được.

5.4 Page 44

▲back to top
Khi hai tay không còn sức chịu nổi, cậu liền buông mình rơi
vào khoảng không. Cậu đã té một cú nên thân. Cậu nằm bất
tỉnh suốt mấy phút, rồi gượng ngồi lên được.
- Cậu đau lắm hả?
- Hy vọng là không, cậu thều thào.
- Thế chim đâu?
- Đây này, vẫn còn sống nhăn.
Cậu banh ngực áo và lôi chúng ra. “Nhưng chúng đã bắt tớ
phải trả giá đắt...”.
Cậu gắng gượng bước về nhà, nhưng tứ chi cậu run lẩy bẩy và
cậu đành phải ngồi bệt xuống lần nữa. Khi vào trong nhà, cậu
nói với Giuse:
“Em không được khỏe, nhưng anh đừng nói gì với mẹ nhé!”.
Đêm ngủ trong giường khiến cậu cảm thấy dễ chịu, nhưng hậu
quả của cú té dữ dội ấy, nhiều ngày sau cậu vẫn còn cảm thấy.
Một con nhồng nhỏ xíu xìu xiu
Cậu rất mê chơi chim. Cậu đã tìm được một con nhồng còn nhỏ
xíu và cậu đã nuôi dạy nó. Trong một cái lồng đan bằng những
que nan bằng gỗ liễu, cậu đã dạy nó huýt gió. Con chim lập lại.
Mỗi khi Gioan đi tới, nó đều chào đón cậu bằng một chuỗi
tiếng huýt gió du dương réo rắt, nhảy nhót một cách khoái trá
từ nan này qua nan khác, và đăm đăm nhìn cậu bằng đôi mắt
nhỏ, đen mà sáng rõ. Một con nhồng rất dễ thương.
Nhưng một sáng nọ, con nhồng không còn huýt gió mừng đón
cậu nữa. Một con mèo đã phá tan lồng và đã xé nát con chim
quí. Gioan khóc như mưa. Mẹ cậu ráng lý luận phải trái với cậu
bằng cách cam đoan với cậu rằng chim nhồng và tổ chim thì

5.5 Page 45

▲back to top
cậu sẽ còn kiếm được thiếu gì. Nhưng cậu nào có coi những
con nhồng khác ra gì? Còn con nhồng ấy, bạn nhỏ của cậu, thì
đã bị sát hại và sẽ chẳng đời nào cậu còn được gặp lại nó nữa...
Cậu tiếp tục rầu rĩ thêm nhiều ngày nữa, không một ai có thể an
ủi được cậu. “Cuối cùng, Don Lemoyne thuật lại, cậu bắt đầu
nghĩ đến tính phù du của mọi sự trên cõi đời này và đã hạ một
quyết tâm không phù hợp với tuổi cậu: cậu đã tự hứa là sẽ
không gắn bó lòng mình với bất cứ sự gì trên trái đất này”.
Mấy năm sau, cậu đã lặp lại cũng những từ ấy, khi người bạn
thân nhất của mình qua đời và trong nhiều dịp khác nữa.
Thật đáng mừng khi thấy rằng Don Bosco đã chẳng bao giờ giữ
nổi quyết tâm ấy. Ngài cũng có, như chúng ta, một trái tim,
không phải bằng gỗ đá hay sắt thép, mà là một trái tim bằng
thịt, có nhu cầu yêu thương từ những cái nhỏ nhặt đến những
sự lớn lao cả thể. Ngài sẽ khóc, tim lòng tan nát, trước cái chết
của Don Calosso, của Lu-y Comollo, trước cảnh những trẻ em
đầu tiên bị nhốt sau những song sắt của một khám đường. Đối
với những kẻ làm ác cho những thanh thiếu niên của mình,
ngài đã nói: “Nếu đó không phải là một tội, thì chắc tôi đã tự
tay xiết cổ bọn khốn ấy cho tới chết quá”. Và toàn thể các
thanh thiếu niên đã lặp lại khi nói về ngài, với cùng một giọng
nhưng đa dạng: “Ngài đã yêu thương tôi”. Một đứa trong bọn
chúng. Lu-y Orione, đã viết: “ Tôi sẵn sàng bước đi trên than
hồng để được gặp lại ngài lần nữa và nói lên lời cảm tạ ngài”.
Các sách tu đức xưa thường gọi “việc để cho lòng gắn bó với
các thụ tạo” là một tội. Tốt hơn cả là đừng có liều, hãy yêu ít
thôi! Nhưng Công đồng Vaticanô II nói theo tinh thần Tin
Mừng hơn rằng: Không nên biến bất cứ vật thụ tạo nào thành
các ngẫu tượng, Thiên Chúa đã ban cho chúng ta một trái tim
để yêu cách mãnh mẽ, không hãi sợ. Thiên Chúa của các triết
gia vô cảm trước đau đớn, nhưng Thiên Chúa của Kinh Thánh

5.6 Page 46

▲back to top
thì yêu mến và giận dữ, đau khổ và khóc lóc, run lên vì sung
sướng và mỉm cười cách trìu mến.
Vùng đất của ngài
Lên chín, đứa trẻ bắt đầu ra khỏi vỏ ốc ấm áp là gia đình ruột
thịt của mình và đưa mắt nhìn quanh khắp lượt. Gioan cũng đã
nhìn và đã phát hiện ra vùng đất của mình. Đẹp đẽ, núi đồi
trùng điệp, êm ả. Nơi đó vươn cao những nương dâu, những
vườn nho, những ruộng ngô, những bãi đay. Nơi đó từng bầy
gia súc lớn nhỏ bình thản gặm cỏ. Những rừng cây trải dài và
dày đặc hợp thành những mảng xanh đậm. Những người dân
quê đang bình thản cuốc đất dưới ánh mặt trời, đều là những
con người kiên tâm, bền chí. Đám dân trung thành với vùng đất
mà mình đã bám rễ sâu không thua gì cây cối. Họ không hề
mắc cỡ khi ngả nón trước một giáo đường cũng như trước mặt
Chúa và khi họ đóng cửa nhà mình, lúc đêm về, trong gia đình
họ cảm thấy mình như là vua chúa.
Gioan Bosco đã là một người con vĩ đại của Chúa nhưng cũng
là người con của vùng đất này. Trời cao đã cất tiếng gọi cậu,
nhưng bản tính của cậu chính là bầu không khí ấy, là khí thiêng
sông núi đã hun đúc nên cậu, đã nuôi sống cậu. Trong giọng
nói của mình, cậu sẽ luôn luôn mang theo cung giọng địa
phương của vùng đồi núi quê hương, khác nào trong tâm hồn
cậu lúc nào cũng in đậm dấu ấn của môi trường mà ở đó cậu đã
sinh ra và lớn lên.

5.7 Page 47

▲back to top
Chương 5
DIỄN VIÊN XIẾC TÍ HON
Tuổi lên chín cậu bé Gioan đã đánh dấu bởi “giấc mộng lớn”:
đám đông các trẻ em; Người Đàn Ông khiển trách cậu “không
phải bằng những cú đấm đá mà là bằng sự dịu hiền”; Bà lạ trên
báo cho cậu: “Tới giờ tới lúc, con sẽ hiểu cả”.
Bất chấp những lời lẽ thận trọng của bà nội, năm ấy đó là một
tia sáng rọi vào tương lai. Giấc mơ năm lên chín – Pietro Stella
viết – ảnh hưởng đến toàn bộ nếp sống và suy nghĩ của Gioan
Bosco. Nó còn ảnh hưởng cả đến cách xử sự của người mẹ
trong những tháng và những năm tiếp sau đó. Cả đối với bà, đó
cũng là biểu hiện của một ý muốn tối cao, một tín hiệu hiển
nhiên của ơn gọi làm linh mục của con trai bà. Chỉ bằng cách
này người ta mới có thể lý giải được sự kiên trì của bà trong
việc dìu dắt Gioan trên con đường sẽ có thể giúp cậu trở thành
linh mục.
Trong mơ, Gioan đã thấy cả một đạo quân nhóc tì và người Lạ
đã ra lệnh cho cậu phải mưu ích cho chúng. Sao lại không bắt
đầu ngay tức thì chứ? Những đứa con trai, chưa gì cậu đã quen
biết cả đống: những bạn bè cùng chơi, những đầy tớ nhỏ tuổi
sống trong các trang trại nằm rải rác tại các vùng nông thôn.
Hầu hết đều là con người nhà tử tế, nhưng cũng có một số tên
tính tình rất lỗ mãng và chửi thề như uống nước lã.
Mùa đông, nhiều gia đình có thói quen tụ họp nhau trong
chuồng bò rộng lớn với lũ bò giữ nhiệm vụ làm lò sưởi. Đang
khi phụ nữ kéo sợi và đàn ông phì phèo tẩu thuốc lá của họ,
Gioan bắt đầu đọc cho cử tọa mấy cuốn sách mượn được của
Don Lacqua: Chàng Guerin đáng thương, Lịch sử của
Berthold, Các Vua Pháp Quốc. Quả là một thành công hiển
hách: “Mọi người đều muốn tôi có mặt trong chuồng bò của
họ. Những con người đủ mọi tuổi tác và thuộc mọi giai cấp, đã

5.8 Page 48

▲back to top
đến chen vai sát cánh với các bạn bè của tôi. Ai nấy đều thích
thú thức trắng đêm để lắng nghe và không nhúc nhích, từng lời
từng câu của chú bé đọc chưa thông, đứng trên một cái ghế để
ai nấy đều có thể thấy mặt chú”.
Cuốn sách ăn khách nhất trong những đêm không ngủ ấy là
cuốn: “Các Vua Pháp Quốc”. Sách thuật lại những cuộc phiêu
lưu kỳ diệu và có phần rắc rối của Charlemagne và của các
dũng sĩ của nhà vua: Roland, Olivier, tên phản bội Ganelon,
Đức Giám Mục Turpin, những tàn phá của cây gươm thần
Durandal. Don Bosco viết: “Trước và sau các bài đọc của tôi,
mọi người đều làm Dấu Thánh Giá và đọc một kinh Kính
Mừng”.
Hồi kèn vang dội trên đồi
Đến mùa trời quang mây tạnh, sự việc lại đổi khác: các câu
chuyện không còn cuốn hút được ai nữa. Gioan hiểu rằng để
qui tụ các bạn lại, cậu cần làm một cái gì đó thật “phi thường”.
Nhưng, tiếng kèn Clairon của gánh xiếc rong, rền vang trên
một ngọn đồi gần đó. Hôm ấy là một ngày hội chợ. Gioan cùng
mẹ cũng lên đường tới đó. Thiên hạ mua bán, bàn cãi, âm mưu
và cười đùa thỏa thích. Người ta bu kín quanh các nhà ảo thuật
và các diễn viên nhào lộn. Những trò nhanh tay lẹ chân, những
màn biểu diễn các kỹ xảo thu hút sự chăm chú theo dõi của
đám dân quê, miệng há hốc vì ngạc nhiên xen lẫn thán phục.
Đó là mấy trò mà bản thân Gioan cũng có khả năng làm được.
Cậu cần phải núp kỹ để phát hiện ra những bí quyết của mấy
tên nhào lộn và những kỹ xảo của những nhà ảo thuật.
Khổ nỗi, các buổi trình diễn qui mô chỉ diễn ra trong những
ngày lễ bổn mạng, nghĩa là lễ mừng các vị thánh quan thầy của
mỗi địa phương. Các diễn viên thăng bằng nhảy múa trên sợi
dây căng thẳng, các ảo thuật gia làm biến, hiện trong nháy mắt
những cái ly đủ màu, hoặc hơn nữa, biểu diễn những trò hết

5.9 Page 49

▲back to top
sức tài tình như: làm bồ câu hoặc thỏ xuất hiện từ trong nón,
làm mất tích một con người, cưa người làm đôi, rồi cho người
ấy xuất hiện trở lại như trước. Mấy tay “thợ nhổ răng không
đau” được tán thưởng rất nồng nhiệt.
Nhưng muốn xem các màn trình diễn trên, phải trả hai xu tiền
vé. Kiếm đâu ra tiền? Được hỏi đến, mẹ Margarita đáp:
“Con muốn xoay xở ra sao tùy thích nhưng đừng có xin tiền
mẹ. Mẹ làm gì có mà xin”.
Gioan liền tự xoay xở lấy. Cậu bắt chim và đem bán, đan giỏ,
làm lồng chim và thương lượng với các tay chào hàng, đi hái
các loại cỏ thuốc và bỏ mối cho vị đông y sĩ ở Castelnuovo.
Nhờ đó cậu đã giành được chỗ ở ngay những hàng ghế đầu
dành cho các khán giả. Nhờ chú ý quan sát cậu đã hiểu được
công dụng của cây gậy giữ thăng bằng đối với người diễn viên
đi trên dây, và đã bắt gặp quả tang thao tác lẹ làng của những
ngón tay che khuất mánh lới, ngoài ra còn khám phá được một
số mẹo vặt “giấu đầu hở đuôi” khác.
Thời ấy, bị nhổ răng sâu là cả một cực hình đối với mọi người.
Loại thuốc tê đầu tiên chỉ được thử nghiệm ở Mỹ năm 1845.
Gioan, nhân một lễ hội phiên chợ năm 1825 đã chứng kiến một
màn “nhổ răng không đau” nhờ một loại “bột thần”. Người dân
quê đóng góp vào tiết mục ấy có một răng hàm vô cùng nhức
nhối. Tên hề, sau khi nhúng ngón tay vào bột, giữa tiếng kèn
Clairon vang rền và tiếng trống khua rộn rã, liền giật phăng cái
răng của nạn nhân nhờ một cái kẹp mà hắn làm tuột từ tay áo
xuống bàn tay. Nạn nhân nhảy dựng lên, miệng kêu đau inh ỏi,
nhưng những tiếng kèn Clairon đã át hẳn tiếng ông ta. Còn tên
mãi võ sơn đông thì lật đật ôm hôn nhằm bịt miệng ông ta lại:
“Cảm ơn ông bạn! Cảm ơn! Cuộc thí nghiệm đã hoàn thành hết
sức tốt đẹp!”. Gioan là một trong những khán giả hiếm hoi đã
thấy cây kẹp tuột xuống, vừa bỏ đi vừa cất tiếng cười vang.

5.10 Page 50

▲back to top
Ở nhà, cậu làm đi làm lại hoài những bài tập đầu tiên của mình:
“Tôi đã tập từ ngày này sang ngày khác cho đến khi thuần
thục”. Để làm thỏ xuất hiện trong nón, để đi đứng thăng bằng
trên dây, cậu đã phải trả giá bằng nhiều tháng tập dợt kiên trì,
và cả những cú té u đầu nữa. “Có thể các bạn không tin nổi,
Don Bosco viết, nhưng đến năm mười một tuổi, tôi đã làm nổi
trò biến hóa những cái ly, trò nhảy lộn mèo trên dây, tôi có thể
đi bằng hai tay và chạy, nhảy trên dây”.
Màn trình diễn trên đồng cỏ
Một chiều Chúa nhật, ngày giữa mùa hè, Gioan báo cho các
bạn buổi trình diễn đầu tiên của cậu. Trên một tấm thảm bằng
bao bố trải trên cỏ, cậu thi thố các “phép lạ” thăng bằng với
những chiếc hộp và những cái nồi đặt trên chóp mũi của mình.
Cậu xin một khán giả nhỏ tuổi há miệng thật to rồi cậu lôi từ
trong ra hàng chục cục nhỏ đủ màu khác nhau. Cậu biểu diễn
với một cây đũa thần. Và sau cùng, cậu nhảy tót lên dây và
bước đi giữa những tiếng hoan hô của bạn bè thân hữu.
Tin tức được đồn thổi từ nhà này sang nhà khác, khán giả ngày
càng thêm đông: trẻ em và người lớn, con gái lẫn con trai, và
thậm chí cả những ông già bà lão – cũng là những người đã
từng nghe cậu đọc “Các Vua Pháp Quốc” trong những chuồng
bò. Giờ đây, họ thấy cậu lôi từ cái mũi bự của một nông dân
đang lóa mắt vì ngạc nhiên cả một suối bạc cắc, biến nước lã
thành rượu nho, nhân gấp những trái trứng, mở xắc tay của một
bà nọ và hóa phép cho một con bồ câu còn sống từ trong xắc
bay ra, người ta vỗ tay hoan hô cậu.
Antôn, ông anh cậu cũng đến xem các trò ấy, Don Lemoyne
viết, nhưng hắn không bao giờ chường mặt ra trên mấy hàng
ghế đầu tiên. Hắn núp sau một thân cây, khi ẩn khi hiện như
một bóng ma. Đôi khi, hắn cất tiếng nhạo báng cậu diễn viên
xiếc tí hon:

6 Pages 51-60

▲back to top

6.1 Page 51

▲back to top
“Coi thằng hề kìa! Đồ vô công rỗi nghề! Mình phải còng lưng
nhức mỏi, đổ mồ hôi sôi nước mắt trên các luống cày, còn nó,
nó chỉ lo làm trò hề cho thiên hạ xem!”.
Gioan âm thầm ngậm đắng nuốt cay. Đôi khi cậu ngưng ngay
buổi trình diễn để tiếp tục lại cách đó khoảng hai trăm mét, nơi
mà Antôn không còn thọc gậy bánh xe phá đám cậu nữa. Cậu
bé này là một diễn viên “không giống bao nhiêu diễn viên
khác”. Trước màn trình diễn chung cuộc, cậu móc từ trong túi
ra cỗ tràng hạt của mình, quỳ xuống và đề nghị mọi người cùng
cầu nguyện. Hoặc cậu nhắc lại bài giảng đã nghe hồi sáng tại
nhà thờ xứ. Đây là phần đóng góp mà cậu đòi cả người lớn lẫn
trẻ em đều phải trả. Trong cuộc sống, Gioan Bosco sẽ cực kỳ
quảng đại cam chịu mọi cơ cực, mệt mỏi, nhưng là con dân
Piemonte ngoan đạo, ngài sẽ luôn luôn đòi một khoản thù lao
không phải là bằng tiền bạc mà là bằng lòng quảng đại đối với
Chúa hoặc đối với trẻ em nghèo của ngài.
Rồi sau đó là màn trình diễn chung cuộc vô cùng khởi sắc: cậu
cột một sợi dây cáp giữa hai thân cây và leo lên, tay cầm một
cây gậy thô sơ để giữ thăng bằng, giữa sự thinh lặng đột xuất
và những tiếng reo mừng đến long trời lở đất.
“Sau mấy tiếng đồng hồ giải trí như vậy, ngài viết: khi tôi đã
mệt đừ, mọi thích thú đều kết thúc, chúng tôi cùng đọc với
nhau một kinh nguyện ngắn rồi nhà ai nấy về”.
Rước lễ lần đầu
Năm 1826, Lễ Phục Sinh rơi nhằm ngày 26 tháng 03. Hôm ấy
là ngày Gioan rước lễ lần đầu, tại nhà thờ xứ Castelnuovo. Sau
đây là bài tường thuật của cậu bé về biến cố đó:
“Mẹ tôi đứng sát bên tôi. Suốt mùa chay, bà đã thường xuyên
dẫn tôi đi xưng tội. “Gioan của mẹ, bà bảo, Chúa đang chuẩn bị
cho con một món quà; con hãy dọn mình cho tốt, hãy xưng tội

6.2 Page 52

▲back to top
cho nên, hãy thống hối các lỗi lầm và hãy hứa với Chúa là sẽ
trở nên tốt hơn”. Tôi đã hứa tất cả; và có Chúa chứng giám là
tôi đã luôn trung thành với mọi lời mình đã hứa.
“Đây là một ngày trọng đại đối với con. Chúa đã chiếm hữu
trái tim con. Bây giờ con hãy hứa với Ngài là sẽ làm tất cả
những gì mình có thể để tiếp tục sống tốt lành cho đến mãn đời
mình. Từ nay về sau, con hãy năng rước lễ, hãy luôn luôn khai
ra tất cả mỗi lần xưng tội; hãy luôn luôn vâng lời; hãy sẵn sàng
tham gia học giáo lý và nghe giảng; nhưng vì lòng mến Chúa,
hãy tránh như tránh bệnh dịch đối với những kẻ ham nói những
chuyện thô bỉ tục tĩu”.
Tôi đã làm những gì cần thiết để thực thi mọi lời khuyên của
mẹ, và tôi thấy hình như kể từ ngày ấy đã có một sự cải thiện
rõ rệt trong đời mình, cách riêng trong đức vâng lời và trong sự
chịu lụy người khác, những kẻ mà tôi hết sức khinh bỉ”.
Mùa đông ảm đạm nhất đời cậu
Mùa đông tiếp theo đó là mùa đông ảm đạm nhất trong đời
Gioan. Bà nội (mẹ của Phanxicô, người cha đã quá cố) đã
khuất núi và Antôn, mười chín tuổi, càng ngày càng “xa cách”
đối với gia đình. Những giờ tác oai tác quái của hắn ngày càng
trở nên thường xuyên hơn.
Những ngày cuối tháng mười, Mẹ Margarita đã nói gần nói xa
tới khả năng là Gioan năm sau nữa, có thể đến trường của Don
Lacqua. Cậu sẽ có thể học những bài học vỡ lòng của văn
phạm La-tinh. Antôn đột nhiên phản đối.
“La-tinh nào? Trong nhà này mà cần quái gì đến tiếng La-tinh
chứ. Chỉ có lao động, lao động mà thôi!”.
Hẳn là mẹ Margarita đã nhắc đến chuyện của Gioan có khả
năng theo đuổi ơn gọi làm linh mục, điều mà Antôn hẳn đã phê

6.3 Page 53

▲back to top
phán là một chuyện không tưởng bất khả thực hiện. Gioan sẽ
rất thường phải nghe hắn “phán”:
“Để làm linh mục giá chót cũng phải mười ngàn ba lire là ít!”
Đây là một khoảng tiền kếch xù đối với một gia đình dân quê
thời ấy.
Tin vào lý do dì Mariane và cha xứ ở Capriglio đang cần có
người sai vặt trong nhà, Gioan đã được phép thỉnh thoảng đến
nhà Don Lacqua một lần để tham gia khóa học mùa đông 1826-
1827. Antôn cắn răng chịu đựng cho đến một hôm chuyện xảy
ra dồn dập đã kết liễu trận chiến tranh lạnh đổi thành một trận
đánh trực diện và ác liệt giữa hai anh em cùng cha khác mẹ.
Chính Don Bosco đã thuật lại chuyện ấy như sau:
“Thoạt tiên là với mẹ tôi rồi với anh Giuse của tôi, Antôn đã
tuyên bố với giọng quan quyền hách dịch:
“Bây giờ thì đủ rồi. Tôi muốn chấm dứt cái vụ văn phạm ấy
cho rồi. Tôi đã trở nên to lớn và mạnh khỏe mà tôi có bao giờ
cần chúi mũi vào sách vở gì đâu!”.
Thế là, khổ đau xen lẫn uất ức, tức nước nên vỡ bờ, đã khiến
tôi tức thì trả đũa bằng những lời mà lẽ ra tôi không nên nói ra:
“Con lừa nhà mình nó cũng chẳng bao giờ đi học, mà nó còn
mạnh hơn anh nữa kìa!”
Những lời ấy đã khiến hắn uất người lên không sao tự chủ
được nữa và phải chật vật lắm tôi mới vùng thoát nổi khỏi
những cú đấm đá và những cái tát như mưa lũ trút lên đầu
mình. Mẹ tôi đã bị đẩy tới tột đỉnh của nỗi khổ tâm; còn tôi thì
không sao ngăn được nước mắt tuôn trào.
Tình hình càng thêm tồi tệ suốt mấy ngày sau đó, trong một
bầu khí căng thẳng, càng ngày càng thù nghịch hơn. Gioan
không muốn để mặc cho người ta chà đạp mình nên cậu đã

6.4 Page 54

▲back to top
chống trả kịch liệt. Và rồi, vì một cuốn sách mà Gioan đã đặt
trên bàn cạnh đĩa ăn của mình, đã nổ ra vụ xung đột mà chúng
tôi đã tường thuật ở đầu cuốn tiểu sử này. Gioan đã không có
cách nào thoát thân và đã bị ông anh vũ phu đập đánh tơi bời.
Sáng hôm sau, mẹ Margarita đã nói với cậu những điều ảo não
sâu sắc này: “Tốt hơn con nên đi khỏi nhà”.
Một ngày nắng cuối tháng hai, Gioan đã đến nông trại của gia
đình Moglires, nơi mà người ta đã nhận cho cậu vào ở mướn,
vì những giọt nước mắt sầu khổ khôn nguôi của cậu.

6.5 Page 55

▲back to top
Chương 6
BA NĂM SỐNG Ở TRẠI
VÀ MỘT NĂM TẠI NHÀ XỨ
Mấy ngày đã qua, Lu-y Moglires nói với Dorothéa: “ Chúng ta
đã không lỗ vốn khi mướn thằng nhỏ ấy”.
Gioan Bosco đã bắt tay vào việc một cách nghiêm túc và bao
giờ cậu cũng luôn vâng lời và tỏ ra đầy thiện chí. Vai trò của
cậu là công tác tại chuồng bò. Công việc nặng nhọc nhất là
sáng nào cũng phải thay ổ nằm cho mấy con bò cái bằng cách
thay một lớp rơm mới, dùng chỉa ba và xe cút kít chuyển phân
ra khỏi chuồng. Tiếp đến là chải sạch phân cho lũ bò, dắt
chúng ra bể nước cho chúng uống, rồi leo lên kho chứa đồ cũ
quăng vào máng một lượng cỏ khô đủ cho lũ bò ăn suốt ngày,
vắt sữa bò.
Tất nhiên, cậu không phải làm một mình mọi việc trên. Người
chăn bò giao cho cậu những công tác nào hợp với thể lực của
cậu và cậu chỉ việc làm theo.
Về cầu nguyện, cũng thế, Gioan tỏ ra là một cậu bé rất ngoan
và bà Dorothéa thỉnh thoảng lại đề nghị cậu xướng kinh trong
giờ lần hạt.
Về ngủ nghỉ, gia đình Moglires đã dành cho cậu một căn
phòng ấm cúng, sáng sủa với một cái giường có đủ chăn ấm
nệm êm. Như vậy là còn sung sướng hơn cả hồi cậu ở Becchi,
nơi cậu phải ngủ chung giường với Giuse và đôi khi cả với
Antôn. Sau mấy tối đầu tiên, cậu đã đánh liều đốt một mẩu đèn
cầy và đọc khoảng một tiếng đồng hồ một trong những cuốn
sách mà Don Lacqua đã cho cậu mượn. Thấy không ai nói gì,
cậu liền ngon trớn tối nào cũng đốt đèn đọc sách như vậy cả.

6.6 Page 56

▲back to top
Tối thứ bảy, cậu xin ông chủ cho phép đi Moncucco vào sớm
hôm sau. Cậu quay về để ăn sáng, rồi vào lúc 10 giờ, lại cùng
ông Lu-y và cả gia đình đi dự lễ chính.
Vì cậu lại xin phép như vậy mỗi ngày thứ bảy sau đó, nên bà
Dorothéa sinh nghi và tò mò muốn biết cậu bé đã đi những đâu.
Bà tự cảm thấy mình có trách nhiệm đối với thân mẫu của cậu.
bà đã tới Moncucco trước lúc rạng đông, và từ trong nhà của
một người bạn, đã thấy Gioan tới nơi và đi thẳng vào nhà thờ.
Tại đó, Bà thấy cậu bước vào tòa giải tội của cha xứ, tham dự
lễ nhất và lên rước lễ.
Vào thời ấy, họa hoằn lắm người ta mới được rước lễ. Thầy cả
không phân phát Bánh Thánh trong Thánh lễ chính (là lễ có sự
tham dự của toàn thể bổn đạo trong xứ). Ai muốn chịu lễ thì
phải dự lễ thường (còn gọi là “lễ câm”) được cử hành trước đó
rất sớm.
Bà Dorothéa, trong lúc đưa cậu về nhà, đã bảo cậu: “Kể từ giờ
phút này, nếu cháu muốn dự lễ câm thì cứ việc tùy tiện. Khỏi
cần mất công xin phép nữa”.
Trong lúc xưng tội với cha Cottino, Gioan đã thổ lộ với ngài
khát vọng của mình là muốn làm linh mục, đồng thời cũng cho
ngài biết những khó khăn mình đang gặp phải. Don Cottino
khuyến khích cậu hãy xưng tội và hãy chịu lễ mỗi tuần, hãy
cầu nguyện bất kể giờ phút nào trong ngày và hãy đặt hết lòng
tin nơi Chúa; nếu Chúa muốn, mọi khó khăn đều sẽ được giải
quyết. Ngài còn cổ vũ cậu đừng bỏ việc học của mình. Nếu sau
này việc học trùng với thời gian lao động của cậu, ngài sẽ sẵn
lòng dạy cho cậu vài bài học La văn. Tạm thời, ngài có thể cho
cậu mượn đỡ vài cuốn sách.
Hai hạt giống và bốn bông lúa

6.7 Page 57

▲back to top
Một hôm ông Giuse, cậu của ông chủ, từ ngoài đồng về, mình
ướt đẫm mồ hôi, cây cuốc vác trên vai. Lúc ấy vừa đúng mười
hai giờ trưa; chuông đổ từng hồi trên tháp chuông nhà thờ
Moncucco. Ông lão mệt nhoài, ngồi bệt xuống trên một mớ cỏ
khô để nghỉ xả hơi. Cách đó không xa, ông thấy Gioan, cũng
trên một mớ cỏ khô, nhưng là đang quì, miệng đọc kinh Truyền
tin, như mẹ Margarita đã dạy cho cậu quen làm thế mỗi ngày
ba lần: sáng sớm, giữa trưa và chiều tối.
Nửa đùa nửa thật, ông Giuse càu nhàu:
“Ồ! Hay thật đấy! Chúng ta đây là chủ mà phải hùng hục cày
sâu cuốc bẫm từ sáng sớm đến mãi chiều tối, mệt phờ cả râu.
Trong lúc đó thì chú bé ở mướn lại tỉnh bơ mặc cho thời gian tà
tà trôi qua trong sự thanh bình của Chúa!”
Gioan, cũng với giọng nửa đùa nửa thật, thản nhiên cự lại ông
lão:
“Khi phải lao động, bác Giuse ạ, bác thừa rõ là cháu đâu có lè
phè câu giờ. Nhưng mẹ cháu dạy cho cháu biết là, khi ta cầu
nguyện, thì từ hai hạt giống sẽ nảy sinh ra bốn bông lúa; ngược
lại nếu ta không cầu nguyện, thì từ bốn hạt giống sẽ chỉ nảy
sinh ra hai bông lúa mà thôi. Vì vậy, cả bác cũng nên cầu
nguyện chút xíu nữa.
- Chúc sức khỏe của cháu! Ông lão kết luận. Thế là giờ đây
chúng ta lại có sẵn một cha xứ ngay tại tư gia của mình nữa
chứ!
Khi đến mùa nắng tốt, cậu bé chăn mấy con bò cái. Sao cho
chúng đừng giẫm bừa vào đồng lúa của người khác, đừng ăn cỏ
quá ướt, đừng húc lẫn nhau.
Ngồi dưới bóng cây râm mát, đang khi mấy con bò gặm cỏ gần
đó. Gioan có được đôi chút giờ rảnh để đọc sách. Lu-y

6.8 Page 58

▲back to top
Moglires không hề than phiền về chuyện ấy nhưng ông gật gù
cái đầu:
- Cháu đọc như vậy để làm gì chứ?
- Cháu muốn làm linh mục.
- Bộ cháu không biết sao, để ăn học, ngày nay cần phải có chín
đến mười ngàn lires? Cháu tìm đâu ra số tiền ấy chứ?
- Nếu Chúa muốn, sẽ có người lo cho cháu.
Anna, con gái đầu lòng của gia đình Moglires, thỉnh thoảng lại
ra đồng chơi. Cô này đã tám tuổi, thấy Gioan cứ cắm cúi đọc
sách thay vì nhìn mình chơi, cô bé bực mình:
- Đừng đọc nữa Gioan!
- Nhưng một ngày kia em sẽ làm linh mục, em sẽ phải giảng và
giải tội.
- Vâng, thưa linh mục, cô bé hát nhạo, chú em mãi mãi vẫn là
kẻ chăn bò!
Một hôm, cậu đáp lại:
“Chị Anna à, hôm nay thì chị chế nhạo em, nhưng sau này chị
sẽ đến xưng tội với em cho mà coi”.
(Anna đã lập gia đình và sống lâu năm tại Murialdo. Bà
thường thuật lại giai thoại này cho đàn con của mình. Mỗi năm
bốn hoặc năm lần bà lại tới Valdocco, để xưng tội với Don
Bosco. Và Thánh nhân đã tiếp bà với niềm vui, giống như là
chị gái của ngài vậy).
Đông sang, các ông chủ cho phép cậu lâu lâu đến học với Don
Cottino một buổi. Nhưng chẳng được bao nhiêu bài vở; và lại
học hành lở dở và cách khoảng như vậy, xét cho cùng, cũng
không phát huy được tác dụng của nó.

6.9 Page 59

▲back to top
Tình hữu nghị của cha xứ, bù lại, đã dễ dàng giúp cậu tranh thủ
được cảm tình của các thiếu nhi ở Moncucco. Phòng đợi trong
nhà xứ được dùng làm lớp học trong những ngày thường, đã
biến thành một tiểu trung tâm trẻ trong ngày Chúa nhật. Gioan
Bosco đã biểu diễn ở đó những trò nhanh chân lẹ tay của mình,
đọc những Chương hấp dẫn nhất trong Kinh Thánh, dạy cho
các bạn nhỏ của mình biết cách cầu nguyện.
Khi thời tiết xấu cản trở những buổi hẹn gặp ở Moncucco, vài
thiếu niên sống trong các nông trại kế cận thường kéo đến gặp
cậu tại nhà của gia đình Moglires. Cậu liền đưa chúng lên kho
chứa đồ cũ, bày trò giúp vui cho chúng và cắt nghĩa bài giáo lý
cho chúng.
Tại nông trại của gia đình Moglires, Gioan đã sống gần tròn ba
năm: từ tháng hai năm 1827 đến tháng 11 năm 1829. Mấy năm
này, tuy là phí phạm đối với việc học của cậu, có là vô ích hay
không đối với sứ mạng mà Chúa đã kêu gọi cậu tiến hành?
Pietro Stella có nhắc đến một sự kiện mà thoạt nhìn tưởng như
vô nghĩa lý: “Bà Dorothéa và em chồng của bà, tên là Gioan,
một hôm đã gặp cậu đang quì gối, cuốn sách trên tay, đôi mắt
nhắm nghiền, mặt hướng thẳng lên trời. Họ đã phải lay mạnh
cậu vì cậu đang chìm đắm trong cơn suy tư của mình”.
Tác giả giải thích: “Mấy năm này, trong suốt quá trình ấy đã
bám rễ sâu thêm trong cậu ý thức về Thiên Chúa và về sự
chiêm niệm, do đó không phải là vô ích. Cậu đã có thể đạt tới
sự hiệp thông với Chúa xuyên suốt thời gian làm việc trên
ruộng đồng. Đó là những năm mong đợi đầy sốt mến và đầy
những lời cầu khẩn hướng về Thiên Chúa và về nhân loại”.
Năm 1827, tại Milan, Alexandre Manzoni đã phát hành lần thứ
nhất cuốn “Những kẻ đã đính hôn” (Promessi Sposi). Năm
1828, tại Recanati, Jacques Leopardi khởi sự viết “Những bản
tình ca” bất hủ (Idilli). Năm 1829, tại Paris, Jacques Rossini

6.10 Page 60

▲back to top
dàn dựng kiệt tác của mình: Guillaume Tell (Guglielmo Tell).
Suốt ba năm ấy, Gioan Bosco lo chải lông cho lũ bò cái trong
một nông trại hẻo lánh thuộc vùng Montferrat. Nhưng cậu đã
bắt đầu trò chuyện với Chúa.
Cậu Micae
Thời gian tạm trú kéo dài của Gioan tại nông trại của gia đình
Moglires là một cái gai đâm vào tim và lòng mẹ Margarita. Có
lẽ bà đã tâm sự với em trai mình là Micae. Ông này, lúc kết
thúc hợp đồng nông thôn (ngày 11 tháng 11) đã đến thảo luận
với đứa cháu trai của mình. Ông gặp cháu đang lùa bò ra khỏi
chuồng.
- Thế nào, Gioan, cháu bằng lòng ở lại đây chứ, có hay không?
- Không. Người ta đối đãi với cháu rất tử tế nhưng cháu thích
đi học. Mấy năm đã trôi qua, cháu nay đã 14 tuổi tròn mà vẫn
dậm chân tại chỗ hoài.
- Được! Vậy cháu hãy lùa bò vào chuồng trở lại và hãy quay về
Becchi. Cậu sẽ bàn với các ông chủ của cháu, rồi cậu sẽ tới chợ
Chieri. Nhưng tối nay cậu sẽ ghé nhà cháu và chúng ta sẽ dàn
xếp ổn thỏa mọi chuyện.
Gioan thu xếp tay nải của mình, đến chào tạm biệt bà
Dorothéa, Etienne, bác Giuse, Anna. Họ đều đã trở thành bạn
thân của cậu và họ sẽ tiếp tục như vậy cho đến mãn đời.
Cậu đi ngược trở lại trên con đường dẫn về xóm Becchi. Khi
cậu tới gần, mẹ Margarita nhìn thấy bóng con từ xa vội chạy ra
đón cậu: “Antôn nó đang ở trong nhà. Hãy kiên nhẫn chút xíu.
Con hãy núp trốn cho tới lúc cậu Micae đến. Nếu Antôn nó mà
thấy con bây giờ, nó dám nghĩ đây là một vụ dàn cảnh lắm và
ai mà biết được chuyện gì sẽ xảy ra”.

7 Pages 61-70

▲back to top

7.1 Page 61

▲back to top
Gioan lách vào một góc hàng rào và đến ngồi dưới một đường
mương. Vậy ra vẫn chưa kết thúc. Cậu còn phải chuẩn bị để
chiến đấu nữa.
Ông cậu đến vào lúc màn đêm buông xuống; ông đón đứa
cháu đã tê cóng vì lạnh và cùng nó đi vào nhà. Tình hình thật
căng thẳng nhưng đã không đến nỗi xảy ra chiến tranh. Antôn
vừa tròn 21 tuổi và sắp sửa lấy vợ. Được cam kết là việc chu
cấp cho Gioan và việc học của nó sẽ không phải do hắn đài thọ,
hắn đã không đưa ra một chống đối nào cả.
Cậu Micae bắt liên lạc với các cha xứ ở Castelnuovo và ở
Buttigliera để mong gửi cháu mình trọ học tại nhà của một
trong hai vị, nhưng ông đã vấp phải nhiều khó khăn lớn. Giải
pháp đã tới nhằm đúng lúc không một ai ngờ.
Bốn đồng xu để thưởng cho một bài giảng
Tháng 10 năm ấy, 1829, một vị tuyên úy mới, Cha Jean
Melchior Calosso, ở tuổi thất tuần, đã tới quản nhiệm nhà
thờ Murialdo. Vì lý do sức khỏe, năm ngoái ngài đã từ chối
không nhận coi xứ ở Bruino. Đây là một vị linh mục chân
chính, cao niên và rất giàu kinh nghiệm mục vụ.
Tháng 11, đã có một “Tuần đại phúc” ở xứ đạo Buttigliera.
Gioan đã tìm đến đó, và cả Don Calosso nữa. Khi quay về nhà
mình, vị linh mục già chắc để ý đến cậu bé 14 tuổi đi lẻ loi một
mình giữa đám đông người ấy.
- Con từ đâu đến vậy?
- Thưa, từ xóm Becchi. Con đã nghe các cha truyền
giáo giảng.
- Con hiểu gì nổi, khi mà bài giảng đầy dãy những câu viện dẫn
bằng tiếng La tinh chứ? Và vừa mỉm cười ngài vừa gục gặc

7.2 Page 62

▲back to top
mái đầu bạc trắng như tuyết: “Có lẽ để mẹ con giảng cho con
thì thích hợp với con hơn”.
- Dạ, đúng vậy. Mẹ con vẫn thường giảng cho con nhiều bài rất
hay. Nhưng con thấy hình như mình cũng hiểu các cha tới
giảng tuần đại phúc luôn.
- Thật sao? Nếu con nhắc lại được bốn câu trong bài giảng hôm
nay, cha sẽ cho con bốn xu.
Gioan thản nhiên bắt đầu và tóm tắt bài giảng từ đầu đến cuối,
như thể cậu đang đọc một cuốn sách vậy.
Don Calosso không để lộ nỗi xúc động của mình và hỏi:
- Con tên chi?
- Gioan Bosco. Cha con đã mất từ khi con còn nhỏ xíu.
- Con đã theo học trường nào?
- Con đã tập đọc và tập viết tại nhà Don Lacqua, ở Capriglio.
Con rất thích học thêm nữa nhưng anh hai của con không muốn
con biết gì hết, còn các cha Castelnuovo và Buttiglirea thì
không có giờ rảnh để giúp con.
- Mà, sao con lại thích học?
- Để trở thành linh mục ạ.
- Hãy bảo mẹ con đến gặp cha ở Murialdo. Có lẽ cha đây, dù
đã già cả, có thể tiếp tay với con.
Bà Margarita, ngồi trước bàn của Don Calosso, lắng nghe ngài
nói:
“Con trai bà có một trí nhớ thật kỳ diệu. Nó cần phải bắt đầu
học hành, ngay lập tức, không nên bỏ phí thời giờ, tôi còn làm
được, tôi sẽ làm”.

7.3 Page 63

▲back to top
Họ thống nhất với nhau là Gioan sẽ đến học tại tư gia vị linh
mục, không xa xóm Becchi bao nhiêu. Cậu sẽ chỉ về nhà để
ngủ. Thời gian cao điểm của việc đồng áng, cậu sẽ giúp đỡ
những người thân ruột thịt của mình.
Gioan đã bất ngờ gặp được cái mà cậu đã thiếu thốn bấy lâu: sự
hỗ trợ của người cha, sự thanh thản cho đầu óc, niềm tin.
“Tôi đã lập tức phó thác mọi sự trong tay Don Calosso, Thánh
nhân viết. Tôi đã cho ngài biết tất cả những gì có liên quan đến
mình. Tôi đã thổ lộ với ngài tất cả những gì mình đã nói, tất cả
những gì mình đã nghĩ. Lúc ấy tôi đã được biết thế nào là một
người hướng dẫn thường trực, một người bạn lòng trung kiên
mà mình đã thiếu vắng đã lâu. Ngoài nhiều chuyện khác, ngài
đã cấm tôi một việc hãm mình mà tôi quen tự áp đặt cho mình
mà việc ấy không hợp với độ tuổi của tôi. Ngài đã khuyến
khích tôi xưng tội và chịu lễ và đã dạy tôi mỗi ngày nên dành
ra chút ít thời giờ để nguyện ngắm hoặc, nếu tôi thích hơn, để
đọc một đoạn sách thiêng liêng”.
Với cái chết của Cha Calosso, mọi hy vọng tắt lụi
Vào khoảng tháng chín năm 1830 (có lẽ nhằm kết thúc các hệ
quả của những căng thẳng giữa Antôn và mình), Gioan đã đến
tạm trú ngay tại nhà của Don Calosso cả ban đêm luôn. Cậu chỉ
về nhà mỗi tuần một lần để thay đổi quần áo.
Việc học tiến triển tốt và nhanh. Don Bosco nhớ lại thời kỳ này
với niềm phấn khởi: “Không ai tưởng tượng nổi sự mãn
nguyện của tôi. Tôi đã yêu quý Don Calosso như một người
cha thật, tôi đã giúp đỡ ngài bất cứ lúc nào. Vị linh mục thánh
thiện ấy tỏ ra rất trìu mến tôi và đã nhiều lần nhắc lại với tôi:
“Con khỏi cần lo cho tương lai của mình. Bao lâu cha còn
sống, cha sẽ không để con thiếu thốn một sự gì cả. Mà giả như
cha có mệnh hệ nào, cha cũng sẽ chu cấp cho con nữa. “Tôi

7.4 Page 64

▲back to top
đang tràn trề hạnh phúc thì một thảm họa đã đến bẻ gãy dòng
đời ngập tràn mọi hy vọng của tôi”.
Một buổi sáng tháng 11 năm 1830, Gioan đang ở nhà mình để
soạn một gói quần áo khác, thì có người đến báo cho cậu là
Don Calosso đang đau nặng.
“Tôi không chạy, tôi bay!” Don Bosco nhớ lại. Đó là một cơn
nhồi máu cơ tim. Ngài nhận ra Gioan nhưng không nói nổi với
cậu lời nào. Ngài giao cho cậu chìa khóa của một cái hộp nhỏ,
ra dấu cho cậu hiểu là đừng đưa lại cho bất cứ ai.
Và thế là hết. Cậu bé chỉ còn biết khóc than một cách tuyệt
vọng trên thi hài của người cha thứ hai của mình. “Cùng với
ngài, đã lụi tắt mọi hy vọng”.
Toàn bộ hy vọng, từ trên xuống dưới, chỉ còn xót lại một cái:
chiếc chìa khóa. Trong hộp có mười ngàn lires. Căn cứ vào cử
chỉ của Don Calosso, hiển nhiên là số tiền ấy được dành cho
cậu, cho tương lai của cậu. Một số trong những người có mặt
bên kẻ hấp hối đã xác nhận với cậu như vậy. Có người, ngược
lại, lại cho rằng những cử chỉ của một người sắp chết chẳng có
nghĩa lý gì cả. Chỉ duy một bản di chúc hợp lệ mới có tác dụng
cho thụ hưởng hoặc truất quyền thừa kế.
Những người cháu của Don Calosso, khi tới nơi đã xử sự như
những người lương thiện. Họ thăm dò ý kiến lẫn nhau và sau
đó đã nói với Gioan:
“Hình như cậu của chúng tôi đã muốn để lại cho cháu số tiền
ấy. Cháu cứ giữ lấy bao nhiêu tùy thích”.
Gioan ngẫm nghĩ giây lát rồi tuyên bố:
“Cháu chẳng muốn giữ gì hết”.
Trong hồi ký của ngài, Don Bosco tóm tắt các biến cố trên
trong một cậu duy nhất: “Những người thừa kế của Don

7.5 Page 65

▲back to top
Calosso tới nơi và tôi đã giao lại cho họ chiếc chìa khóa và mọi
thứ khác. Đây là một cử chỉ dứt khoát có tác dụng chấm dứt
mọi tính toán. Sau này khi được làm linh mục, ngài sẽ chọn
làm khẩu hiệu của mình một câu trong Kinh Thánh, cũng dứt
khoát không kém: “Xin cho con các linh hồn, còn mọi sự khác
xin cứ lấy đi”.
Giờ đây, Gioan lại đơn độc như trước. Cậu đã mười lăm tuổi,
không thầy, không tiền, không có dự kiến nào cho tương lai.
Ngài đã viết: “Có lẽ tôi sẽ khóc hoài, không có cách nào khuây
khỏa được”.
Giấc mơ 9 tuổi: Bé Gioan Bosco gặp gỡ Chúa Giêsu và Đức
Mẹ

7.6 Page 66

▲back to top
Chương 7
ĐƯỜNG ĐI CASTELNUOVO
Dù sao, vẫn phải tiếp tục. Mẹ Margarita, vì muốn đề phòng
những chống đối mới của Antôn, đã quyết định tiến hành chia
gia tài. Đây cũng là một biện pháp tốt nhằm “bưng bít” một
mối hiềm khích chẳng lấy gì làm đẹp đẽ trước mắt những
người dưng. Antôn đã sắp lập gia đình - ngày 21 tháng 3 năm
1831 - hắn sẽ dẫn lên trước bàn thờ, Anna Rosso, một thiếu nữ
ở Castelnuovo.
Ruộng đồng đã được chia cắt, ngôi nhà trong xóm Becchi cũng
đã chia đều. Antôn trở thành chủ sở hữu của phần nằm ở hướng
Đông, mà dọc theo đó một cầu thang bằng gỗ dẫn lên tầng trệt
của ngôi nhà. Trong phần còn lại, sẽ tiếp tục cư ngụ ba mẹ con
Margarita, Giuse và Gioan.
Tháng 12, Gioan bắt đầu lên đường. Cậu sẽ theo học tại các
trường công lập ở Castelnuovo. Song song với các lớp sơ cấp,
xã đã mở một khóa La văn chia ra năm lớp. Vì có quá ít học trò
trong mỗi lớp, nên tất cả đều học chung trong một gian phòng
nhỏ duy nhất với một giáo viên duy nhất: Don Emmanuel
Virano.
Bữa ăn trong “ gà men”
Buổi đầu, năm cây số ngắn cách giữa xóm Becchi và quận
Castelnuovo dường như là một trở ngại có thể vượt qua đối với
tuổi mười lăm tráng kiện của Gioan. Nhưng các lớp trong
trường lại được chia thành hai ca, mỗi ca nửa ngày, ca sáng học
trong ba giờ rưỡi và ca chiều học ba giờ. Cậu bé lên đường vào
buổi sáng với mẩu bánh mì, trở về để dùng bữa trưa, rồi lại lên
đường và chiều tối thì lại quay về nhà. Gần mười cây số mỗi
ngày, đây là một nhịp cuốc bộ điên loạn mà sau vài ngày, khi
bắt đầu có tuyết rơi, mới được thay đổi.

7.7 Page 67

▲back to top
Cậu Micae đã tìm được cho cháu mình một chỗ bán trú tại nhà
một người đàn ông tốt bụng, Jean Robert, thợ may và là nhạc
công trong xứ. Đây là nơi Gioan dùng bữa trưa mà cậu mang
theo mỗi ngày trong cái “gà men” của mình.
Cho dẫu có được như vậy, thế nhưng năm cây số buổi sáng và
cũng nhiều đó lúc chiều tối, vẫn không phải là điều lý thú, nhất
là vào những ngày mùa đông tháng giá. Gioan bước đi với lòng
dũng cảm và mỗi khi mưa rơi tầm tã biến con đường thành một
vũng sình lầy hoặc khi tuyết giá biến nó thành một bãi trượt
rộng lớn, thì cũng như mọi người dân quê khác, cậu liền cởi
giầy ra và đeo tòn teng ở cổ. Mưa và gió, nắng và bụi sẽ là
những bạn đường của cậu trong suốt một thời gian dài.
Một vài buổi tối tháng Giêng, cậu cảm thấy không có đủ can
đảm để đi trở lui trên con đường băng ngang bão tố nên cậu đã
xin bác Robert cho phép mình ngủ lại dưới gầm cầu thang, còn
bữa ăn tối thì đành dẹp luôn.
Mẹ Margarita hiểu rằng, trên đường đi, mùa đông năm ấy, con
trai bà có thể đã tiêu hao hết sức khỏe của nó; bà liền đến
thương lượng với bác thợ may. Với một giá phải chăng, lại có
thể được trả bằng lúa gạo và rượu nho, bác Robert đã chấp
thuận cho Gioan ở nội trú suốt giữa trưa và ban tối, bác sẽ cho
cậu ăn súp nóng. Cậu sẽ ngủ dưới gầm cầu thang. Bà mẹ sẽ
cung cấp đầy đủ bánh mì.
Chính bà đã đi theo con đến tận Castelnuovo, đeo theo cái xà
cột đựng vài bộ quần áo và mấy đồ vật cần dùng cho một cậu
bé mười lăm tuổi. Bà dặn dò bác Robert “thỉnh thoảng hãy ngó
chừng cháu nó và nếu cần, cứ nhéo tai nó cho nó biết tay!”. Bà
nói với Gioan: “Hãy sùng kính Đức Mẹ để Người giúp con trở
nên tốt hơn”.
Ở trường cậu học chung với bọn trẻ mười tuổi, mười một tuổi.
Tri thức của cậu, cho đến nay, vẫn rất ư là khiêm tốn. Nếu

7.8 Page 68

▲back to top
thêm vào đó là một bộ quần áo rộng thùng thình và một đôi
giầy lớn kềnh, ta sẽ dễ dàng hiểu được là cậu sẽ trở thành cái
bia cho các bạn chê cười và nhạo báng. Chúng gọi cậu là
“thằng chăn bò của xóm Becchi”.
Gioan, kẻ trước đây vốn là thần tượng của bọn con trai ở
Murialdo cũng như ở Moncucco, cảm thấy vô cùng đau khổ
trước sự miệt thị ấy. Nhưng nếu, về phần mình, cậu ra sức phấn
đấu học tập tốt, thì giáo viên cũng ra mặt giúp đỡ và ái mộ cậu.
Don Virano là một con người đầy khả năng và tốt bụng. Thấy
rõ thiện chí của cậu, ngài đã tỏ ra ưu ái chăm lo cho cậu và
giúp cậu tiến bộ mau lẹ. Một hôm Gioan đã làm một bài tập
làm văn viết rất xuất sắc về nhân vật Eléazar trong Kinh thánh.
Don Virano đã đọc bài ấy cho cả lớp nghe và đã kết luận.
“Kẻ đã có khả năng viết hay tới mức này thì cũng có thể tự cho
phép mình mang loại giầy của dân chăn bò. Trên đời này, cái
đáng nể không phải là mang giầy dép mà là đầu óc”.
Don Bosco kể lại: “Năm ấy, tôi đã gặp một mối nguy do một
số bạn học gây nên. Họ tính dụ dỗ tôi chơi cờ bạc ăn tiền ngay
trong các giờ học. Khi tôi nói là mình không có tiền họ đã trả
lời tôi: “Đã tới lúc cậu nên thức giấc rồi đó. Hãy tập sống chứ,
hãy ăn cắp của ông chủ, hãy ăn cắp của mẹ cậu”. Tôi còn nhớ
mình đã cự lại: “Mẹ tôi rất yêu thương tôi, tôi không muốn bắt
đầu gây phiền hà cho bà”.
“Ở xóm Becchi chỉ lớn lên toàn một lũ lừa mà thôi”
Tháng Tư năm 1832, Gioan đã thực sự bắt kịp sự đi học muộn
màng so với độ tuổi của cậu, thì chợt xảy ra một biến cố sẽ có
những hậu quả tai hại đối với cậu. Don Virano được bổ nhiệm
làm chánh xứ ở Mondonio và phải giao trường lại cho Don
Nicolas Moglires tiếp quản.

7.9 Page 69

▲back to top
Vị linh mục này rất đạo đức và đầy lòng từ thiện, nhưng ngài
đã 75 tuổi. Ngài tuyệt nhiên không sao khống chế nổi lũ học trò
của năm lớp sống chen chúc trong ngôi trường do ngài quản lý.
Rốt cuộc một hôm, ngài đã nổi cơn thịnh nộ và đã phải dùng
đến roi vọt. Những ngày còn lại trong tuần, sự ồn ào hỗn loạn
không cho phép bất cứ một sự tập trung nào để “ thầy dạy tốt,
trò học tốt”.
Ngài đã cáo buộc những đứa lớn đầu nhất lớp là phải chịu trách
nhiệm về sự hỗn loạn triền miên. Đối với đứa già đầu nhất ngài
càng tỏ ra có ác cảm đặc biệt, cho dù Gioan, “thằng chăn bò
của xóm Becchi”, hết sức khổ tâm vì tình trạng vô kỷ luật tập
thể. Giáo viên không hề bỏ lỡ một cơ hội này để hạ nhục cậu.
“Cái mặt em thì làm sao mà đủ trình độ học môn La tinh chứ?
Ở xóm Becchi chỉ lớn lên toàn một lũ lừa mà thôi; những con
lừa thuộc giống tốt, tất nhiên rồi, nhưng chung qui vẫn chỉ là
những con lừa. Hái nấm thì đồng ý là em giỏi rồi; bắt tổ chim
cũng là nghề của em nữa, nhưng còn học tiếng La tinh thì đừng
có hòng!”.
Bạn học, do sự ái mộ mà Don Virano đã tỏ ra với cậu trước đây
đã bắt đầu để cậu yên thân, nay lại nổi lên công kích cậu dữ
dội. Gioan đã nếm trải những ngày cực kỳ chán nản.
Cho đến một hôm cậu đã quyết định phục thù.
Don Moglires vừa ra một bài La văn làm ngay trong lớp. Gioan
cũng phải làm bài dịch với bạn bè, đã xin giáo viên cho phép
mình thử dịch bản văn dành cho các học trò học cao hơn mình
cả hai lớp.
“Em tự nghỉ mình là ai chứ? Hãy về chỗ và đừng có đóng vai
lừa như từ trước đến nay nữa”.
Gioan vẫn cố nài và Don Moglires rốt cuộc đành nhượng bộ.

7.10 Page 70

▲back to top
“Em muốn làm gì thì làm. Nhưng đừng hòng tôi sẽ để mắt tới
bản dịch dở ẹt của em”. Cậu bé ráng cắn răng chịu đựng nỗi sỉ
nhục và tiến hành bài dịch. Bài có một số khó khăn nhưng cậu
cảm thấy mình có thể giải quyết được. Cậu là một trong mấy
người làm xong bài trước tiên. Giáo viên nhận tờ giấy và bỏ
qua một bên.
- Xin thầy vui lòng đọc qua bài của em và làm ơn cho em biết
em sai lỗi ở những chỗ nào.
- Về chỗ ngay đi và đừng có quấy rầy ta nữa.
Gioan, tươi cười mà lì lợm, vẫn không nhượng bộ:
- Em đâu có xin thầy làm việc gì to tác. Chỉ cần thầy đọc qua
một lần thôi.
Don Moglires đành miễn cưỡng đọc thử. Bài dịch quả là tốt, tốt
đến nỗi nó lại khiến ngài mất hết bình tĩnh:
- Ta đã từng nói em chỉ là đồ bỏ, có làm nên tích sự gì đâu. Bài
làm này, em đã “Cọp dê” từ a đến z.
- Nếu vậy, xin hỏi thầy, em đã “cọp dê” của bạn nào mới được
chứ?
Các bạn ngồi kế bên cậu ai nấy vẫn đang cắn bút nhíu mày, cố
moi óc để dịch cho xong mấy câu chót.
Thật là xấc láo quá cỡ! Giáo viên nạt nộ như sấm sét. Cút ngay
về chỗ và hãy lấy làm mừng vì ta còn chưa nỡ tống cổ em ra
khỏi lớp.
Chứng tắc nghẽn động mạch đã từng là một bệnh gây chết
người vào thời đó, và cả “Bệnh thành kiến” cũng vậy.
Quá trình mấy năm học ấy đã là một chuỗi những tháng ngày
gian khổ. Trong hồi ký này của ngài, Don Bosco không nêu

8 Pages 71-80

▲back to top

8.1 Page 71

▲back to top
đích danh Don Moglires. Ngài vốn tôn trọng những bậc già nua
tuổi tác. Ngài chỉ nói bóng nói gió tới “ai đó mà sự thiếu khả
năng xác lập kỷ luật đã khiến tan thành mây gió tất cả những gì
tôi đã dầy công học hỏi được trong suốt bao tháng qua”.
Bóng áo dòng đen xa cách và lạnh lùng
Một cây gai nữa cũng gây khổ tâm không ít cho Gioan suốt
những tháng ấy. Cậu đã quen biết hai linh mục ngoại hạng:
Don Calosso và Don Virano. Cậu đã kết luận là hai vị này
chẳng có điểm nào khác nhau cả. “Tôi thường gặp, Don Bosco
viết, cha xứ của tôi đi trên đường, cùng với vị linh mục quản lý
nhà thờ. Tôi chào hai vị từ xa. Khi đi ngang hai vị, tôi lại kính
cẩn nghiêng mình trước tấm áo dòng của các ngài. Nhưng các
ngài vẫn giữ nguyên khoảng cách và chỉ đáp lại cái chào của
tôi một cách lịch sự trong lúc chân vẫn tiếp tục bước đi. Chiếc
áo dòng của ngài dường như đã cách ly các ngài với những
người phàm tục.
Trong các chủng viện thời ấy, người ta giảng dạy thế nào là tác
phong thích hợp hơn cả đối với những “con người của Giáo
hội”: dè dặt, nghiêm nghị và xa cách.
“Tôi cảm thấy hết sức phật lòng. Tôi đã có lần nói với bạn bè
của mình, nếu đến một lúc nào đó tôi được làm linh mục, tôi sẽ
xử sự trái ngược hẳn. Tôi sẽ xích lại gần các thanh thiếu niên,
tôi sẽ nói năng từ tốn với chúng và sẽ đưa ra những lời khuyên
tốt”.
Gioan không sao tưởng tượng được là quyết tâm ấy sẽ gây nên,
tám chục năm sau đó, cả một cuộc cách mạng thầm lặng trong
hàng ngũ các linh mục. Trong các chủng viện, người ta sẽ nhận
linh mục mới không phải theo một sự nghiêm nghị nhằm “tạo
ra những khoảng cách” mà là theo lòng nhân ái, tươi cười loại
bỏ mọi khoảng cách.

8.2 Page 72

▲back to top
Ở Murialdo, Gioan sử dụng giờ rảnh rỗi sau các tiết học để
thảo luận một cách bình tĩnh với Don Calosso. Vị linh mục già
ôn lại quá khứ của mình, cậu bé thì mơ về tương lai của cậu.
Rồi cậu đi quét nhà thờ, dọn dẹp gian bếp cho ngăn nắp, tò mò
xục xạo cùng khắp trong phòng thư viện nhỏ hẹp.
Nơi đây, ở Castelnuovo, các linh mục không muốn trò chuyện
với cậu. Dùng giờ rảnh cách nào đây?
Các thú giải trí của Gioan
Cách thứ nhất cậu dùng giết thì giờ là âm nhạc. Bác Roberto là
thầy dạy hát trong giáo xứ. Trong nhà có một cây đàn. Thỉnh
thoảng Gioan lại ngồi trước dàn phím của cây đàn phong cầm
nhỏ hoặc đàn đại phong cầm(orgue) để đệm đàn cho ban hợp
xướng của giáo xứ.
Bác Roberto, vốn là thợ may trong xứ. Do đó, cách thứ hai để
Gioan giết thới giờ là ngồi kề bên bác và tập tháo khuy, tập
đính nút, tập viền khăn mùi xoa, tập cắt áo Ghi-lê. Cậu khéo
tay đến mức ông chủ đã đề nghị cậu bỏ học để làm thợ cho
mình.
Tháng Tư, Don Moglires lại bắt đầu thấy ác cảm với cậu và sự
huyên náo trong trường làm cậu tin chắc là mình chỉ phí thì
giờ vô ích. Nhất trí với mẹ, cậu đã đến lao động mỗi ngày mấy
tiếng tại nhà Evasio Saviô, một ông thợ rèn. Nhân cơ hội này,
cậu đã học được cách sử dụng búa, giũa và cách làm việc tại lò
rèn.
Vào thời điểm ấy, Gioan Bosco chắc chắn không nghĩ rằng
mấy nghề trên một ngày kia sẽ giúp ích cho mình để mở những
xưởng thợ phục vụ các thanh thiếu niên nghèo thuộc vùng
ngoại ô Torino. Tạm thời, mối bận tâm duy nhất của cậu là lo
dành dụm một số tiền. Sắp tới cậu rất cần đến số tiền ấy. Cùng

8.3 Page 73

▲back to top
với mẹ Margarita, cậu đã hạ quyết tâm cố thử, sang năm, một
bước mạo hiểm có tính quyết định: các trường học ở Chieri

8.4 Page 74

▲back to top
Chương 8
“TÔI CẦN PHẢI HỌC”
Thu xếp khăn gói xong và sau khi chào bác Roberto, Gioan
không vội trở lại xóm Becchi ngay. Cậu tới Sussambrino, một
nông trại mà anh Giuse của cậu đã nhận làm khoán chung với
Giuse Febrano. Và cả mẹ Margarita, cùng lúc với con trai
mình, cũng đã bỏ xóm Becchi lại sau lưng.
Gioan đã dùng mấy tháng hè để kiên trì học tập. Ở Chieri, cậu
không muốn thấy mình là kẻ trì trệ.
Nhưng cậu lại cũng không muốn trở thành một gánh quá nặng
cho anh trai mình. Để được như vậy, cậu đã tiếp tay với anh
trong các công việc đồng áng, cậu sửa chữa các dụng cụ canh
tác trên một cái lò rèn dã chiến; cậu dẫn bò đi cho chúng ăn cỏ.
Công tác sau này giúp cậu có thời giờ để đọc sách và học.
Rosa Febrano, con gái của Giuse, nhớ lại là Gioan hồi ấy
thường quen vùi đầu vào sách vở đến nỗi lũ bò tha hồ thao
túng. Chính cô ta, một đứa con gái mười tuổi đầu, phải đuổi
theo chúng trên các cánh đồng, băng ngang các luống bắp, để
lùa chúng về với cậu học sinh trước khi các ông chủ kịp lên
tiếng than phiền.
- Bò của chú vừa ăn bắp của người ta đấy!
- Cảm ơn Rosa nhé!
Cô bé nhìn cậu một lát, rồi:
- Nhưng sao chú lại lãnh việc đưa chúng đi ăn cỏ, nếu như sau
đó chú chẳng canh chừng chúng gì hết.

8.5 Page 75

▲back to top
- Chú phải học, cháu Rosa à, và thỉnh thoảng chú lại hơi đãn trí
chút xíu.
- Bộ chú thích làm linh mục thật sao?
- Thật chứ.
- Vậy thì, nếu chú muốn, cháu sẽ canh chừng bò cho chú. Đằng
nào thì cháu cũng phải chăn cả bò của cháu nữa.
Gioan cảm ơn cô bé rồi lại cắm đầu vào sách vở.
Gioan Bosco khăn gói lên đường đi học
Sẵn sàng đổi bánh mì ngon để lấy bánh mì dở vì yêu mến bạn
hữu
Giấc mơ chín tuổi năm xưa” lại trở lại
Tại Castenuovo, Gioan có một người bạn học tên là Giuse
Turco. cha cậu bé có một cái trại tên là Renenta gần
Sussambrino. Ông ta là một người lương thiện, và một Kitô
hữu tốt lành. Một hôm ông bắt gặp Gioan vào lúc cậu đang
học.
“Can đảm lên, Gioan, lần này cháu chắc sẽ thành công.”
(Cháu cám ơn ông Turco. cháu thật sự hy vọng như vậy. Nỗi sợ
hãi duy nhất của cháu chính là việc mẹ cháu không thể trả được
tiền thuê nhà cho cháu tại Chieri.”
“Nhưng ở đó chẳng có Chúa hay sao? Ngài chắc chắn sẽ làm
cho đường đi của cháu được tốt đẹp.”
“Cháu hy vọng như vậy, nhưng cháu vẫn sợ.”
Đó là một nụ cười buồn rười rượi. Thất khó nói ngược lại cậu
bé Gioan, vì có quá nhiều dịp may mắn đã trôi qua rồi.

8.6 Page 76

▲back to top
Nhưng một hôm cha con ông Turco đều thấy cậu chạy lại và
hết sức hý hửng:
“Cháu có một tin vui. Đêm hôm qua cháu đã mơ một giấc mơ,
Cháu mơ thấy mình là một linh mục chăm sóc cho nhiều đứa
trẻ.”
Ông Turco “bố” lưỡng lự.
“Nhưng đó chỉ là một giấc mơ thôi cháu!”
“Ông không thể hiểu nổi đâu. Đối với cháu thế là đủ. Lần này
cháu sẽ thành công.”
Trong mùa hè, xứ Murialdo ăn mừng lễ bổn mạng của mình.
Không lấy gì làm xa xôi, Gioan được phần biết là người ta đã
dựng một cây cột mỡ, với trong số những phần thưởng đắt giá
nhất, một túi đựng 20 lier.
“Cái này sẽ được việc cho mình đây”, cậu nghĩ.
Cậu liền lên đường đến lễ hội.
Cây cột đã được dựng lên, trơn trượt và có trét vừa dầu vừa
mỡ. Bọn con trai nhỏ ở địa phương hau háu ngó lên cái vòng
bằng sắt tuốt luốt trên cao có treo tòn teng những gói nhỏ,
những cái xúc xích, những chai rượu nho. Lâu lâu, lại có một
người, giữa những tiếng reo hò của đám đông, khạc nước
miếng vào lòng bàn tay và lao tới thử thời vận một phen. Tất cả
đều “rồ máy” hết ga, nhưng đến lưng chừng thì đã mệt đừ, họ
liền buông mình tuột xuống giữa những tiếng huýt gió và
những tiếng hú của đám khán giả vây quanh.

8.7 Page 77

▲back to top
Bỗng nhiên, sau khi nghiên cứu kỹ tình hình. Gioan tiến tới
chân cột. Cậu cũng phun nước miếng vào tay và vòng tay ôm
lấy cây cột. Cậu đã bắt đầu leo lên, chầm chậm và không nôn
nóng. Chốc chốc, cậu lại kê mông ngồi lên gót chân để nghỉ xả
hơi. Ở Moncucco, cậu đã phải quần quật suốt năm mới được
mười lăm lier, còn tại đây, chỉ cách vài mét trên đầu cậu, lại có
tới hai chục lires. Cậu sẵn sàng bỏ ra nguyên ngày cho cây cột
này, nếu cần.
Nhờ luôn luôn tiến tới với sự bình tĩnh, cậu đã leo tới chỗ mà
cây cột bắt đầu thon nhỏ dần. Cậu lại lấy thêm hơi và thực hiện
những sải tay cuối cùng.
Bên dưới, đám đông giờ đây đã nín thinh. Gioan vươn dài bàn
tay, gỡ cái túi đựng hai chục lires ra và cắn chặt vào giữa hai
hàm răng, giật thêm một cái xúc xích và một chiếc khăn mùi
xoa rồi mới chịu tuột xuống.
Nỗi gớm ghiếc phải ngửa tay xin bố thí
Hai chục lires lấy được trên cột mỡ tất nhiên không đủ cho việc
đến sinh sống tại Chieri. Cậu phải mua sắm quần áo, giầy dép,
sách vở và nhất là phải trả tiền trọ hàng tháng. Thửa đất giao
khoán Sussambrino đâu phải là một mỏ vàng. Tháng mười,
Gioan đến thưa với mẹ: “Nếu mẹ đồng ý, con sẽ lấy hai cái bao
và sẽ đảo qua các gia đình trong xóm để mở cuộc lạc quyên”.
Đây là một hy sinh lớn đối với lòng tự ái của cậu. Don Bosco
sẽ trở nên “kẻ ăn mày” vĩ đại nhất thế kỷ 19, nhưng ngài phải
khổ tâm vì phải xin của bố thí. Tháng 10 năm ấy, lần đầu tiên
trong đời ngài đã vượt thắng nỗi gớm ghiếc phải ngửa tay ăn
xin.
Địa phương Murialdo là một tổng thể gồm những xóm nhỏ và
những nông trại nhỏ lẻ tẻ. Gioan đi từ nhà này sang nhà khác.
Cậu gõ cửa, cậu nói: “Tôi là con trai bà Margarita Bosco. Tôi

8.8 Page 78

▲back to top
sắp đi Chieri ăn học để mong làm linh mục. Mẹ tôi rất nghèo.
Nếu quí vị có thể, xin vui lòng giúp đỡ tôi”.
Ai nấy đều quen biết cậu, vì đã từng dự khán các trò biểu diễn
của cậu, đã nghe cậu lặp lại các bài giảng; thiên hạ đều quí mến
cậu. Nhưng có quá ít người giàu. Họ cho cậu trứng, bắp, vài
đấu tiểu mạch. Lucia Matta, một bà góa, phải đến lập cư ở
Chieri để theo dõi việc học của con trai mình. Mẹ Margarita
bàn bạc với bà này và thỏa hiệp đã được đưa ra: Gioan, tại
Chieri, sẽ cư ngụ ở nhà bà cùng với con trai bà. Tiền trọ phải
trả là 21 lier một tháng. Mẹ Margarita không thể trả đủ số bằng
tiền mặt, nhưng bà hứa sẽ cung cấp bột và rượu. Gioan tình
nguyện làm đầy tớ trong nhà: xách nước, chẻ củi để nấu bếp và
để đốt lò sưởi, phơi đồ.
Bánh xe lịch sử vẫn tiến tới
Đang khi Gioan sống trong tuổi thơ đầy gian khổ của mình
giữa vùng đồi núi Castelnuovo thì bánh xe lịch sử vẫn xoay
đều, tiến tới. Cũng như trong những trang trước, chúng tôi
không hề có ý định vẽ lại một trang đầy đủ về lịch sử nước Ý.
Nhưng chúng tôi thấy dường như tất yếu phải rút từ đó vài nét
chính, bởi lẽ chính trên cái nền ấy đã diễn ra những biến cố nổi
cộm hơn cả trong cuộc sống cá nhân của Gioan Bosco. Và
cũng từ bối cảnh lịch sử ấy, cậu đã rút tỉa được những ấn
tượng, những tư tưởng, những cảm xúc.
Chống lại cuộc phục hưng bất khuất và thoái hóa của các
hoàng thân, các hội kín quen tổ chức sự nổi dậy và các vụ
phiến loạn, đã đột nhập vào Ý trong các năm từ 1815 đến 1820.
Tháng Giêng năm 1820, một tia lửa xẹt ra bên Tây Ban Nha.
Tại Cadiz, một cuộc cách mạng đã buộc Ferdinand VII phải
chấm dứt chế độ chuyên chế và nhượng bộ Hiến pháp: một
pháp lệnh đảm bảo cho mọi người những quyền tự do cơ bản

8.9 Page 79

▲back to top
và quyền bầu cử. Chính nhà vua đã thề sẽ chấp hành Hiến pháp
này.
Tia lửa làm bùng lên thành đám cháy tại Ý sáu tháng sau. Một
đội kỳ binh trong vương quốc Nhị-Siciles đã nổi dậy làm loạn
với những tiếng gào la “Tự do và Hiến pháp muôn năm!”. Nội
trong tám ngày, để khỏi mất ngai vàng, Ferdinand de Naples đã
chấp nhận Hiến phán Cadiz và đã thề trên Kinh Thánh là sẽ tôn
trọng Hiến pháp ấy.
Ngày 10 tháng ba năm 1821 (Gioan lúc ấy mới lên sáu), cuộc
nổi loạn quân sự cũng bắt đầu ở Piemont, dưới quyền chỉ huy
của Bá tước Santore de Santarosa. Alexandria đem theo hiệu
kỳ màu xanh dương của nhà Savoia và kéo lên nóc thành ba
màu cờ (nhằm nhắc đến cuộc cách mạng Pháp và các quyền
con người mà họ đã công bố). Các binh đội trấn đóng ở
Pinerolo và Vaccelli cũng nổi dậy. Từ Fossano, một viên trung
tá kéo cả một liên đội quân sĩ tiến về Torino.
Vua Vittorio Emmanuel đệ nhất, hoảng hồn, từ Moncalieri vội
phóng về Torino, triệu tập bá quan văn võ và tính đề nghị
nhượng bộ Hiến pháp để khỏi mất tất cả. Nhà vua sắp tiến hành
biện pháp này thì nhận được tin là nước Áo đã quyết định can
thiệp vào Ý “để tái lập trật tự”.
Mệt mỏi vì các biến cố trên, Vittorio Emmanuel đệ nhất đã
xuống khỏi ngai vàng, nhường ngôi cho ngự đệ Charles-Félix.
Ông này lúc ấy đang cư ngụ tại nhà cha vợ của mình, đã công
bố chức “nhiếp chính” cho ông hoàng trẻ tên Carlo Alberto (hai
mươi ba tuổi).
“Hãy đến nói với hoàng tử...”
Carlo Alberto đã bắt liên lạc với Santarosa, kẻ mà ông rất hâm
mộ các tư tưởng, nhưng ông lại không sao quyết định nên ngả
hẳn về chính thể chuyên chế hay về chế độ tự do. Chưa gì đã lộ

8.10 Page 80

▲back to top
rõ nơi ông cái cá tính do dự sẽ khiến ông bị gán cho bí danh
“ông vua Tentenna”, có nghĩa một cách nôm na là vị vua “trù
trừ”: kẻ mất nhiều thì giờ để quyết định. Ông muốn với bất cứ
giá nào, ít ra là một điều: duy trì quyền bính của mình ở ngai
vàng và bảo vệ quyền ấy chống lại quân Áo và phe tự do.
Đối diện với một quần chúng đông đảo đứng dưới các cửa sổ
của điện Carignan, đòi hỏi phải có Hiến pháp (họ có hiểu đích
xác đó là gì không?), Carlo Alberto đã nhượng bộ. Tối 13
tháng 3 năm 1821, ông đã ký vào bản Hiến pháp Cadiz và hai
hôm sau, đã hứa sẽ tôn trọng Hiến pháp ấy. Ông đã thành lập
một chính phủ mới mà trong đó Santarosa trở thành Bộ trưởng
chiến tranh.
Khi Charles-Félix ở Mondène nhận được một lá thư của Carlo
Alberto báo cáo cho ông mọi chuyện đã xảy ra, ông đã vô cùng
tức giận. Ông lớn tiếng truyền cho nhà quí tộc Costa, kẻ đã
mang thư tới: “Hãy đi nói với hoàng tử, nếu hắn ta còn một
giọt máu vương giả nào trong huyết quản, thì hãy tức khắc lên
đường tới Novarre và đợi lệnh ta ở đó”.
Carlo Alberto thoạt đầu có vẻ kiên quyết chống lại, nhưng
những tin dữ đã đến từ Naples: một đạo quân Áo đã đè bẹp các
toán quân của phe tự do, Nghị viện đã bị giải thể, chế độ lập
hiến đã bị lật đổ, ông hoàng trẻ liền rút về Novarre. Tại đây,
ông đã tuyên bố một bản tuyên ngôn trong đó ông từ nhiệm
chức nhiếp chính và kêu gọi nên thần phục nhà vua. Ngay sau
đó, ông đã lên đường đi Florence, với thân phận kẻ bị lưu đày.
Sự trở về Piemonte của Charles-Félix đã được mở đường bởi
việc xâm nhập của một đạo quân Áo gieo hỗn loạn cho các
quân tình nguyện của Santarosa và “đã tái lập trật tự”. Bảy
chục thủ lãnh của phe phiến loạn đã bị kết án tử hình(68 người
trong số đó đã đào thoát sang Thụy Sĩ và Pháp), ba trăm sĩ
quan và ba trăm giới chức dân sự đã bị thanh trừng, hai trường

9 Pages 81-90

▲back to top

9.1 Page 81

▲back to top
đại học ở Torino và Genova bị đóng cửa trong thời gian một
năm. “Tất cả những ai đã cho học ở Đại học đều là những kẻ
thối nát, Charles-Félix đã viết thế cho em ruột đang bị lưu đày.
Bọn xấu đều là những kẻ có học thức, còn người tốt, thì đều là
những kẻ ngu dốt”.
Cái “phong trào năm 1821”, như được gọi trong các sách lịch
sử, đều là những biến cố chỉ liên quan đến giới trưởng giả, các
giai cấp trung lưu trong dân chúng. Còn các giai cấp nông dân
và thợ thuyền thì vẫn dửng dưng với mọi chuyện ấy. Các giai
cấp trung lưu (thương gia, các nhà thầu nhỏ, các nhà tiểu công
nghệ, các giới chức quân sự và dân sự) xuyên qua “cuộc cách
mạng tự do”, chỉ nhắm một mục tiêu duy nhất: biến mình thành
những nhóm nhỏ có quyền hành, thành giai cấp được ưu đãi
thay cho giới quí tộc trước kia. Những cải cách được đòi hỏi và
được phê chuẩn bởi Hiến pháp Cadiz vừa không có tính quần
chúng, vừa không dân chủ gì cả. Chuyện bầu cử chỉ được
chuẩn chấp cho những ai đạt tới một mức độ giàu sang nhất
định. Chỉ riêng họ mới có thể cử các đại biểu của mình vào
Nghị viện và bảo vệ, tất nhiên, các quyền lợi của họ. Cũng như
cuộc cách mạng Pháp trước đây đã muốn, cuộc cách mạng tự
do cũng muốn loại bỏ mọi đặc quyền, từ một đặc quyền duy
nhất: sự giàu có.
Là vua nhờ ơn Chúa chứ không nhờ ai khác
Charles-Félix, chỉ mãi đến tháng 10 năm 1921 mới trở về
Torino. Diện mạo ấy, ngày nay nhìn lại, ta thấy nó thật lạ lùng
và độc đáo. Ông chẳng bao giờ muốn làm vua. Ưa nếp sống ẩn
dật và khiêm tốn, ông giống hệt một nhà tu hành. Ông chấp
thuận lên ngôi vua đơn thuần chỉ vì “bổn phận của lương tâm”.
Nhưng kể từ giây phút đứng ra nhận quyền nhiếp chính, ông đã
tỏ ra lôgic tới cùng. Với những quan niệm của mình về một nền
“chuyên chính bất khoan nhượng”. Ông tự cảm thấy mình làm

9.2 Page 82

▲back to top
vua là “nhờ ơn Chúa chứ không nhờ ai khác” và muốn thống trị
nhân dân mình như một người cha độc đoán chỉ huy một gia
đình gồm những đứa con phân tán khắp nơi. Ông muốn rằng
bất luận án tử hình nào cũng trở nên một “tấm gương hữu ích”
cho mọi cái đầu hung hăng và, do đó, đã tán thành cách “dùng
kim nung đỏ” đối với kẻ bị kết án đang lúc hắn bị giải tới nơi
hành quyết. Chính vì lý do cá biệt này mà ông đã bị nhục mạ
qua bí danh “Charles-Feroce (Charles tàn bạo).
Massiomod’Azeglio đã mô tả mười năm trị vì của ông này qua
những từ: “Một bạo chúa đầy những tình ý ngay thẳng và
lương thiện”.
Cao và buồn như một mùa chay
Carlo Alberto kế vị ông vào năm 33 tuổi trên ngai vàng ở
Torino. Đối với những kẻ chuyên chế cũng như phản động, ông
đã thay đổi hình ảnh của ông bằng cách đã chiến đấu tại Tây
Ban Nha chống lại những người thuộc phe tự do, là những kẻ,
trong các văn bản của họ, đã trả đũa lại bằng cách gọi ông là
“kẻ phản tặc” và “kẻ bội thề”.
Đây là một người đàn ông với nước da xanh mét. Ông rất cao
lớn: hai mét và bốn centimét. Dân Piemonte nói rằng ông “cao
và buồn như một mùa chay”. Để chứng tỏ cho cả phe này lẫn
phe kia rằng mình không còn là ông hoàng đã ký tên vào bản
Hiến pháp, ông sẽ cho xử bắn bảy người ủng hộ Mozzini ở
Alexandria vào năm 1833 và mười người nữa ở Genova, và
ông còn kết án thêm bảy chục người phải chịu án khổ sai chung
thân.
Nhưng bất chấp mọi nỗ lực của ông đã chặn đứng lịch sử, sử
Piemonte và nước Ý đều đã đổi khác. Giới trưởng giả đã trở
nên một giai cấp thực sự quan trọng, mà dù họ còn chưa hiểu
“nền tự do dân chủ” nghĩa là gì, đang cần được “quyền tự do

9.3 Page 83

▲back to top
kinh doanh” để bành trướng trong bán đảo một sự thoải mái tốt
đẹp hơn.
Trong xứ Piemonte, người ta đào các kênh mương, tát cạn các
đầm lầy, cạo trọc dãy Langhe (loạt đồi nằm dọc theo hướng
nam vùng Montferrat), người ta khuếch trương ngành trồng
dâu, trồng đay, trồng nho. Người ta quảng bá việc trồng khoai
tây, nhờ đó sẽ chấm dứt những nạn đói định kỳ khủng khiếp
mỗi khi đến mùa nắng hạn.
Rất nhanh, đã nẩy sinh các nhu cầu kéo dài thêm hệ thống
đường sá và tiến hành việc xây dựng các tuyến đường xe lửa.
Và cảm quan chính trị cũng có khuynh hướng chuyển biến một
cách khắc nghiệt.
Trong những tháng cuối năm 1832, tại Marselle, Mazzini đã
thành lập Hội “nước Ý trẻ”. Quan niệm về một nước Ý như
một “quốc gia thống nhất” lan rộng như là một sự phát huy của
một chân tính lịch sử được xác định bởi những truyền thống
văn hóa và bình dân của nó, nhất thiết phải đưa đến từ một nền
tự do và độc lập. Những người Ý đã hiểu được rằng họ có
một định mệnh chung, mà chính họ phải lãnh đạo, cùng với
(hay là thế cho) các ông vua là những người cho tới giờ này
vẫn còn coi dân chúng như là một đàn những còn người còn ấu
trĩ.
Tại Torino, năm 1832, Silvio Pellico phát hành cuốn “Những
Ngục Tù Của Tôi”, một cuốn sách nhỏ đã lay động nước Ý và
bắt nó phải tư duy theo nhiều cách khác. Nước Áo, mà cho đến
nay vẫn có vẻ là kẻ giữ gìn trật tự và sự thoải mái về mặt xã
hội, đã bị mất mặt. Trong những trang sách vừa ôn hòa vừa đầy
vẻ bất bình của nhà văn gốc người Saluces, thuộc tỉnh Cuneo
nước Ý này, kẻ đã trải qua mười năm phục dịch gian khổ như
những người tù trên các chiến thuyền hoàng gia, chính quyền

9.4 Page 84

▲back to top
Áo đã để lộ nguyên hình bộ mặt độc ác của nền độc tài chỉ biết
đàn áp và tra tấn.

9.5 Page 85

▲back to top
Chương 9
THỜI THIẾU NIÊN TẠI CHIERI
Tháng Tư năm 1821, hôm ấy là ngày thứ ba của lễ “Mùa hè
của Thánh Martinô”, Gioan Bosco cùng với một người bạn
đồng trang lứa, Gioan Fillipello, cuốc bộ đến tận Chieri. Dọc
đường, Gioan đã cởi mở tâm tình với bạn. Cậu nói về việc học
sắp tới, kể lại quãng đường mình đã sống, những gì mình đã
phấn đấu nhằm biến ước mơ thành hiện thực. Fillipello, một
thiếu niên hơi khờ khạo, ngạc nhiên hỏi cậu:
Thế ra mãi đến nay anh mới sắp sửa nhập học trường trung học
ư? Vậy mà anh đã biết quá nhiều như vậy sao? Chắc anh sẽ rất
sớm được làm linh mục.
Bạn có biết “làm linh mục” có nghĩa là gì không? Linh mục có
những trách nhiệm rất nặng nề. Sau bữa ăn trưa và bữa ăn tối,
ngài phải ngẫm nghĩ: “Mình đã ăn uống xong xuôi, còn các
bổn đạo của mình, họ đã có gì dằn bụng chưa?. Những gì ngài
có, ngài phải chia sẻ với những kẻ nghèo khó. Anh bạn
Filipello của tôi ơi, tôi sẽ không đời nào chịu nhận làm cha xứ
của họ đạo này đâu. Tôi muốn tận hiến đời mình cho các thiếu
niên kia.
Đang lúc hai cậu bé vừa đi vừa nói về đói kém và về kẻ nghèo,
thì ở Lyon, chỉ cách đó 250 cây số đường chim bay, một cuộc
bạo loạn của các công nhân ngành dệt bắt đầu diễn ra. Hàng
ngàn và hàng ngàn, họ xuống đường để phản đối lương bổng ít
ỏi và số giờ lao động vượt quá sức con người: khoảng 18 giờ
một ngày. Sau mấy ngày đấu tranh ngoài đường phố, vụ chống
đối bị kết liễu, bị dập tắt bởi các toán lính do chính quyền gửi
đến. Hơn một ngàn nạn nhân.
Năm sau, vụ bạo động ở Paris sẽ gây cho 800 người thiệt
mạng. Mùa xuân năm 1834, công nhân Lyon và Paris nhất loạt

9.6 Page 86

▲back to top
nổi dậy với những tiếng gào la: “Sống bằng lao động hoặc chết
trong đấu tranh”. Người ta đã dùng súng đại bác bắn xả vào họ.
Gioan Bosco không thể nào lại không biết gì về những chuyện
ấy. Không một tin tức nào trên các nhật báo bị kiểm duyệt gắt
gao lại không rò rỉ lan rộng khắp lãnh thổ vương quốc
Piemonte. Trong mấy tháng đầu năm ấy, Gioan thỉnh thoảng lại
nghe nói đến các “phong trào tự do”. Cuộc cách mạng có liên
quan đến các phong trào ấy, với những lời lẽ úp mở, toan tính
đưa nước Ý tới Hiến pháp và tới việc thoát khỏi sự lệ thuộc
nước Áo. Cuộc cách mạng này chẳng bao lâu sẽ được gọi là
Cuộc Phục Hưng của nền Quân chủ (Risorgimento).
Ngược lại, Gioan không có mảy may một ý niệm nào về một
cuộc cách mạng khác, sâu sắc, triệt để, đang làm biến đổi cả
miền Bắc của Châu Âu và chẳng bao lâu nữa, sẽ xâm nhập vào
nước Ý. Đó là cuộc “cách mạng công nghiệp” có liên quan mật
thiết đến vấn đề quan trọng là “vấn đề thợ thuyền”. Cậu sẽ bắt
đầu chứng kiến hậu quả thảm khốc của cuộc cách mạng ấy khi
cậu đặt chân đến kinh thành Torino, mười năm sau.
Một cây cột giữa bọn trẻ nhỏ
“Tôi đã ở trọ”, Gioan Bosco viết, tại nhà bà Lucia Matta, một
góa phụ ở vậy nuôi một cậu con trai. Bà đã cố tình đến sống
với con ở Chieri nhằm canh chừng và chăm sóc nó.
Ít lâu sau, mẹ Margarita đến Chieri trên chiếc xe bò của một
người bạn, có chở theo hai bao ngũ cốc. Bà đến gặp con trai
mình tại nhà bà Matta.
Đây là con trai tôi, bà thưa với bà chủ, còn đây là chút ít gọi là
để trả tiền ở trọ của cháu nó. Tôi đã cố đóng góp phần mình,
con trai tôi sẽ lo phần đóng góp của nó. Tôi hy vọng bà sẽ
không phải phiền lòng vì nó.

9.7 Page 87

▲back to top
“Nhân vật đầu tiên mà tôi quen biết đó là Don Placide
Valimberti, và tôi đã giữ được một kỷ niệm rất đẹp về ngài.
Ngài đã cho tôi những lời khuyên tốt, đã dẫn tôi đến gặp thầy
giám học, đã giới thiệu tôi với các giáo viên. Vì cho tới lúc ấy
môn nào tôi cũng chỉ học sơ sơ được một ít nên chẳng đâu vào
đâu cả. Người ta đã chọn giải pháp là xếp cho tôi vào học lớp
7.
Giáo viên, cha Valérien Valimberti, đã chứng tỏ một lòng nhân
ái bao la đối với tôi. Tuổi đời của tôi (16 tuổi) và tầm vóc của
tôi tạo cho tôi dáng vóc của một cây sào giữa các bạn học cùng
lớp với tôi. Nóng lòng muốn lôi tôi ra khỏi tình cảnh dở khóc
dở cười ấy, sau hai tháng học lớp 7, tôi đã được đặt cách chiếu
cố cho dự kỳ thi chuyển lên lớp 8 và tôi đã may mắn được
chấm đậu.
Tôi rất sẵn lòng gia nhập lớp mới của mình; giáo viên là Don
Valimberti kính yêu. Sau hai tháng, nhờ nhiều phen là người
đứng đầu lớp, tôi là được đặc cách dự một kỳ thi khác và đã
được nhận vào lớp 9.
Giáo viên là Vincent Cima, một người rất khắt khe đối với vấn
đề kỷ luật. Khi thấy lù lù bước vào lớp mình giữa năm học một
đứa học trò vừa cao lớn vừa mạnh khỏe không kém gì mình,
thầy đã nói đùa ngay giữa giờ đứng lớp: “Tên này đúng là một
con chuột chũi khổng lồ hoặc một chàng trai rất dồi dào phong
độ”.
Hơi bực mình vì câu nói xỏ xiên ấy, tôi đáp: “Tàng tàng nửa nọ
nửa kia vậy thôi. Em là một đứa bé xấu số hết lòng ao ước làm
tốt bổn phận của mình và đạt tiến bộ trong việc học”.
Những lời này làm đẹp ý thầy nên, với một nhã ý, thầy liền nói
thêm: “Nếu em chịu chơi mức ấy thì em đã gặp được sư phụ
cao thủ rồi đó. Thầy sẽ không để em thất nghiệp đâu. Hãy tin

9.8 Page 88

▲back to top
tưởng. Nếu em gặp điều gì phiền hà, hãy lập tức cho thầy biết
và thầy sẽ giúp đỡ em”. “Em xin hết lòng đa tạ thầy”.
Bỗng đâu xảy ra một sự kiện nhỏ…
Chieri là một thành phố nhỏ cách Torino khoảng mười cây số.
Nó trải dài từ chân đồi Torino, nằm ở phía đối nghịch với phía
có kinh đô của xứ Piemonte. Khi Gioan tới đây, thành phố đếm
được 9.000 dân. Đây là một đô thị của các nhà tu hành, các tay
thợ dệt và các học sinh.
Nhiều tu viện là nơi thường trú của các tu sĩ cả nam lẫn nữ,
thuộc nhiều dòng tu khác nhau: Đa minh, Philipphê (do Thánh
Philiphê Nêri sáng lập), Dòng Tên, dòng Phanxicô, dòng
Clarisse… rất đông đảo thợ dệt hành nghề kéo sợi bông vải và
tơ tằm tại ba chục cơ sở sản xuất lớn nhỏ.
Học sinh đến đây từ mọi miền của miền Montferrat và của xứ
d’Asti. Họ kéo lê một kiếp sống rất cơ cực. Các khóa học được
giảm phân nửa số học phí nhưng học bổng thời ấy vẫn chưa có.
Để trả tiền trọ, rất nhiều học sinh phải tự chuốc vào thân những
hy sinh lớn. Công việc làm ngoài các giờ học được lùng kiếm
rất dữ: làm thợ chép bản thảo nửa buổi, làm việc nhà, ăn lương
giờ phục vụ các gia đình giàu, các lớp ôn tập, tắm ngựa và rửa
xe cộ đủ loại… để tiết kiệm, họ không dám đốt củi lửa trong
những ngày mùa đông tháng giá; đang lúc ngồi học, họ phủ
mền bít bùng, hai chân xỏ trong giầy gỗ.
Gioan đã sống giữa các học sinh nghèo, cũng chịu chung cảnh
nghèo khó như họ. Lâu lâu mẹ Margarita lại từ Sussambrino tới
để hỏi thăm tin tức nơi bà Lucia Matta. Bà góa tốt bụng thông
báo toàn là những tin lành, cậu rất đạo đức và chăm học. Cậu
còn tích cực giúp con trai của bà, tuy lớn hơn cậu mấy tuổi
nhưng lại không thích thú gì chuyện học hành. Gioan đã trở
nên bạn thân của anh ta và thậm chí đã dụ được anh ta đến nhà

9.9 Page 89

▲back to top
thờ để tạ lỗi với Chúa về thói biếng nhác việc đạo đức của anh
ta.
Gioan tìm mọi cách để tham gia thanh toán tiền trọ của chính
mình. Cậu đã kiếm được một khoản thu nhập mấy xu nhờ phụ
việc trong xưởng thợ của một bác phó mộc thân quen cậu đã
học được cách sử dụng bào, đục và bàn chà.
“Tôi học lớp 8 vừa được ba tháng, bỗng đâu xảy ra một biến cố
nhỏ khiến thiên hạ xầm xì bàn tán về tôi. Hôm ấy, giáo viên La
văn giảng về đời sống Angesilas của sử gia Cornélius Nepos.
Xui xẻo làm sao tôi lại không đem theo cuốn sách giáo khoa có
in bài văn ấy. Để che mặt giáo viên, tôi đã mở cuốn văn phạm
và đặt ngay trước mặt mình. Nhưng tôi đâu có qua mặt nổi mấy
người bạn ngồi kế bên. Một tên trong bọn bắt đầu hích cùi chỏ
báo cho người bên cạnh, một tên khác không sao nhịn được đã
cười phá lên.
“Có chuyện gì vậy?” giáo viên Cima cất tiếng hỏi. Khi nhận
thấy là hầu hết bạn bè đều nhìn về phía tôi, ông liền ra lệnh cho
tôi nhắc lại những lời giảng của ông, đồng thời đọc nguyên văn
bài trích giảng bằng La văn của Cornélius Nepos. Tôi lật đật
đứng lên, tay cầm cuốn văn phạm, tuy vậy tôi cũng đã thành
công trong việc lặp lại theo trí nhớ cả bài trích giảng bằng La
văn lẫn những lời giảng giải của giáo viên. Bạn bè tôi, ngạc
nhiên lẫn thán phục, tất cả đều vỗ tay hoan hô vang dội.
Tức uất người lên, giáo sư lớn tiếng la, vì đây là lần đầu tiên
xảy ra tình trạng mất trật tự như vậy trong giờ ông đứng lớp.
Ông vung tay tính tát tôi một cái, cũng may mà tôi đã né kịp.
Rồi, đè tay lên cuốn văn phạm của tôi, ông bắt các học sinh vây
quanh tôi phải kể lại nguyên văn “của tình trạng mất trật tự
này”.
“Bosco không có bài văn của sử gia Cornélius. Anh ấy chỉ
mang theo cuốn văn phạm. Tuy vậy anh ấy cũng đã đọc lưu

9.10 Page 90

▲back to top
loát và cắt nghĩa trôi chảy như thể anh ấy đang cầm chính bản
văn của Cornelius vậy”.
Giáo sư nhìn kỹ cuốn sách mà mình đang đặt tay trên đó và đề
nghị tôi đọc thêm hai câu trong bản văn của Cornelius. Sau đó,
ông kết luận: “Thầy tha cho em vì trí nhớ kỳ diệu của em. Số
em hên lắm đó. Hãy ra sức sử dụng tốt năng khiếu trời cho ấy”.
Trí nhớ kỳ diệu của mình, Gioan đã từng chứng tỏ với Don
Calosso, nhưng ở đây, tại Chieri, đã bắt đầu xảy ra những sự
kiện dị thường. Một đêm kia, cậu mơ thấy mình đang làm bài
tập trong một tiết học La văn. Ngay khi thức giấc, cậu liền chép
lại từ đầu đến cuối bản văn mà cậu còn nhớ rất rõ và dịch ngay
ra tiếng Ý với sự tiếp tay của một linh mục thân quen với mình.
Đến giờ học, giáo sư ra ngay tróc bài tập ấy và Gioan đã
làm xong bài phiên dịch trong một thời gian kỷ lục.
Chuyện này còn xảy ra thêm một lần nữa, nhưng dưới một
dạng còn ly kỳ hơn nhiều. Gioan nộp bài làm của mình rất
sớm, quá sớm. Giáo sư đọc bài, nhìn bản nháp và chưng hửng
như vừa “từ trên trời rơi xuống”: trên trang giấy vo nhăn nhúm
có ghi cả phần bài tập mà ông đã tính ra cho học sinh nhưng
vào phút chót chính ông đã tự ý cắt xén bớt vì thấy bài tập đã
quá dài.
Em lấy đâu ra bài làm này đây?
Em đã bắt gặp nó trong lúc ngủ mơ.
Một giấc mơ: biến cố chẳng lấy gì làm quan trọng trong cuộc
sống của mọi người, nhưng trong cuộc sống của Gioan Bosco,
“giấc mơ” đã từng tỏ ra rất là “nặng ký”. Và năm tháng càng
qua đi, thì vấn đề này sẽ càng tăng thêm tầm quan trọng của nó
trong cuộc sống của Gioan. Đây là một trong những điều đã và
sẽ còn khiến chúng ta ngẩn ngơ, thắc mắc. Ai đã từng, trong
khuôn viên của Valdocco, nghe Gioan Bosco nhỏ nhẹ thì thầm:

10 Pages 91-100

▲back to top

10.1 Page 91

▲back to top
“Cha đã mơ một giấc mơ”, kẻ ấy liền vểnh tai chăm chú theo
dõi. Trong mơ, vị linh mục lạ đời này đọc thấy những tội lỗi
của các trẻ em, thấy trước giờ tạ thế của vua chúa, quan quyền,
“đoán biết” sự nghiệp vẻ vang của một chú bé thò lò mũi xanh
đang chơi ky với bạn bè.
Hội Vui
“Suốt bốn năm học đầu tiên, Gioan Bosco viết, tôi đã phải tự
xoay xở để học cách ứng xử với bạn bè của mình”.
Đã có những đứa bạn xấu, bất chấp tính khắt khe về nếp sống
Kitô giáo do nhà trường đề ra (mỗi học sinh đều phải nộp một
“biên nhận” chứng thực có xưng tội hàng tháng). “Một tên
trong bọn chúng vẻ tỏ ra trơ trẽn đến mức hắn dám xúi tôi ăn
cắp một món đồ đắt tiền của bà chủ”.
Buổi đầu, Gioan đã thật sự xa lánh những phần tử bất hảo ấy để
khỏi phải chịu số phận của chú chuột nằm trong móng vuốt của
gã mèo quái ác. Nhưng rồi sự tăng nhanh các thành quả học tập
của cậu đã sớm tạo điều kiện cho cậu có thêm với họ một dạng
quan hệ khác. Sao lại không lợi dụng ngay điều ấy để mưu cầu
lợi ích cho họ?
“Những người bạn trước đây đã tính xui tôi gây rối đều là
những học sinh biếng nhác trong việc học hơn cả, đến nỗi họ
đã bắt đầu chạy đến nhờ vả tôi làm giùm các bài tập thầy giáo
ra cho cả lớp làm” .
Cậu đã giúp họ, thậm chí quá lố bởi lẽ cậu đã chuyển qua gầm
bàn những bài dịch toàn bộ từ đầu đến cuối (trong kỳ thi, cậu
đã có lần bị bắt quả tang đang tuồn bài như vậy, và đã chỉ thoát
nạn nhờ một giáo sư có cảm tình riêng với cậu, đã chỉ phạt cậu
phải làm một bài dịch La văn để đền tội).
“Nhờ biện pháp ấy, tôi đã tranh thủ được thiện cảm và tình hữu
nghị của bạn bè. Họ đã bắt đầu đến gặp tôi trong các giờ ra

10.2 Page 92

▲back to top
chơi để nhờ chỉ bảo giùm các bài tập làm, rồi để nghe tôi kể
chuyện và rút cuộc, chẳng cần có lý do gì họ cũng vẫn đến như
thường”.
Bên nhau, ai nấy đều cảm thấy hả hê, thoải mái. Họ họp nhau
thành một nhóm bạn. Gioan đặt tên cho nhóm là “Hội vui
sống”. Nội qui, do chính cậu đề ra hết sức đơn giản:
Một, không làm một hành động, nói một lời lẽ nào khả dĩ khiến
người Kitô hữu phải hổ thẹn.
Hai, hoàn thành tốt mọi bổn phận do nhà trường và đạo giáo
đặt ra.
Ba, luôn “dzui dzẻ” trẻ trung.
Niềm vui, đối với Gioan Bosco, sẽ mãi mãi là một ý niệm cố
định. Đaminh Saviô, cậu học sinh ưu ái của ngài, thậm chí đã
đi tới chỗ phát biểu: “Chúng tôi thâu tóm sự thánh thiện vào
việc luôn luôn vui vẻ. Chúng tôi ra sức phấn đấu tránh xa tội
lỗi, vì tội cướp đi niềm vui của tâm hồn chúng ta”. Đối với
Gioan Bosco, niềm vui chính là sự mãn nguyện sâu sắc nảy
sinh từ việc biết rõ mình đang ở trong tay Chúa, tức đang được
an toàn. Đây là cách định nghĩa đơn giản về một báu vật vô
giá: “Đức Cậy Kitô giáo”.
“Năm 1832, giữa đám bạn bè, tôi đã trở nên như vị chỉ huy của
một đạo quân nhỏ”. Họ chơi đánh đáo, đi cà kheo, chạy, nhảy:
đều mệt nhoài, Gioan bắt đều biểu diễn những màn ảo thuật
trên một cái bàn nhỏ đặt giữa đám cỏ hoang.
“Từ trong một cái chén nhỏ, tôi làm xuất hiện hàng trăm cục
tròn đầy màu sắc và hóa phép cho hàng chục trái trứng xuất
hiện từ một cái bình rỗng không. Tôi móc ra từ mũi các khán
giả những trái banh nhỏ, tôi đoán ngay chóc số tiền mà họ đút
sâu trong túi quần áo của họ, và tôi chỉ cần đặt một ngón tay

10.3 Page 93

▲back to top
lên một đồng bạc bất cứ bằng loại kim khí nào cũng đủ để biến
nó nát vụn thành cát bụi ngay tức khắc.
Cũng như ở Becchi ngày nào, toàn bộ niềm vui ấy đều kết thúc
bằng những lời kinh nguyện.
“Mỗi ngày lễ trọng, chúng tôi đều kéo nhau đến nhà thờ Thánh
Antôn, nơi các cha dòng Tên có dạy một khóa giáo lý tuyệt hay
bằng cách viện dẫn những thí dụ mà cho đến ngày nay tôi vẫn
còn nhớ mãi”.
Bốn màn tỷ thí với tên mãi võ
Tuy vậy, một ngày Chúa nhật nọ, số thính giả có mặt bên trong
nhà thờ Thánh Antôn đã thưa hẳn đi. Một tên mãi võ chiều
hôm ấy đã đến trình diễn những màn nhào lộn đẹp mắt và còn
lên tiếng công khai thách đấu hai môn chạy đua và nhảy xa với
những thanh niên nào nhanh nhẹn nhất trong toàn thành.
Bực bội vì bị bạn bè bỏ lại một mình, Gioan cũng tò mò đi coi
thử. Tên mãi võ quả là một vận động viên điền kinh chính hiệu.
Hắn chạy và nhảy mạnh như một cỗ máy và biết có ý định sẽ
lưu lại Chieri một thời gian. Gioan tập hợp mấy người bạn thân
nhất của mình.
“Nếu hắn tiếp tục tiến hành các buổi trình diễn mỗi chiều Chúa
nhật, thì Hội của chúng ta có nguy cơ sẽ bị giải thể mất. Dứt
khoát phải có ai đó trong số những người đứng ra tỷ thí với
hắn, phải hạ bệ được hắn. Sau đó ta sẽ ra điều kiện cho hắn.
Nhưng, ai mà hạ nổi hắn chứ?
Chúng ta có thể kiếm ra một người nào đó. Nào có phải chuyện
lấp biển vá trời gì đâu! Chẳng hạn về vụ chạy đua, tôi không
tin là mình dở hơn hắn.
Gioan hồi ấy đã mười bảy và cảm thấy mình rất dồi dào, nhưng
Gioan Bosco đã lập tức ghi thêm, trong thiên hồi ký của mình:

10.4 Page 94

▲back to top
“Nhưng tôi đã không lường trước được các hậu quả của lời
mình nói. Một người bạn lẻo mép đã đi kể lại cho tên mãi võ,
và thế là tôi bỗng nhiên bị “dính chấu” vào một cuộc tỉ thí lạ
đời: một học sinh đấu với một vận động viên điền kinh chuyên
nghiệp.
Địa điểm được chọn làm nơi diễn ra cuộc tỷ thí là cửa ngõ ấn
vào kinh thành Torino. Vấn đề là phải xả hết tốc lực chạy
xuyên suốt kinh thành. Tiền đặt cược là 20 lires. Gioan không
có tiền, nhưng các hội viên đã quyên góp để đóng thay cho “đại
ca”. “Rất đông người dự khán cuộc tỷ thí”. Gioan Bosco nhớ rõ
như vậy.
Lúc xuất phát, tên mãi võ dẫn trước cả chục mét. Đây là một
tay cua-rơ nước rút chạy đường trường, trong khi Gioan thật ra
chỉ là một cua-rơ ở cự ly trung bình. “Rất nhanh, tôi đã rút
ngắn khoảng cách và rồi tôi đã bỏ hắn rớt lại xa lắc phía sau,
khiến hắn nản lòng bỏ cuộc giữa chừng và nhường phần thắng
lại cho tôi”.
Cuộc thách đấu đã kết thúc, nhưng tên mãi võ đòi phục thù để
rửa nhục. Chấp nhận cho hắn phục thù chính là một vấn đề
danh dự. Từ chối, trái lại, sẽ bị chê là ăn non, là “chó ngáp phải
ruồi”, là hèn. “Ta thách mi nhảy thi, hắn nói với tôi, nhưng ta
muốn đánh cá 40 lires”. “Ok”.
Chính hắn chọn địa điểm: phải nhảy qua một con lạch mà bờ
lạch nằm ngay dưới chân một vách tường nhỏ. Tên mãi võ bay
vút lên và hai chân đáp xuống ngay bao lơn cầu. “Chẳng có
cách nào nhảy xa hơn được, Gioan Bosco giải thích. Mình chỉ
có thể thua chứ không thể nhảy xa hơn hắn. Tuy vậy, tôi đã cố
tìm một diệu kế. Tôi cũng nhảy đúng bài bản như tên mãi võ
nhưng, chống tay lên bờ tường, tôi lại tung người bật thêm một
cú nữa. Nói ngắn gọn, chẳng khác gì một cú “nhảy sào” tầm
thường. Cậu đã thắng cuộc.

10.5 Page 95

▲back to top
Tên mãi võ tức sùi bọt mép, vừa vì số nhiều lires bị thua, vừa
vì bị thiên hạ bắt đầu cất tiếng chê cười hắn. “Ta thách mi một
màn tỷ thí nữa. Mi muốn lựa trò kỹ xảo nào tùy thích”. “Đồng
ý”. Tôi lật chiếc đũa mà trên đầu đũa có úp một cái nón và tôi
đặt đũa đứng thẳng giữa lòng bàn tay của mình. Tôi điều khiển
cho đũa nhảy lên đầu ngón tay út, qua đầu ngón áp út, đến đầu
ngón giữa, đầu ngón trỏ, đầu ngón cái; rồi nhảy lên mu bàn tay,
nhảy qua cùi chỏ, nhảy lên vai, lên cằm, lên miệng, lên mũi,
lên trán. Rồi quay gót trở lui đúng theo đường cũ, chiếc đũa
ngoan ngoãn quay về đứng yên giữa lòng bàn tay tôi, y hệt như
lúc mới xuất phát.
“Phen này, đừng hòng ta thua mi!”, hắn cam đoan với tôi. Hắn
dùng ngay cây đũa của tôi và đã vận hành nó với một kỹ xảo
tuyệt vời, cho tới lúc cây đũa đáp xuống trên môi hắn. Nhưng
vì chóp mũi hắn quá nhọn nên cây đũa đã bị tuột dốc, khiến
hắn phải đưa tay ra hứng cho nó khỏi rơi xuống đất.
Lần này Gioan cảm thương cho tên mãi võ vì, xét cho cùng,
hắn quả là một đối thủ xứng đáng. Kẻ xấu số thấy những đồng
lires của mình sắp “chuyển hộ khẩu” qua túi người khác. Xót
của, hắn gào lên: “Ta còn 100 lires và ta sẽ dồn hết vào cuộc
thi trèo cao. Ai đặt chân gần sát ngọn cây kia hơn cả (hắn đưa
tay chỉ một cây du mọc trên đường) sẽ ẵm gọn số tiền cược”.
Chúng tôi nhận lời thách đấu, và thật tình chúng tôi sẽ rất hài
lòng nếu hắn giành được thắng lợi phen này, vì chúng tôi
không muốn hắn bị “cháy túi”.
Hắn là người leo trước. Hắn trèo và đặt chân cao tới mức chỉ
cần leo cao thêm một gang tay nữa là ngọn cây sẽ gãy gập và
hắn sẽ té nhào xuống trong một tai nạn khủng khiếp. Mọi
người có mặt đều công nhận là không có cách nào trèo cao hơn
nữa. Đến phiên tôi, tôi đã lên tới hầu như đúng tại điểm mà hắn
đã đặt chân, nhưng tôi đã nắm lấy cành cây, lấy thăng bằng rồi

10.6 Page 96

▲back to top
tung người lên trồng cây chuối, nhớ vậy hai chân tôi đã vượt
cao hơn chỗ hắn đã đặt chân ít nhất là một thước”.
Bên dưới, những tràng pháo tay nổ vang như sấm rền. Các hội
viên của tôi ai nấy đều mừng quýnh cả lên, ôm lấy nhau và
nhảy múa loạn xạ. Kẻ bất hạnh mặt buồn thiu như chỉ chực
khóc. Chúng tôi liền hoàn trả toàn bộ số tiền của hắn lại cho
hắn, với điều kiện hắn phải đãi chúng tôi một bữa tại quán ăn
Muretto, tiếng Ý có nghĩa là vách tường nhỏ.
Gioan Bosco ghi lại trên cuốn Hồi ký của mình số đồng lire họ
đã hùn nhau trả cho bữa ăn tập thể: 25 lires, số đồng lire mà tên
nọ đã được nhét trở lại trong hầu bao của hắn: 215 lires. Ngài
cũng ghi lại những lời mà vận động viên điền kinh nói với
người hầu bàn, sau khi đã hứa sẽ dời địa điểm mãi võ đến một
nơi khác: “Khi trả lại tôi số tiền này, các chú bị sạc nghiệp. Tôi
rất cám ơn các chú. Tôi sẽ rất thích thú mỗi khi nhớ đến các
chú và xin thề độc là sẽ không bao giờ còn dám cá độ với các
học sinh nữa”.
Lần đầu đến Torino
Vượt qua cuộc thách đấu trên, Hội vui sống đã ngày càng thêm
vững mạnh và tự hào với tư thế kẻ chiến thắng của mình. Kỳ
nghỉ hè, toàn thể hội viên đều lên đường kéo nhau đến vùng đồi
núi Superga: hái nấm, hát ca, ngoạn cảnh và còn tạt ngang
Torino để chiêm ngắm “con ngựa bằng cẩm thạch” trên cầu
thang của hoàng cung, cả đi lẫn về gần ba chục cây số cuốc bộ.
Họ quay về, bụng đói như cào, dù có chứa đầy ắp những kỳ
quan của chốn đế đô để tường thuật lại cho những người bạn
kém can đảm hơn mình.
Chính trong quá trình các chuyến tham quan trên mà Gioan
Bosco đã thấy Torino lần đầu trong đời mình. Kinh thành đã
được mở rộng. Dân số tăng vọt theo một nhịp độ dễ gây ấn
tượng: trong vòng một năm. Dân số đã tăng 1/3. Giá nhà đất và

10.7 Page 97

▲back to top
giá thuê mướn bất động sản leo thang với tốc độ chóng mặt.
Tình trạng thiếu bệnh viện, thiếu nơi cư trú cho các cựu chiến
binh, thiếu gia đình và trường học cho trẻ em càng ngày càng
thêm bi đát.
Carlo Alberto đang lên kế hoạch phát động một cách cụ thể
ngành bình dân học vụ, nhưng vị thủ tướng của ông, ngài
Solaro Della Margarita (một người Công giáo cực kỳ bảo thủ)
lại không nhất trí với ông: việc giảng dạy phải được giao cho
các linh mục, bằng không nó sẽ biến thành con dao hai lưỡi hết
sức nguy hiểm cho chính quyền.
Mùa xuân, đang khi Gioan Bosco và bạn bè rảo qua khắp các
trường trung cấp ở Torino thì một linh mục, công tác tại tòa
Tổng Giám mục, Don Cottlolengo đến lập cư ở vùng ven đô
với 35 bệnh nhân mà không một nhà thương nào chịu cho nhập
viện. Hôm ấy là ngày 21-4-1832. Tại khu vực Valdoco, cha đã
thuê được một căn nhà sập sệ trước kia đã được dùng làm quán
nhậu và cha đã tới đó cùng với một chú lừa, một cỗ xe thổ mộ
và hai Dì Phước. Cha đã treo trên cửa nhà một tấm biển ghi
mấy chữ: “Ngôi nhà nhỏ của Chúa quan phòng”. Việc này sẽ
trở thành phép lạ tại kinh thành Torino. Cha sẽ thành công
trong việc cho tá túc trên mười ngàn bệnh nhân vô phương cứu
chữa, đã bị mọi người ở mọi nơi hắt hủi, xua đuổi.
Tháng sáu, Gioan Bosco lần đầu tiên được nghe đến cái tên
Vincent Gioberti. Đây là một linh mục trẻ của Torino, giáo sư
triết tại trường đại học. Cha đã bị tống giam vì thuộc một tổ
chức bí mật chủ trương chống lại chế độ quân chủ. Cha bị kết
án khổ sai và đã bị áp tải tới vùng biên giới Ý-Pháp. Mười năm
sau, cha sẽ cho phát hành tại Bruxelles (Bỉ) một cuốn sách nổi
tiếng: chủ quyền của dân tộc Ý. Mười tám năm sau, cha sẽ trở
thành thủ tướng của Carlo Alberto.

10.8 Page 98

▲back to top
Tại hoàng cung, nơi các hội viên Vui sống đến để sờ tận tay
con ngựa bằng cẩm thạch, nhà vua đang đắn đo cân nhắc
những cải tổ đầu tiên, với tốc độ rùa bò, giữa những nỗi sợ hãi
và những cơn áy náy. Việc cải tổ đầu tiên đã được nhà vua
duyệt ký trong năm 1832 ấy là: việc tra tấn, tàn tích của những
thời đại mọi rợ cổ lổ, đã được bãi bỏ.

10.9 Page 99

▲back to top
Chương 10
MÙA CỦA NHỮNG TÌNH BẠN CAO ĐẸP
Mùa thu 1832, Gioan Bosco bắt đầu học “khóa 3 văn phạm”.
Suốt hai năm sau đó, chàng đã học xong hệ chính qui các khóa
được gọi là “nhân bản”(1833-1834) và “hùng biện”(1834-
1835).
Chàng tiếp tục chứng tỏ mình là một học sinh xuất sắc, với trí
nhớ phi thường và cực kỳ say mê sách vở. Vào thời điểm ấy,
Gioan Bosco kể lại với một thoáng tiếc nuối, tôi không thấy có
gì khác biệt giữa đọc và học cả. Tôi có thể dễ dàng lập lại nội
dung một cuốn sách mà mình đã học. Sự chăm chú trong giờ
học cũng đủ để tôi nhớ được phần cốt lõi của bài giảng. Hơn
nữa, như đã được mẹ tập cho thói ngủ rất ít, tôi có thể dành 2/3
đêm dài để đọc sách, dưới ánh sáng tù mù của ngọn đèn dầu
leo lét. Một chủ hiệu sách, tên là Elie, cho tôi thuê các sách
giáo khoa Ý, với giá 1 xu/cuốn. Hầu như ngày nào tôi cũng đọc
xong một cuốn.
Gioan đã mười tám tuổi, tuổi của những tình bạn sâu sắc.
Trong khi vẫn tiếp tục là “xếp sòng một đạo quân nhỏ”, chàng
còn qui tụ quanh mình một câu lạc bộ hạn chế gồm toàn những
người bạn thâm giao.
Hai cái tát dành cho Lu-y Comollo
Chàng đã có dịp biết thế nào là một cuộc ẩu đả trong lớp. Thời
ấy, các giáo sư cũng đã không biết giữ đúng giờ giấc, và những
phút đầu tiên của tiết học thường biến thành một cảnh ồn ào
như vỡ chợ. Trò chơi nhảy cù đạt rất nhiều thành tựu.
“Những kẻ ít ham học tập hợp cả, Gioan Bosco ghi nhận với vẻ
móc mỉa, lại là những nhà vô địch nổi danh nhất lớp. Một

10.10 Page 100

▲back to top
chàng trai mới nhập học ít lâu - anh ta có vẻ như mời được
mười lăm xuân xanh - thản nhiên đến chỗ ngồi của mình và mở
sách ra đọc, bất chấp cảnh huyên náo chung quanh.
“Một hôm, một tên vô liêm sỉ tiến về phía anh ta, nắm lấy tay
anh ta mà lôi:
- Cả cậu nữa, hãy đến với bọn tớ đi.
- Tôi đâu có biết chơi trò ấy.
- Không biết thì tập, mấy hồi. Đừng buộc tao phải đá đít mày
mấy cái rồi mày mới chịu nghe lời!
- Bạn muốn đánh tôi thì cứ việc, nhưng tôi không nhúc nhích
đâu.
Thằng mất dạy tặng anh ta hai cú tát nảy lửa và chát chúa rền
vang cả lớp học. Trước cảnh ấy, tôi thấy máu nóng sục sôi
trong huyết quản. Tôi chỉ mong kẻ bị xúc phạm trả đũa theo
đúng luật giang hồ, nhất nữa vì anh ta mạnh hơn đối phương
thấy rõ. Vậy mà, chẳng có gì cả. Bộ mặt đỏ bừng và rát rúa,
anh ta bảo tên nọ:
“Bạn hài lòng rồi chứ? Vậy thì hãy để tôi yên thân, tôi tha cho
bạn đó”.
Gioan bàng hoàng như vừa bị sét đánh ngang tai. Thế này quả
đúng là một hành động “anh hùng”. Ngài hỏi thăm tên của anh
“lính mới tò te” ấy: Lu-y Comollo. “Kể từ giây phút ấy, tôi lúc
nào cũng coi anh ta là bạn thân nhất của mình, và tôi có thể nói
rằng chính nhờ anh ta mà tôi đã biết thế nào là “sống đạo giữa
đời”.
Chàng đã khám phá ra dưới vẻ mảnh mai bên ngoài của anh ta
là cả một kho báu tinh thần vô cùng phong phú, nên đã tự động
đứng ra làm người bảo vệ anh ta, chống lại những học trò lỗ
mãng và hung bọ.

11 Pages 101-110

▲back to top

11.1 Page 101

▲back to top
Cây gậy sống
Hôm ấy, như thường lệ, giáo sư lại đến lớp trễ và cảnh huyên
náo thường lệ lại bùng lên. “Một số đứa tính đánh Comollo và
một bạn học tốt khác. Tôi lớn tiếng truyền cho chúng để hai
bạn ấy yên, nhưng chúng không thèm nghe. Những lời thóa mạ
bắt đầu tuôn ra, thế là:
“Đứa nào còn nói tục, chửi thề nữa sẽ biết tay ta!”.
Tên lớn xác nhất và cũng là kẻ ăn nói lỗ mãng nhất liền đứng
che chắn trước mặt tôi trong khi hai cái tát giòn giã giáng ngay
mặt Comollo. Điên tiết, nhưng vì không thể vơ được gậy hay
ghế gì cả, tôi liền nắm lấy vai một tên trong bọn khốn ấy, sử
dụng nó như một “cây gậy sống”, tôi luôn tay quất túi bụi vào
đám đông các đối thủ trước mặt mình.
Đúng lúc ấy, giáo sư bước vào và thấy nào tay nào chân cứ
thay nhau xoay vù vù trong một cảnh hỗn loạn của cõi âm ty
địa ngục, ông liền bắt đầu vừa gào la vừa vung tay ban phát
những cú tát phải, tát trái loạn xạ.
Khi giông bão đã có phần lắng dịu, ông liền bắt chúng tôi kể lại
hết đầu đuôi ngọn nguồn vụ gây rối và, “trăm nghe không bằng
một thấy”, vì không sao tin nổi, ông đã yêu cầu chúng tôi
“dựng lại hiện trường” vụ việc cho ông tận mắt chứng kiến. Tôi
cười phá lên, các bạn khác cũng bật cười vang, khiến giáo sư
ngẩn ngơ đến nỗi quên cả trừng phạt chúng tôi.
“Bạn thân mến, Comollo bảo tôi ngay khi hai chúng tôi có thể
nói chuyện riêng với nhau, sức mạnh của bạn làm tôi thấy sôï
quá. Chúa đâu có ban cho bạn sức mạnh ấy để bạn tàn sát bạn
bè. Ngài muốn chúng ta tha thứ và mưu ích cho những kẻ xử tệ
với chúng ta mà”.
Gioan nghe lời, rồi nối gót Comollo, bước vào tòa giải tội. Câu
phúc âm: “Ai tát con má bên này, hãy chìa luôn maù bên kia

11.2 Page 102

▲back to top
cho họ”. Không phải là một lệnh truyền mà chàng sẽ dễ dàng
tiếp thu. Chàng sẽ ép mình tuân thủ với tất cả sức mạnh của ý
chí, nhưng câu ấy chẳng bao giờ thích hợp với cá tính của
chàng. Hẳn là chàng sẽ rất thường lặp lại cho chính mình,
những lời lẽ trong giấc mơ năm nào: “Không phải nhờ những
cú đấm đá mà con sẽ thu phục được bạn bè đâu, mà chính là
nhờ đức ái”.
Hầu bàn
Cuối năm học 1832-1833, con trai bà Lucia Matta đã kết thúc
việc ăn học. Gioan đành phải đi tìm một chỗ khác để ở trọ. Một
người bạn thân của gia đình chàng, ông Gioan Pianta, có mở
một quán cà phê ở Chieri, đã đề nghị với chàng một chân hầu
bàn. Chàng sẽ phải lau chùi nhà cửa mỗi sáng trước khi lên
đường đến trường và chiều tối thì phải trực tại quầy hoặc trong
phòng bi da. Đổi lại, ông Pianta cho chàng mỗi ngày hai bữa
xúp, cộng thêm chỗ ở.
Gioan chấp thuận bởi chàng không kiếm được chỗ nào khá
hơn. Những ngày dài lao động, những đêm khuya bên bàn bi
da, để ghi lại điểm lên một bảng đá.
Năm 1888 (tức gần năm chục năm sau), ông Pianta vẫn còn
nhớ: “Không thể nào kiếm được một người hầu bàn giỏi hơn
Gioan Bosco. Sáng nào anh ta cũng đến giúp lễ tại nhà thờ
Thánh Antôn. Trong nhà tôi có bà mẹ già đau yếu, đức ái
anh ta chứng tỏ với bà ấy thật đáng khâm phục”.
Cách đối xử mà ông chủ “cá mập” này áp đặt lên người đầy tớ
mười tám tuổi của mình thì, ngược lại, chẳng đáng khâm phục
tí nào: Gioan đã phải chuẩn bị cà phê, sô-cô-la, bánh ngọt và
kem, vậy mà ông chủ chỉ thí cho chàng độc nhaát một món
súp. Chính mẹ Margarita là người luôn luôn phải đem bánh mì
từ xóm Becchi tới và bổ sung cho lương thực hằng ngày của
con trai mình. Chỗ ở mà ông ta cung cấp cho chàng chỉ là một

11.3 Page 103

▲back to top
“cái hang nhỏ xíu” dưới gầm một lò nướng bánh, với một cầu
thang hẹp dẫn xuống đó. Khi chàng ngả lưng trên giường, đôi
chân chàng thò hẳn ra ngoài cả nệm rơm lẫn cửa ra vào của cái
“hang chuột”.
Jacques Lévi, gọi là bạn Giona
Tại trường mà Gioan theo học còn có cả một số trẻ em Do Thái
cũng đến học. Chiếu theo các pháp lệnh do Charles-Felix ban
hành, dân Do Thái sống tại các thành phố đều phải cư trú trong
một khu phố cách ly với khu phố của người Công giáo: gọi là
Khu Tập Trung Do thái. Họ được “dung dưỡng”, nghĩa là được
coi như những công dân hạng nhì. Trẻ con, hàng tuần, đều phải
chịu một mối hận lớn: niềm tin của chúng nghiêm cấm mọi
hình thức lao động vào ngày thứ bảy hàng tuaàn, tức ngày
Sabbat, tất cả mọi việc, kể cả việc làm các bài tập do nhà
trường ra cho học sinh các lớp; chúng phải lựa chọn: hành
động trái với lương tâm hoặc cam chịu điểm xấu và bị chúng
bạn chê cười.
Gioan thường “ra tay nghĩa hiệp” giúp đỡ chúng, bằng cách
soạn thảo bài tập của ngày thứ bảy thay cho chúng. Chàng đã
trở thành bạn thân của một đứa trong bọn chúng: Jacques Lévi,
mà bạn bè đặt cho bí danh “Jonas”. Cả hai đều giống nhau ở
một điểm: họ đều mồ côi cha.
Gioan Bosco ôn lại tình bạn này bằng những lời lẽ đầy cảm
kích, rất bình thường đối với ngài: “Anh ta rất bảnh trai, hát
bằng một giọng truyền cảm ít ai sánh bằng. Anh ta chơi bi da
rất cừ. Tôi đã dành cho anh ta một sự thân thương rất sâu đậm
và tôi đã là người bạn lớn nhất của anh ta. Rảnh rỗi được lúc
nào, “Jonas” liền tranh thủ lại nhà tôi chơi ngay lúc ấy. Chúng
tôi đã cùng nhau giết thì giờ bằng cách ca hát với nhau chơi
đàn Piano, đọc sách hoặc tán gấu thật hào hứng.

11.4 Page 104

▲back to top
Tình bạn này, nồng nàn và trong sáng, chứng tỏ là trái tim của
Gioan chẳng những không khô cằn mà còn không biết sợ là gì.
Ta không rõ “sự rối loạn” nào có kèm theo cãi cọ hoặc ẩu đả có
thể có những hậu quả nghiêm trọng tới mức đã gây nên một
cơn khủng hoảng nơi chàng trai Do Thái. Gioan, không phải do
nhiệt tình muốn dụ người khác theo đạo mà là do tình thân
thương, đã đề nghị với bạn mình cái quí giá nhất mà mình đang
có: niềm tin của mình. Chàng cho “Jonas” mượn cuốn Giáo lý
của mình. “Chỉ trong mấy tháng, anh ta đã học được những
chân lý cơ bản của Đức tin. Anh ta rất hài lòng về điều đó và
càng ngày càng tiến bộ, trong cách nói năng cũng như trong tác
phong hạnh kiểm”.
Tấm bi kịch gia ñình (không sao tránh khỏi) đã bùng nổ khi bà
mẹ Do Thái phát hiện ra cuốn Giáo Lý Coâng Giaùo trong
phòng ngủ của con trai mình. Bà có cảm tưởng đã mất luôn cả
đứa con sau khi đã góa chồng. Bà không tiếc lời chửi rủa Gioan
và công khai tuyên bố ngay mặt chàng với tất cả nỗi cay cú:
“Mày đã hủ hóa con trai bà!”.
Gioan ra sức biện minh nhưng chẳng đi ñeán đâu cả. Bị hù dọa
bởi họ hàng thân thuộc cũng như vị Rabbi (giáo sĩ đạo Do
Thái), “Jonas” đã buộc lòng phải xa gia đình một thời gian. Rồi
tình hình dần dần lắng dịu. Ngày 10 tháng 8, tại nhà thờ Chieri,
chàng trai người Do Thái đã lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Văn
kiện chính thức, được giữ lại trong kho văn thư lưu trữ, chứng
nhận: “Tôi, Sèbastien Sehioppo, thần học gia và linh mục công
tác tại Tòa Tổng Giám Mục, được phép của Đức Tổng Giám
Mục giáo phận Torino, tôi đã long trọng rửa tội cho chàng
thanh niên người Do Thái tên Lèvi, mười tám tuổi, và đã đặt
cho anh ta teân thánh là Lu-y..”

11.5 Page 105

▲back to top
“Jonas” sẽ mãi mãi là người bạn trung kiên của Gioan Bosco.
Đến năm 1880, ông ta vẫn còn đến thăm ngài ở Valdocco và họ
đã cùng ôn lại với nhau “những ngày xưa thân ái”.
Những trái táo của ông Blanchard
Món súp của ông Pianta đã hẳn là không đủ để làm dịu cơn đói
cồn cào của cái tuổi 18 của Gioan Bosco. Ròng rã bấy nhiêu
năm dài, chàng thường xuyên bị cơn đói dằn vặt. Một người
trong đám bạn trẻ của chàng, Giuse Blanchard, vẫn thường
nhận thấy điều ấy và thường lại nhà thân mẫu của mình là
người bán trái cây để nhét đầy các túi những trái táo tây và
những hạt dẻ. Bà mẹ thấy hết nhưng giả bộ như không hay biết
gì. Nhiều lần, lúc ngồi vào bàn ăn, cũng vì lý do đó, Giuse đã
vét sạch dĩa đựng trái cây tráng miệng. Một hôm, Leandre, em
trai của Giuse, đã tức tối la lên:
Mẹ có đui không đấy? Anh Giuse, anh ấy đã “chôm” của mẹ cả
bao nhiêu ký trái cây rồi mà mẹ chẳng biết gì cả.
Mẹ biết thừa đi chứ, bà mẹ đáp lại, nhưng mẹ biết rõ anh con
đem những thứ ấy đi cho ai. Cậu Gioan ấy là một chàng trai tốt
mà đói bụng là điều rất cực đối với độ tuổi của cậu ấy.
Tuy đói khổ, nhưng Gioan vẫn tìm ra tiền để thuê sách ở hiệu
sách Elie. Chàng tiếp tục đọc vào buổi tối. Ông Pianta ghi nhận
điều ấy, ông đã đứng ra làm chứng: “Anh ta thường thức trắng
đêm để học. Sáng ra, tôi thấy anh ta vẫn còn ngồi học dưới
ngọn đèn thắp sáng”. (Ai mà biết được điều gì đã gây ấn tượng
cho ông ta hơn cả: ý chí của chàng trai hay lượng dầu tiêu thụ
bởi ngọn đèn?). Gioan Bosco cũng còn nhớ những đêm ấy: “Đã
từng xảy ra là lúc thức dậy, tôi thấy mình vẫn còn cầm trên tay
cuốn sách bắt đầu tối hôm trước”. Nhưng ngài nói tiếp: “Việc
này làm hao mòn nghiêm trọng sức khỏe của tôi. Vì lẽ đó, tôi
sẽ luôn luôn khuyên nên làm những gì hợp với khả năng của

11.6 Page 106

▲back to top
mình và chỉ bấy nhiều đó mà thôi. Tôi đã phải trả giá đắt để
phát hiện ra rằng đêm tối được dựng nên là để ngủ”.
Gioan Bosco không phải là một hiện tượng lạ. Đây là một thiếu
niên đầy thiện chí và đầy nôn nóng. Sự nôn nóng và ý thức về
những hạn chế (vì điều này xảy ra cho hết mọi người), cuộc
sống sẽ từng bước dạy cho Gioan.

11.7 Page 107

▲back to top
Chương 11
TUỔI HAI MƯƠI
Tháng ba năm 1834, lúc chàng sắp kết thúc năm học “nhân
bản”, Gioan đến trình diện với các cha dòng Phanxicô để xin
được nhận vào dòng tu của họ.
Một bạn học cùng trường, Eugène Nicco, mang câu trả lời đến
cho chàng:
“Tu viện Nữ Vương Các Thánh Thiên Thần đang đợi bạn đến
đó.”
Chàng đã đi bộ tới đó. Trong sổ danh bộ đăng ký nhập tu viện,
ta đọc thấy: “Cậu Gioan Bosco, quê ở Castelnuovo, đã đươc
nhận ngày 18 tháng 4 năm 1834 cho nhập học với đa số tuyệt
đối, vì có mọi phẩm chất cần và đủ”.
Lập tức, Gioan liền chuẩn bị hồ sơ để gia nhập tu viện Nữ
Vương Các Thiên Thần, tu viện của sự bình an ở Chieri.
Vì sao chàng đã hạ quyết tâm trên?
Gioan đã mười chín tuổi. Chàng ý thức được đây là thời điểm
để tự quyết cho đời mình. Chàng đã mỏi mệt và đã đau khổ vì
khát vọng muốn trở thành linh mục. Nhưng suốt mấy tháng gần
đây chàng đã phải mặt đối mặt với một số vấn đề.
Tính sổ với sự nghèo khó
Trước hết là sự nghèo khó. Chàng hết còn đồng ý chất hết gánh
nặng của cảnh nghèo lên đôi vai gầy của thân mẫu. Hôm ấy cậu
đã tâm sự với Evasio Saviô, một người bạn đồng hương: “Mẹ
tôi làm sao mà có thể giúp tôi theo đuổi việc học được nữa!”.
Chàng đã bàn về vấn đề ấy với mấy tu sĩ Phanxicô vì rất thân
quen với chàng, họ đã lập tức đề nghị: “Bạn hãy đến với tu
viện của bọn tôi đi”. Chuyện sẽ không xảy ra như vậy đối với

11.8 Page 108

▲back to top
khoản tiền mà các tập sinh được kêu gọi phải đóng lúc nhập
học. Người sẽ áp dụng một ngoại lệ cho Gioan Bosco.
Cũng còn có vấn đề khác nữa. Chúng ta đọc thấy trong Hồi Ký
Nguyện Xá: “Sau khi suy nghĩ một mình, tôi cho rằng: nếu tôi
làm linh mục triều, ơn gọi của tôi sẽ lieäu gặp nguy hiểm đắm
chìm mất” đây không phải là một điều tính toaùn do sự bối rối,
mà là một nỗi sợ hoang mang. Như cha Stella viết: Trong
những năm đóng hề giáo sĩ chính là một cái gì đó đáng phải sợ.
Nhiều người đã đảm nhận “nghề” giáo sĩ không phải vì những
lý do tôn giáo, mà là những toan tính nhân loại, để đảm bảo
tương lai cho bản thân mình. Sự trống rỗng nội tâm và sự hời
hợt tu trì chính là điều được caûm nhận như là một sự dữ”.
Dấu hiệu của mối nguy hiểm này chính là con số thái quá của
các chủng sinh: từ 250 trong năm 1834 đã lên đến 565 trong
năm 1840 đối với thành phố Torino, Chieri và Bra. Số chủng
sinh tới học ban ngày là 207. Chính Don Bosco cũng nhớ lại là
có 20 tới 24 bạn cùng lớp với ngài đã ghi danh vào chủng viện
để đi học văn Chương.
Vậy có nhiều người vào chủng viện, thì cũng có nhiều trường
hợp từ bỏ chức linh mục. Nhiều người coi chủng vieän là con
đường ngắn dẫn tới một chỗ dạy học hay việc có được một
nghề nghiệp trong guồng máy nhà nước.
Để giới hạn lại sự dữ, các Đức Giám Mục đã cố gắng giới hạn
con số các chủng sinh học ban ngày, vì họ tham gia lớp học và
các việc phụng vụ, nhưng cũng đồng thời gây nhiễu nhương
môi trường tu trì với một số lượng nhất định của tinh thần thế
tục.
Một người đàn bà với khăn choàng vai màu đen

11.9 Page 109

▲back to top
Mấy ngày cuối tháng 4 năm 1834, Gioan đến ra mắt cha xứ của
mình ở Castelnuovo với mục đích xin những giấy tờ cần phải
nộp để gia nhập tu viện. Don Dasano nhìn chàng sửng sốt:
- Con mà vào tu viện à? Con đã nghĩ kỹ chưa đấy?
- Con thấy hình như là rồi ạ.
Mấy hôm sau, Don Dasano lên trại Sussambirino. Ngài trò
chuyện với mẹ Margarita:
“Gioan nó muốn làm linh mục dòng Phanxicô. Bản thân tôi
chẳng có gì để kỳ thị các linh mục dòng, nhưng tôi thấy dường
như con trai bà thích hợp với công tác của một họ đạo hơn. Nó
có tài ăn nói, biết cách lôi kéo sự chú ý của lớp trẻ, biết cách
tranh thủ cảm tình của mọi người. Vậy thì, có lý do nào lại đến
mai danh ẩn tích trong một tu viện chứ! Vaû lại, bà Margarita
à, tôi muốn nói thẳng với bà, bà đâu có dư giả gì, mà bà cũng
đã lôùn tuổi rồi. Một đứa con trai làm cha xứ, khi bà không còn
khả năng lao động, sẽ có thể giúp ñôõ cho bà phần nào, còn
một đứa con trai làm linh mục dòng sẽ là một mất mát đối với
bà. Tôi tin là bà nên tác động đến nó nhằm chuyển hướng dự
tính ấy, và tôi nghĩ là mình đã nói vậy chỉ vì lợi ích của bà”.
Mẹ Margarita vắt một tấm khăn quàng lên vai và lên đường tới
Chieri.
- Cha xứ đã đến nói với mẹ là con tính vào Tu Viện, thật không
đấy?
- Thật, mẹ ạ! Con hy vọng là mẹ không có gì chống đối lại khát
vọng ấy.
- Hãy nghe mẹ nói đây, Gioan. Mẹ muốn là con hãy suy nghĩ
một cách nghiêm túc và bình tĩnh. Khi con đã hạ quyết tâm rồi,
thì hãy đi theo con đường của mình mà khỏi còn lo cho bất cứ
ai. Điều cốt yếu, đó là con hãy chấp hành thánh ý của Chúa.

11.10 Page 110

▲back to top
Cha xứ muốn rằng mẹ sẽ làm con đổi ý vì sau này mẹ có thể sẽ
cần đến con. Nhưng riêng mẹ, mẹ nói thẳng với con là: trong
vụ việc này, không có vấn đề mẹ con gì cả. Thiên Chúa là trên
hết. Mẹ chẳng muốn gì, chẳng trông mong gì con cả. Mẹ đã
sinh ra nghèo khó, mẹ đã sống nghèo khó, mẹ muốn chết nghèo
khó. Và thậm chí mẹ còn nói ngay với con là: nếu con trở
thành linh mục và giả như mà con chẳng may mà trở nên giàu
có thì mẹ sẽ không bao giờ còn đặt chân tới nhà con nữa đâu.
Con hãy nhớ kỹ như vậy”.
Bà mẹ quê với tấm khăn choàng vai màu đen ấy, mang trong
tiếng nói cả một giọng kiên quyết và trên gương mặt, cả một vẻ
cương nghị. Những lời ấy, Gioan Bosco suốt đời chẳng bao giờ
quên.
Một giấc mơ lạ
Gioan sắp sửa đi đến một quyết định thì sự bất ngờ đã diễn ra:
“Mấy hôm trước ngày nhập học, tôi đã mơ một giấc mơ lạ. Tôi
thấy một đám đông gồm vô số các thầy tu quần áo rách tả tơi.
Họ chạy lăng xăng khắp các hướng. Một người trong bọn họ
chợt đến gần tôi và nói: Anh đang đi tìm sự bình an, nhưng anh
sẽ chẳng tìm được bình an ở đây đâu. Chúa đang dọn sẵn cho
anh một chỗ khác và ở một nhà khác”.
Một giấc mơ, chuyện viễn vông “chẳng ra gì” trong đời
thường. Nhưng Gioan đã phải nhìn nhận rằng các giấc mơ đều
là những biến cố trọng đại đối với mình, dù đôi khi chúng có
gây phiền hà khó xử chăng nữa.
Làm sao đây, chàng liền rút quyết định của mình lại và tiếp tục
theo đuổi việc học ở trường công lập. Nhưng chàng không thể
nào dời lại hoài đến một thời hạn vô hạn định. Một hôm, chàng
tâm söï với Lu-y Comollo và từ một vị thánh như bạn của
mình, chàng đã nhận được một lời khuyên hết sức bài bản: làm

12 Pages 111-120

▲back to top

12.1 Page 111

▲back to top
tuần chín ngày, viết một lá thư cho cậu của tôi, hiện đang là
cha xứ; sau đó, nhắm mắt nhắm mũi nghe theo lời khuyên bảo.
“Ngày cuối tuần, Gioan Bosco nhớ lại, tôi đã xưng tội và rước
lễ cùng lúc với bạn mình, rồi tôi đã dự một thánh lễ và giúp lễ
cho một lễ nữa tại bàn thờ Đức Mẹ Ban Ơn. Về đến nhà chúng
tôi bắt gặp một lá thư của Don Comollo (cậu của Lu-y) với
mấy hàng chữ: “Sau khi đắn đo cân nhắc, có thể khuyên bạn
của cháu đừng vào tu viện. Mong rằng anh ta sẽ mặc lấy áo
chùng thâm”.
Sao không đến hỏi ý kiến Don Cafasso
“Mặc áo chùng thâm” có nghĩa là phải trở thành chủng sinh.
Nhưng còn vấn đề số một: đào đâu ra tiền!
Anh bạn Evasi Saviô của chàng gợi ý:
“Bạn hãy đến xin lời khuyên bảo của Don Cafasso ở Torino.
Cha ấy tuy còn trẻ, nhưng đó là vị linh mục tài danh hơn cả
trong số các con dân của quê hương Castelnuovo”.
Don Cafasso hồi ấy mới hai mươi ba xuân xanh, nhưng cha đã
từng được coi như một “cha linh hướng” lỗi lạc. Rất nhiều
người, lo âu hoặc bối rối, thường đến gặp cha để nghe theo
những lời chỉ dạy của cha. Cha đang sống ở Torino, tại nhà an
dưỡng của các giáo sĩ và vừa theo học khóa bồi dưỡng về thần
học, vừa chăm lo cho các bệnh nhân và các tù nhân.
Gioan lên đường và trình bày với cha các rắc rối của mình. Với
vẻ rất thản nhiên và không mảy may do dự, Don Cafasso bảo
rằng:
“Anh hãy học cho xong khóa hùng biện của mình rồi hãy vào
chủng viện. Chúa Quan Phòng sẽ cho anh biết Ngài muốn gì ở
anh. Về vấn đề tiền bạc, anh hãy yên chí: có người sẽ chu cấp
cho anh”.

12.2 Page 112

▲back to top
Trong cuộc gặp gỡ ấy, Gioan đã tìm ra yếu tố sẽ đem lại thế
quân bình cho đời mình. Tính khí hung hăng của chàng sẽ làm
chàng sống giữa những giấc mơ, những đề án, những nghi
ngại, những thành tựu, những thất vọng não nề. Kế bên chàng,
bình thản mà đầy khích lệ. Don Cafasso sẽ là người bạn kín
miệng, là vị cố vấn khôn ngoan, là vị ân nhân thầm lặng.
Chủng viện Chieri chỉ mới mở vào năm 1829. Ñöùc Toång
Giaùm Muïc Torino, Colombano Chiarevoli, muốn các linh
mục tương lai có một nơi trầm lặng, hầu như là đan viện, tách
lìa xa khỏi thế giới ồn ào của thành phố Torino. Gioan Bosco
vào đó như là một chủng sinh “nội trú”, sẵn saøng sống trong
một hoàn cảnh khắc khổ. Cha Cafasso đã khuyên Gioan như
thế, và cha bạn của cha là nhà thần học Guala trả học phí cho
Gioan trong năm thứ nhất.
Đáng lý Gioan phải dự thi nhập học tại Torino. Nhưng thành
phố đang bị nạn dịch tả đe dọa (một nạn dịch hầu như hằng
năm xẩy ra khuấy động mùa hè nóng nẩy). Khách lai vãng đều
bị bó buộc phải chịu sự cư trú tách biệt trong vòng một số
ngày. Cho nên dịp thi nhập học được thực hiện tại Chieri, và
Gioan qua kỳ thi dễ dàng.
Gioan đã qua những ngày nghỉ hè cuối cùng tại Sussambrino
[quê ngoại] và tại Castelnuovo gần gũi với cha xứ.
Cậu đã viết: “Trong mùa hè đó tôi không còn làm xiếc nữa, và
tôi dành thời giờ để đọc sách vở tốt. Nhưng tôi vẫn chăm lo
cho các trẻ em, kể chuyện, tập hát và tổ chức trò chơi cho
chúng. Nhiều em trong số chúng, kể cả các em lớn tuổi, không
biết những chân lý đức tin và kinh nguyện hằng ngày. Đấy
chính là một hình thức nào đó của Nguyện Xá. Khoảng năm
mươi em yêu mến tôi và vâng lời tôi, chúng coi tôi như thể
người cha của chúng”.
Đời sống trong chủng viện

12.3 Page 113

▲back to top

12.4 Page 114

▲back to top
Chương 12
CHỦNG VIỆN: NHỮNG ĐIỂM SÁNG VÀ ĐIỂM TỐI
Mặc áo chùng thâm, vào thời ấy là vượt quá một bước quan
trọng. Chàng trai cởi bỏ những áo quần giống với y phục mọi
người vẫn mặc và khoác lên mình một chiếc áo chùng thâm
phủ kín từ vai xuống tận gót chân.
Hành động có tính cách công khai và có nghĩa trước mặt mọi
người là: “Tôi đang nuôi ý định làm linh mục và sống phù hợp
với cách sống của một linh mục”.
“Khi cha xứ, Don Cinzano, truyền cho tôi cởi bỏ bộ đồ thường
dân mà tôi đang mặc: Xin Thiên Chúa lột bỏ con khỏi con
người cũ, khỏi các thói quen của nó và các kiểu cách của nó,
tôi đã thầm nghĩ trong lòng “Lạy Chúa, lạy Chúa, xin triệt hạ
mọi thói hư tật xấu của con”. Khi trao cho tôi cổ côn, cha xứ
nói thêm: “Xin Thiên Chúa mặc cho con con người mới, được
dựng nên theo con tim của Chúa, trong sự công chính, trong
chân lý và trong sự thánh thiện”. Tôi họa theo trong nội tâm:
“Lạy Chúa, xin cho con thật sự bắt đầu một cuộc sống mới,
theo thánh ý Chúa. Lạy Đức Trinh Nữ Maria, xin phù hộ cho
con”.
Bảy quyết định làm đảo lộn cuộc sống
Sau thánh lễ, bất ngờ Don Cinzano rủ Gioan theo mình đến thị
trấn Bardello nhằm đúng ngày lễ bổn mạng của địa phương.
“Tôi miễn cưỡng đi theo để khỏi làm ngài phật lòng. Đây
không phải là điều thích thú đối với tôi. Tôi có vẻ là một con
rối vừa được tân trang lại. Tôi đã bỏ ra mấy tuần liền để chuẩn
bị cho ngày hôm ấy mà lại chợt thấy mình ở giữa một đám
đông người xúm nhau lại để cười cợt, để tán dóc, để ăn nhậu và
đùa giỡn. Những chuyện ấy nào có dính líu với kẻ, mới cách đó

12.5 Page 115

▲back to top
vài giờ, để khoác lên mình tấm áo của sự thánh thiện ngõ hầu
tận hiến trọn vẹn cho Chúa?
Trên đường về, cha xứ hỏi tôi lý do tại sao lúc nào tôi cũng có
vẻ đăm chiêu tư lự. Tôi đã trả lời rất thẳng thắn rằng lễ nghi hồi
sáng này hoàn toàn tương phản với những gì xảy ra sau đó. Sau
khi tận mắt chứng kiến mấy vị linh mục làm trò hề giữa đám
thực khách đã ngà ngà say, tôi tự nhiên cảm thấy ứ hơi: “Giá
như con mà biết là mình phải trở nên linh mục như mấy cha ấy,
thì chẳng thà con giục bỏ bộ đồ này đi cho rồi”.
Suốt bốn ngày trước ngày gia nhập chủng viện, Gioan đã ra sức
tập trung tư tưởng trong thinh lặng và trong sự nguyện ngắm.
Chàng đã ghi lại bảy điều quyết định biểu hiện một “đảo lộn”
trong lối sống của mình:
1. Tôi sẽ không đi coi các vũ hội, các kịch tuồng, các buổi
trình diễn công cộng.
2. Tôi sẽ không trổ tài làm trò ảo thuật và hát xiếc nữa và
tôi cũng không đi săn bắn nữa.
3. Tôi sẽ tiết giảm trong việc ăn, uống và ngủ nghỉ.
4. Tôi sẽ đọc các sách báo đạo.
5. Tôi sẽ đấu tranh chống lại những tư tưởng, những lời lẽ
và việc đọc những sách báo đối nghịch với đức khiết
trinh.
6. Ngày nào tôi cũng sẽ dành chút ít thời giờ cho việc
nguyện ngắm và việc đọc sách thiêng liêng.
7. Ngày nào tôi cũng sẽ kể lại những hành động và những
tư tưởng khả dĩ mưu ích cho người khác.
“Tôi sẽ đến trước một bức ảnh Đức Mẹ Maria và tôi sẽ long
trọng hứa sẽ chấp hành các quyết tâm trên dù có phải hy sinh
đến đâu cũng sẵn sàng cam chịu”.

12.6 Page 116

▲back to top
Gioan Bosco không phải lúc nào cũng thành công trong việc
ấy, vì chàng cũng là một con người phàm có máu thịt và có hệ
thần kinh như tất cả chúng ta; nhưng “cú bẻ lái” đã được chàng
phát động ñeå định hướng cho mình giữa biển đời dậy sóng
không biết đâu là beán bôø.
Những lời ấy, tôi sẽ không bao giờ quên
Ngày 30 tháng 10, Gioan phải có mặt ở chủng viện. Tối hôm
trước, tại Sussambrino, chàng xếp gọn vào chiếc va-li nhỏ mớ
hành trang mà mẹ Margarita đã sắm sửa cho con trai của bà:
“Mẹ tôi, ngài viết, đăm đăm nhìn tôi như có điều gì muốn nói.
Đột nhiên, bà gọi tôi ra riêng một chỗ và bảo:
“Gioan à, con nay đã mặc bộ đồ của linh mục. Mẹ đang cảm
thấy tất cả niềm vui mà một người mẹ có thể cảm nhận được.
Tuy nhiên, con phải nhớ là không phải áo quần làm cho con
được trọng vọng (chiếc áo không làm nên thầy tu) mà chính là
đức hạnh. Giả sử, có ngày nào đó, con nghi ngờ về ơn kêu gọi
của mình thì xin con, vì lòng mến Chúa, chớ có gây ô nhục cho
tấm áo này, hãy lập tức cởi bỏ nó ra. Mẹ thích chẳng thà con
trai của mẹ là một người dân quê hơn là một linh mục biếng trễ
với các bổn phận của mình. Ngày con chào đời, mẹ đã dâng
con cho Đức Mẹ. Khi con bắt đầu đi học, mẹ đã dạy con phải
hết lòng kính yêu người Mẹ ấy, vì Ngài chính là Mẹ thật của
chúng ta. Giờ đây mẹ nhắn nhủ con, Gioan à, hãy thuộc hẳn
vào Ngài một cách trọn vẹn.
Nói dứt những lời trên, mẹ tôi tỏ ra rất xúc động. Mắt tôi rưng
rưng ngấn lệ, tôi đáp lại:
“Mẹ, con xin cảm ơn mẹ vì tất cả những gì mẹ đã làm cho con.
Con sẽ không bao giờ quên những gì mẹ vừa nói với con”.
Thật sớm, sáng hôm sau, tôi đã lên đường đi Chieri và chiều tối
cùng ngày tôi đã gia nhập chủng viện”.

12.7 Page 117

▲back to top
Từ trên một vách tường quét vôi trắng, một mặt kính của chiếc
đồng hồ mặt trời gửi đến chàng lời chào đầu tiên của chủng
viện. Trên mặt kính người ta đọc thấy: Afflictis lentae, celeres
gaudentibus horae, tức là “Đối với những kẻ rầu rĩ, thời gian
trôi chậm, nhưng với những người vui vẻ, nó trôi nhanh”. Đây
là một lời khuyên tốt dành cho chàng trai sắp sống sáu năm liền
trong khuôn viên mấy bức tường này.
Một thời biểu sắt thép
Thời biểu hằng ngày rất mực chuẩn xác, hầu như từng phút
một. Nó được tính chi li trên một tấm pa-nô đặt trong một góc
sân, gần một quả chuông: một chuỗi những giờ, những nửa giờ,
những khắc. Mỗi khi có thay đổi, người giữ giờ đến bên
chuông và đánh chuông. Nghe hiệu chuông ấy, cộng thể ra,
vào, được phép nói, chìm trong yên lặng, học tập, cầu nguyện.
Điều trước tiên mà người ta học được khi vượt qua cánh cửa
này, ấy là tiếng chuông là tiếng Chúa.
Một ngày sống như vậy thoạt ñaàu rất kích thích, thậm chí còn
khiến cho người ta phấn khởi nữa. Nhưng cứ như vậy ngày này
qua ngày khác trong suốt 8 thaùng trời, thì thaät là quá nhàm
chán.
Thời khóa biểu chia cắt giờ giấc trong ngày tại chủng viện
Chieri đã được qui định rất khắt khe bởi Vua Carlô Félix cho
tất cả mọi trường học trong Vương quốc. Ngay cả các Hoàng
Tử cũng phải tuân thủ thời khóa biểu ấy.
Ta có thể có một ý niệm về vấn đề này khi duyệt qua thời biểu
mà tại Hoàng Cung Torino, Hoàng Thái Tử Victor Emmanuel,
15 tuổi vào năm 1835, đã từng phải tuân thủ:
“Thức giấc lúc 5 giờ, thánh lễ lúc 7 giờ, học từ 9 đến 12 giờ, ăn
trưa; từ 14 đến 19 giờ ba möôi: làm bài vở nhà trường, ăn tối;
21 giờ: kinh nguyện và đi ngủ. Sáng Chúa Nhật, dự hai thánh

12.8 Page 118

▲back to top
lễ: một lễ “dự thinh lặng”, trước bữa điểm tâm, tại nhà nguyện
trong Hoàng Cung; một lễ trọng tại nhà thờ chính tòa, sau bữa
điểm tâm”.
Tại chủng viện, khác với hoàng cung, thánh lễ hằng ngày được
tiếp theo bởi nguyện ngắm và chuỗi tràng hạt thứ ba. Tại bàn
cơm không được nói chuyện, và phải nghe đọc “Lịch sử Hội
Thánh” của Bercastel, và được đọc theo phiên, từ trên tòa đọc
sách.
Lương thực cực kỳ thanh đạm. “Ăn để mà sống, chứ không
phải sống để ăn” là một trong những câu châm ngôn được lặp
lại thường hơn cả.
Giờ ra chơi là một thời điểm nới lỏng đôi chút sự căng thẳng
của các thanh niên ấy. Gioan Bosco còn nhớ những ván bài rất
hào hứng mà mình đã chơi: “Tôi không phải một tay giỏi đánh
bài, vậy mà hầu như ván nào tôi cũng ăn. Đến cuối cuộc chơi,
hai tay tôi đầy ắp những tiền; nhưng, nhìn bạn bè rầu rĩ vì thua
bài, tôi cảm thấy còn rầu hơn cả chính họ nữa. Ngoài ra, vì cứ
mãi dán chặt đầu óc vào các lá bài, nên riết rồi lúc nào tôi cũng
bị ám ảnh bởi con già rô và con bồi bích trong lúc làm bài, học
bài, cũng như trong giờ kinh nguyện. Vì lẽ đó, vào giữa năm
triết thứ hai, tôi đã hạ quyết tâm cắt đứt hẳn với bài bạc.
Sau này, với các tu sĩ Salêdiêng của ngài, Don Bosco cũng đã
rất nghiêm khắc đối với vấn đề bài bạc. “Người ta lãng phí bao
nhiêu giờ đồng hồ, ngài nói, còn đối với chúng ta, thời gian của
chúng ta, chúng ta phải dành cả cho các trẻ em. Bao giờ tôi
chẳng còn gì để làm nữa, lúc ấy tôi sẽ đánh bài”.
Các điểm tối của chủng viện
Dần dà với những ngày tháng qua đi, Gioan khám phá trong
cuộc sống của chủng viện có nhiều điểm đen:

12.9 Page 119

▲back to top
Trước tiên là chính điều đã khuấy động Gioan ngay tại
Castelnuovo: Các bề trên giữ thái độ xa laùnh. Để cứu vãn sự
tôn trọng và sự đáng kinh của mình, các ngài sống xa với con
chiên. “Các chủng sinh tới chào thăm cha Giám đốc và các bề
trên khác vào đầu năm học và trước khi đi nghỉ hè mà thôi.
Không có bề trên nào lại gần nói chuyện với các chủng sinh,
trừ khi phải lên tiếng quở mắng các chủng sinh thôi. Khi có bề
trên nào lại gần các chủng sinh, thì người này, người kia lần
lượt lẩn trốn. Có biết bao nhiêu lần tôi muốn nói với các ngài,
xin các ngài những lời khuyên...”
Cha Pietro Stella bình luận rằng: “Gioan Bosco không chỉ xin
một sự chấp thuận chính thức, thầy muốn xin nhiều hơn: đó là
sự ân cần, một sự biểu lộ tình thân ái mà thầy có đối với các
ngài. Chính tình ưu ái tạo nên một bầu khí hoã tương của
“niềm vui”, sự thân thiện”, “chia sẻ niềm vui”, đồng cảm và
thiện cảm, là những nét nói lên tất cả bản chất của con người
Gioan Bosco”. Để thiết lập dòng đồng cảm này, Don Bosco
cho rằng thiết yếu phải có sự hiện diện thể lý bên nhau giữa các
nhà giáo dục và các bạn trẻ. Ngài thâm tín đến độ coi đây là
yếu tố thiết yếu của hệ thống giáo dục của ngài.
“Điểm đen thứ hai” là điều Gioan Bosco nhận thấy nơi một số
bạn chủng sinh. Có rất nhiều các chủng sinh có nhân ñöùc
gương mẫu”, nhưng cũng có “những người nguy hiểm”, nói
“những chuyện xấu xa”, và đưa vào trong chủng viện
những sách xấu và bẩn thỉu”.
Một nỗi chua chát khác là việc chủng viện cấm chịu lễ thường
xuyên. “Việc chịu lễ chỉ có thể được tiếp nhận vào lễ Chúa
Nhật hay trong các dịp lễ trọng”. Để nuôi dưỡng mình bằng
Thánh Thể trong tuần, thì “cần phải làm một việc bất tuân
phục”.

12.10 Page 120

▲back to top
Vào buổi sáng, trong khi cả một dẫy dài các chủng sinh xếp
hàng im lặng bước vào nhà ăn để ăn sáng, thì có một ai đó
đứng lại ở một góc nhà, rồi bước vào nhà thờ thánh Philiphê để
xin chịu lễ, “với cái giá phải trả là nhịn ăn sáng. “Với phương
thức này cha đã có thể thường xuyên chịu lễ, và cha có thể nói
cách có lý rằng đấy là của ăn hữu hiệu nhất cho ơn gọi của cha.
Ngụm khí oxy mỗi ngày thứ năm
Đối với Gioan, một ngày có tác dụng bẻ gãy sự đơn điệu của
thời biểu: thứ năm hàng tuần. Chiều ngày hôm ấy, các bạn
đồng hội đồng thuyền của chàng còn nhớ rõ, người gác cổng
giật chuông từng hồi và lớn tiếng la bằng thổ ngữ:
“Bosch’d Castelnev!”, một tiếng thổ âm vùng Piemonte của
Gioan Bosco. Bosch: có nghĩa là gia tộc Bosco, là Rừng cây, là
Gỗ cây; còn Castelnev là tên của giáo xöù của Gioan Bosco:
Castelnuovo. Cho nên các chủng sinh khác, những kẻ lúc nào
cũng rình chờ bất luận cơ hội nào để giỡn đùa đôi chút, liền
họa theo, khác nào những người bán hàng rong, bằng tiếng địa
phương Piemonte, tiếng Ý và tiếng Pháp:
“Boscho de Castelnev! Bosco di Castelnuovo! Rừng
Castelnuovo, khúc gỗ của Castelnuovo!”.
Gioan cười vang trước câu nói đùa đã thành quen lệ và cũng
bởi chàng thừa rõ ai đang muốn gặp mình, các hội viên Hội
Vui Sống đang đòi gặp chàng, đem tin tức đến cho chàng;
những người bạn thân đã cùng học trường trung học với chàng
và bọn trẻ mà chàng đã từng giúp vui bằng những trò chơi và
những chuyện kể, mà nay vẫn muốn nghe thêm nữa. “Rất đông
đảo các thanh thiếu niên, một người bạn ngủ chung phòng với
chàng nhớ lại, vây quanh anh ta, với vẻ mừng rỡ. Anh ta vui vẻ
trò chuyện với họ, nói năng với hết mọi người. Sau cơn huyên
náo với những câu nói giễu, những tiếng cười rộ, là vài phút
tạm ngưng nghỉ dưới chân tượng Đức Mẹ.

13 Pages 121-130

▲back to top

13.1 Page 121

▲back to top
Thứ năm hàng tuần là ngụm khí ôxy của chàng, là sự theo đuổi
gần như là lén lút cái “ý niệm cố định” của chàng: trung tâm
trẻ, mà chàng mệnh danh cho là “Nguyện Xá”.
Giữa bọn trẻ nhà giàu
Bệnh dịch tả lại trở lại hoành hành lần nữa suốt mùa nóng năm
1836. Lần nữa, Torino lại nếm mùi sợ hãi. Các cha Dòng Tên
đã tiến hành sớm hơn dự kiến việc chuyển các nội trú sinh của
mình từ trường trung học Carmine về lâu đài Montaldo, điểm
nghỉ mát tuyệt đẹp. Họ đang tìm một người đáng tin cậy để làm
giám thị nhà ngủ tập thể đồng thời làm giáo viên ôn tập môn
ngoại ngữ Hy Lạp. Don Cafasso liền cử thầy Bosco đến: “Con
sẽ có thể kiếm được ít tiền xài”.
Từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 17 tháng 10, Gioan đã sống lần
đầu trong đời mình giữa đám thanh thiếu niên thuộc các gia
đình giàu, tiếp cận với các nhân đức và cả các thói xấu của
những cậu ấm được “nâng như nâng trứng, hứng như hứng
hoa”. Ngài tự thú đã cảm thấy mình khó mà có được cái uy
quyền cần thiết ở giữa bọn chúng ngõ hầu mưu ích cho chúng.”
Ngài đã tin chắc rằng Chúa chỉ gọi ngài để sống giữa các trẻ
em nghèo khó. Đây sẽ là một trong những niềm xác tín tuyệt
đối của ngài: cũng như ngài không được kêu gọi để giáo dục
các bé gái, ngài cũng không được kêu gọi để giáo dục đám con
trẻ của những người giàu.
Hầu như là 30 năm sau đó, ngày 5 tháng tö năm 1864, Don
Bosco đã trả lời hầu như với sự gay gắt khi Ruffino đề nghị
với ngài một trường dạy các học sinh con nhà quí tộc:
Không, sẽ không bao giờ như vậy cả. Đó sẽ là sự tàn lụi
của chúng ta, cũng như đó đã là sự tàn lụi của các dòng
khác: Họ có việc giáo dục cho các trẻ nghèo và bị bỏ

13.2 Page 122

▲back to top
rơi như là mục đích đầu tiên, và họ đã bỏ nó để phục vụ
cho những người giàu có hay quí tộc!
Vẻ hấp dẫn của Lu-y Comollo
Vào tháng Mười năm 1836. Trong khi Gioan Bosco từ giã tòa
lâu đài Montaldo để qua ít ngày sống trong khu vườn nho ở
Sussambrino, Lu-y Comollo được mặc áo giáo sĩ. Và vào cuối
tháng đó, cậu ta cũng được vào chủng viện Chieri với bạn cậu
ta là Gioan Bosco. Thế là tái lập lại một tình bạn chắc chắn
nhất giữa đôi bạn trẻ.
Lu-y Comollo kém Gioan Bosco hai tuổi, nhưng đã lập tức trở
thành mối khích lệ thiêng liêng của Gioan. “Cuộc giải trí của
tôi không hiếm khi bị cắt đứt bởi Comollo. Anh ta đã kéo vạt
áo của tôi, nói là hãy theo anh ta, rồi anh ta đưa tôi vào nhà
nguyện”.
Tại đó Comollo cảm thấy mới chính là nhà của cậu, và những
sự tuôn trào tình cảm tự nhiên không bao giờ kết thúc: nào là
Viếng Thánh Thể, các kinh cầu nguyện cho những người hấp
hối, việc lần hạt, đọc phụng vụ Đức Trinh Nữ Maria, các chuỗi
hạt cho các linh hồn nơi luyện tội...
Gioan Bosco, giống như rất nhiều các Kitô hữu làm việc và vất
vả lo cho Nước Thiên Chúa, cảm thấy một sự thu hút sâu xa,
hầu như là sự nhớ nhung một thứ lòng mộ đạo với nhiệt tình
thuần khiết, với sự đơn sơ phó mình cho Thiên Chúa. Thầy đã
trực giác được ở nơi lối sống của người bạn của mình có cái gì
đó quá đáng. Thầy nói ra một cách hết sức tế nhò rằng: “Tôi
cũng chẳng cảm thấy muốn bắt chước cậu trong việc hãm
mình. Cậu ăn chay nhiệm nhặt trong suốt mùa chay, ngày thứ
bảy ăn chay hoàn toàn, và có những lần chỉ ăn có bánh và nước
lã...Đôi khi bỏ lại cả đĩa thöùc ăn và rượu, và bằng lòng với

13.3 Page 123

▲back to top
chút bánh nhúng vào nước lã, với cái cớ là như vậy tốt hơn cho
sức khỏe của cậu”.
Chúng ta có thể nói rõ hơn, không cần phải vòng vo: đấy là
một cuộc chạy cố ý đến chỗ kiệt sức và cái chết. Một vị linh
hướng tốt lành đã không để cho cậu ta chạy tới chỗ tàn sát bản
thân mình như thế. Khi Ñaminh Saviô (sau đó 20 năm) cố thử
đi theo con đường này, Don Bosco đã kiên quyết ngăn cản.
Nhưng Gioan Bosco vào thời còn là chủng sinh này, chưa thể
là một nhà linh hướng linh hồn người khác cách khôn ngoan
như thế được. Chỉ sau này mà thôi! Và nền tu đức thiếu độ
nhập thể và nhập thế của Comollo, chỉ muốn ẩn mình trong
Thiên chúa đến độ khinh khi mọi giá trị trần thế, đang khiến
cho thầy Gioan Bosco hết sức cảm phục.
Nơi Comollo luôn luôn hiện lên vẻ dễ lôi cuốn của cậu thánh
Lu-y Comollo nhỏ bé của mình, một thứ thánh thiện làm cho
mình tiêu hao cạn kiệt mau chóng để hướng thẳng đến Thiên
Đàng. Nhưng con đường tới Thiên Chúa của Gioan Bosco thì
sẽ tiếp tục đi theo hướng khác, đó là một sự thánh thiện nhập
thể và kiên vững, được thể hiện với sự tiếp xúc sinh động cùng
thực tế, với một tình yêu và sự đáp ứng các nhu cầu khẩn
trương đối với giới trẻ, với các vấn đề đang kêu gọi và rất cụ
thể làm cho mọi lý thuyết về tu đức được nên trong sáng và
đơn giản hơn.
Một chủng sinh mới đơn độc
Vào đầu tháng Mười Hai cậu Gioan Francesco Giacomelli vào
chủng viện. Cậu ta đã để lại một lời chứng như thể chụp được
hình dáng của thầy Gioan Bosco thuộc năm thứ hai triết học.
Chúng ta kể lại lời chứng này, có rút gọn lại đôi chút.
“Tôi vào chủng viện một tháng sau các bạn khác, tôi không
quen biết một ai cả, và trong những ngày đầu tiên tôi cứ thủ thỉ
một mình, lạc mất giữa đám người, và cảm thấy cô đơn. Lần

13.4 Page 124

▲back to top
đầu tiên tôi ngồi vào bàn học tại phòng học, tôi thấy trước maët
tôi một thầy tư giáo mà tuổi tác xem ra đã lớn. Vẻ rất đẹp và dễ
thương, với tóc gợn sóng, xanh xao và gầy gò, có vẻ đau đớn.
Đó chính là thầy Gioan Bosco. Cậu ta tới gần tôi khi thấy tôi cô
đơn sau bữa ăn trưa, và trong suốt giờ giải trí cậu ta ở bên tôi.
Cậu tỏ ra rất tử tế, thân thiến, nhẹ nhàng với tôi. Trong số biết
bao kỷ niệm, tôi nhớ đến chiếc mũ ba muùi giáo sĩ của tôi nó
ngồng nghệnh trên đầu tôi, và các bạn khác cười chọc tôi.
Gioan thì lập tức như bốn với bốn là tám, sắp xếp mũ lại cho
tôi ngay.
Trong naêm đó có hai thầy có tên là Bosco. Hầu như để phân
bieät hai người, thì người đầu tiên (sau này là Cha giám đốc
của các Sơ Đức Mẹ mân Côi) nói: “Mi sun Bosch’ d pucciu” (
Tôi là Bosco, nghĩa là gỗ, nhưng là thứ gỗ của cây sơn trà, tức
là loaïi gỗ rất cứng cáp, không bẻ cong được). Còn Gioan
Bosco thì nói: “Mi sun Bosch’ d Sales” (tôi là Bosco, tức gỗ
của cây liễu, mềm và dễ uốn) . Cậu ta không phải là một người
ra đầy vẻ mộ đạo, mà tính rất nóng nẩy, và hiển nhiên là một
thứ bạo động luôn trong thế tự kiềm chế. Cậu ta yêu thích trẻ
con vô bờ bến, và niềm vui của cậu ta là ở giữa đám trẻ”.

13.5 Page 125

▲back to top
Chương 13
GIOAN BOSCO
ĐƯỢC ĐÀO TẠO LÀM LINH MỤC THẾ NÀO?
Ngày 24-6-1837 là lễ thánh Gioan Baotixita. Đối với Gioan
Bosco, đây là ngày lễ bổn mạng của chàng và là sự mở màn
của bốn tháng nghỉ hè.
Chàng đi theo con đường trắng xóa dẫn từ Chieri tới
Castelnuovo, tiếp đến là con đường mòn dẫn lên trại
Sussambrino. Mười hai cây số: một cuộc dạo chơi hào hứng.
Nông trại của người anh trai đón chàng bằng tiếng chào mừng
“ó ó o” của lũ gà trống và bằng nụ cười e ấp của một đứa cháu
gái xinh như mộng.
Giuse đã lập gia đình từ mấy năm trước: ông đã thành hôn năm
1833 (hồi ấy chàng mới hai chục xuân xanh) với Maria
Calosso, một thiếu nữ quê ở Castenuovo.
Đứa con gái đầu lòng của họ, Margarita đã sống vỏn vẹn có ba
năm. Mùa xuân 1835 đã chào đời bé Philomena, một đứa bé
trầm tính thường say mê đứng ngó chú Gioan cắm cúi làm việc
với cái bào, cái khoan gỗ, cái lò rèn, hoặc cắt và may quần áo
và chế biến cho nó một con búp bê dễ thương bằng vải vụn.
Đưa liềm cắt lúa
Trên các cành nho, những chùm nho trái xanh bắt đầu hình
thành và trong các thửa ruộng, những cây lúa chưa gì đã đổi
mầu vàng hây. Khi chàng ngừng làm việc trong gian xưởng thợ
nhỏ hẹp của mình, Gioan liền quơ lấy lưỡi hái và nhập bọn với
đám thợ gặt đang đứng thành hàng dài. Mồ hôi long lanh nhiễu
trên trán chàng, dưới vành chiếc nón lá rộng bản.
Chàng cảm thấy một niềm vui mãnh liệt vì được lao động
ngoài trời sau tám tháng mọc rễ trên bàn ghế nhà trường.

13.6 Page 126

▲back to top
Một ngày kia, giữa các hàng cây nho, cậu thấy một con thỏ
lướt nhanh như mũi tên. Lập tức cậu chạy về nhà, lấy cây súng
của anh Giuse xuống khỏi chỗ treo. Cậu tưởng chỉ một phút là
bắt được chú thỏ. Nhưng con vật chạy hết tốc độ. Cứng đầu,
cậu không thể nào buông tha cho con thỏ.
“Từ cánh đồng này sang cánh đồng khác, từ vườn nho này sang
vườn nho khác, tôi đã vượt qua những thung lũng và những
ngọn đồi. Hằng giờ trôi qua. Rốt cuộc con thỏ nằm đúng tầm
súng bắn và tôi đã bắn chết nó bằng một phát súng. Con vật
ngã xuống và tôi thấy buồn thê thảm ngắm nó dẫy chết. Không
có ai đi theo tôi cả, và mọi người đều chúc mừng cho tôi vì
cuộc mạo hiểm tuyệt vời này. Nhưng tôi xét mình lại: Tôi mặc
áo sơ mi, tay sắn lên, không mặc áo giáo sĩ, với chiếc nón rơm,
chạy năng nổ suốt 5 cây soá, súng cầm ở tay. Tôi thấy mình
xấu hổ và hạ thấp mình quá”.
Về tới nhà, cậu đã đọc lại trong sách sổ tay của cậu các quyết
định cậu đã lấy khi mặc áo giáo sĩ. Cậu đọc thấy trong số thứ
hai: “Tôi sẽ không làm nhà ảo thuật hay người làm xiếc nữa,
tôi sẽ không đi săn nữa”. Cậu thì thầm: “Lạy Chúa, xin tha thứ
cho con”.
Cậu bắt đầu dùng các thời gian rảnh rỗi để phục vụ các bạn trẻ:
“Nhiều em trong số chúng không biết gì về đức tin cả. Tôi cảm
thấy một niềm vui lớn được dạy giáo lý cho các em. Tôi dạy
cho những đứa trẻ này đọc và viết; dạy hết mọi em, bất kể tuổi
tác nào. Các lớp học luôn cho không nhưng tôi có đặt một điều
kiện: phải chăm chỉ, bền bỉ, chú tâm và hằng tháng đi xưng
tội”.
Việc huấn luyện linh mục
Ngày 3-11-1857. Tại chủng viện Chieri, Gioan bắt đầu môn
thần học. Đây là bộ môn “khoa học nghiên cứu về Thiên Chúa”
và là

13.7 Page 127

▲back to top
Chương trình học cơ bản đối với các ứng sinh nuôi khát vọng
tiến tới chức linh mục. Vào thời ấy Chương trình kéo dài 5 năm
và bao gồm các bộ môn chính: Tín lý (các bộ môn về các chân
lý Kitô giáo), luân lý (các luật mà người kitô hữu phải tuân
giữ), Kinh Thánh (Lời Thiên Chúa), Lịch sử hội Thánh (kể từ
những nguồn cội của Kitô giáo cho tới thời hiện đại).
Việc học thần học có một tầm quan trọng to lớn trong đời sống
của mỗi linh mục. Trong những năm của thời trai trẻ và đầy
nhiệt huyết dâng hiến này, họ sắp xếp có thứ tự lớp lang những
điều tạo thành tâm trạng linh mục tương lai: nào là hệ thống
các ý tưởng và các động cơ của sự đánh giá của họ. Trong suốt
khoảng dài của cuộc sống sau đó, người linh mục sẽ làm cho
tâm trạng sống này được nên tinh tế hơn, uốn nắn nó đôi chút
dưới ảnh hưởng của các biến cố mới, nhưng họ khó mà thay
đổi được nó. Cách họ nhìn, phán đoán sự việc được bén rễ saâu
trong “lập trình tư tưởng ý thức hệ này” mà nền thần học tạo ra
cho họ. Bởi chính lý do đó mà họ trở thành “linh mục” như là
nghề nghiệp của mình.
Đối với Gioan Bosco thì những năm học thần học cũng rất
quan trọng. Trong khi cậu được trợ giúp bởi những đặc ân phi
thường Chúa ban cho, thì cậu cũng vẫn là người con của thời
đại mình, cách riêng là của Hội Thánh thời đại cậu.
Để hiểu Gioan Bosco, rất quan trọng là ta phải nắm bắt được
“những tư duy” mà các môn học, các sách vở, và việc hướng
dẫn thiêng liêng, cũng như những bài giảng thuyết đã đặt nền
tảng cho tâm trạng của cậu. Cha Pietro Stella trong cuốn sách
đầu tiên của cha có tựa đề Gioan Bosco trong lịch sử của nền
tôn giáo Công giáo đã dành 20 trang (59-78) để trình bày vấn
đề này. Vì sự vắn gọn của cuốn sách “chuyện Don Bosco” của
chúng ta, chúng ta bằng lòng ghi lại một số điểm mang tính
chất soi sáng rõ nét rút từ tác phẩm của cha Stella:

13.8 Page 128

▲back to top
“Thần học Tín lý khi đó đặt mọi sự dưới ánh sáng của việc
phải tính sổ với Thiên Chúa về sự công chính thần linh của
ngài, trong khi chờ đợi là mình sẽ được đón nhận hoặc sự sống
hay sự chết đời đời. Nền thần học này có thói quen qui mọi sự
về cõi đời đời, thuần túy theo nhãn quan thưởng phạt”.
“Thần học Luân lý” tập trung vào mối tương quan giữa các
luật thần linh và sự tự do của cá nhân; nó dạy cho ta biết phân
xử các hành vi theo như chúng có am hợp hay không với các
luật của Thiên Chúa”.
Việc giảng thuyết cho các chủng sinh góp phần vào việc cổ
võ cho sự lo lắng thái quá được nẩy sinh nơi các tâm hồn vô
cùng nhạy cảm. Nó lý luận dựa trên các bổn phận nghiêm chỉnh
và nhiệm nhặt mà cuộc đời linh mục áp đặt lên người linh mục,
và dựa trên những nguy hiểm rất lớn mà sứ vụ linh mục gặp
phải (những nguy hiểm đến từ thế gian, từ phụ nữ, từ các rối
trật tự thuộc đủ mọi loại), trên việc phải tính sổ chính xác mà vị
thầy thần linh đòi hỏi nơi các thừa tác viên của Ngài”.
Chúng ta ghi nhận rằng do được đào tạo bởi lối giảng thuyết
này, Gioan Bosco đôi khi có sự thái quá trong việc soi xét lòng
mình và bước theo các hình thức nhiệm nhặt liên quan đến việc
đó tạo luân lý. Đấy là những kinh nghiệm vắn tắt mà nhiều
chủng sinh thời xưa đã phải trải qua (ở trong các chủng viện
đóng kín và tự tại).
Đánh giá về thời đại của ngài
Chúng ta tin là rất quan trọng việc nhấn mạnh đến các tính chất
cốt yếu của “tâm trạng lịch sử” mà Gioan Bosco đã trải qua
trong những năm này, để có thể hiểu được Gioan Bosco: ngài
đã được hướng dẫn thế nào để thấy và đánh giá “thời đại trong
đó ngài đang sống”, một thời đại rất quan trọng mà trong các
sách lịch sử đều coi là “thời kỳ Phục Hưng”. Chỉ qua việc hiểu
cái ‘tâm trạng do lịch sử nhào nắn này”, ta mới có thể hiểu

13.9 Page 129

▲back to top
được cách thức Gioan Bosco đã suy nghĩ về tương lai của Hội
Thánh và của thế giới.
Chúng ta bắt đầu nhận định về kinh nghiệm của cuộc cách
mạng Pháp và về Đế quốc của Napoleon như là một “thất bại”.
“Cuộc cách mạng ghê gớm nhất trong số các cuộc cách
mạng…”, “sự ác chiến thắng ngay cả ở nơi chúng ta”, “cái lưới
dò chim sẻ đã bị đánh nát và tất cả chúng ta đều đã được giải
thoát”, việc phục hưng các ngai vàng là “công trình của Thiên
Chúa”, các câu nói như thế xuất hiện đầy dẫy trong các lá thư
mục vụ và các bài giảng vào thời đại này.
Sự thất bại đã trở thành hiển nhiên khi người ta đi từ việc công
bố các nguyên tắc lớn (tự do và bình đẳng) để rồi tiến tới nỗi
hãi hùng của cuộc cách mạng và của chế độ độc tài Napoleon.
Hậu quả là với nguyên tắc triết lý của các triết gia thế kỷ ánh
sáng (mà cuộc cách mạng Pháp đã đảm nhận lấy) chính là: “Lý
trí là con đường duy nhất tiến tới điều chân chính và điều tốt
lành” đã đưa đến các hậu quả khốc hại.
Ngược lại “bình diện tôn giáo” được tái đáng giá lại, và người
ta giảm thiểu nó trong các giới hạn của lý trí nhân loại. Phương
Đông được tái đánh giá lại, và quyền bính của nhà vua cũng
thế, Quyền bính ấy chỉ bị giới hạn qua việc tuân giữ các luật
thần linh: với một sự khôn ngoan sáng suốt: với sự khôn ngoan
được soi sáng, ông vua phải duy trì các sức mạnh giải phóng,
cách mạng luôn luôn rình rập lôi cuốn cuộc sống vào chỗ vô
trật tự và bị đàn áp.
Công việc tái đánh giá lịch sử này quả còn mang tính chất hàm
hồ. Nó có thể dẫn đến một nền Kitô giáo quyền uy, vào một sự
liên kết giữa ngai vàng và bàn thờ, khiến cho người ta không
còn hiểu được rằng “sự tự do, bình đẳng, huynh đệ chính là
những giá trị Kitô hữu. Những sự mập mờ trên chính là những

13.10 Page 130

▲back to top
sự lấp lửng của “phe bảo thủ Công giáo” đã thống trị bên Ý
cho tới năm 1848.
Dưới tấm áo choàng trên, ngay cả tại những lãnh địa của Giáo
Hội, cũng lưu chuyển các ý tưởng khác, như là ý tưởng về
“chủ nghĩa tự do Công giáo”. Người ta nhìn nhận các nguyên
tắc lớn của cuộc cách mạng. Người ta kết án nền bạo lực của
phe nhóm Giacôbít và của chế độ độc tài Napoleon. Người ta
cầu chúc một hệ thống quyền lực quân bình: với một ông vua
cầm cương cho các nhà cách mạng, và cũng với cả một Hiến
Pháp đảm bảo các quyền tự do và bình đẳng. Tuy nhiên tự do
và bình đẳng được mọi người ao ước, chỉ trừ ra nhóm “dân
chúng hạ đẳng”.
Những người thuộc phe tự do và phe bảo thủ biểu lộ một ý
thức hãi sợ đối với “sự bình đẳng dân chủ”: y như “nỗi kinh
hoàng thời cách mạng” đã dạy cho biết: Sự bình đẳng dân
chủ buộc phải được chuyển thành một thứ cai trị bạo ngược và
chuyên chế của một nhóm nhỏ đòi được quyền cai trị nhân
danh nhân dân và tạo nên sự hỗn loạn.
Trong số những người thuộc phe tự do nổi tiếng nhất của thời
kỳ đó, ta phải kể ra Antôn Rosmini và Alexandro Manzoni.
Gioan Bosco giữ một tâm trạng lịch sử mang chiều kích “Công
giáo bảo thủ”. Ngài thuộc về loại người của các ý tưởng bảo
thủ (dù cho sự khẩn trương của tình thế khiến ngài vượt ra
ngoài cảnh giới của giới bảo thủ, hay thậm chí đảo ngược hết
lại nhiều thái độ của giới bảo thủ). Ngài không thể làm khác
thế được khi vào năm 1832, trong Thông Diệp Mirari Vos [Sao
Anh Em Lại Ngạc Nhiên], Đức Thánh Cha Gregorio XVI đã
tuyên bố rằng “các quyền tự do hiện đại” không thể chấp nhận
được đối với các người Công giáo. Việc nhìn nhận sự tự do
lương tâm, theo lời Đức Thánh Cha, chính là đặt ngang hàng
nhau giữa chân lý và sai lầm. Bản văn của thông điệp nằm ở

14 Pages 131-140

▲back to top

14.1 Page 131

▲back to top
trong tay các chủng sinh là những người phải chấp nhận nó là
đối tượng để học tập và suy gẫm.
Đâu rồi các nhân sĩ Cavour, Mazzini, Garibaldi?
Trong khi tại Chieri, Gioan Bosco hấp thụ các ý tưởng trên, thì
tại Torino, Carlo Alberto là nhà quán quân của chủ nghĩa bảo
thủ Công giáo. Giao ước giữa ngai vàng và bàn thờ thịnh hành.
Giới giáo sĩ giữ một địa vị nổi trội tại Đại Học: Một đại diện
của Đức Tổng Giám Mục coi sóc các kỳ thi. Vào năm 1834,
trong sân đình Arsenal, nhà vua đã khai trương một tượng đài
Pietro Micáca, một con người của dân chúng đã hy sinh mạng
sống để cứu thành phố. Ấy thế mà trong diễn văn, người ta
không tôn vinh các nhân đức của nhân dân, mà chỉ nêu người
anh hùng này như một bề tôi đơn sơ, dốt nát, vâng phục và sẵn
sàng hy sinh mình vì nhà vua của mình.
Cũng trong những năm ấy, những kẻ chủ trương Cuộc phục
hưng vẫn còn phân tán khắp nơi.
Gioan Ferrari, nhân vật mà năm 1846 sẽ lên ngôi Giáo Hoàng
dưới tước hiệu Đức Piô IX, đang làm giám mục của giáo phận
Jimbola. Ngài chỉ mới 45 tuổi và được coi là một “Giám mục
không có thiên kiến” vì ngài đã lên tiếng phiền trách những
hành động quá khích của đội cảnh sát Giáo Hoàng và vì ngài là
bạn thân của bá tước Pasolini, một nhân vật tự do nổi nang nhất
trong thành phố của ngài.
Camille Cavour, 27 tuổi, đang điều hành lĩnh vực nông nghiệp
ở Leri. Chân mang ủng, đầu đội nón lá, ông thường cuốc bộ
không biết mỏi mệt từ sáng sớm đến tận chiều tối băng qua
những nương rẫy, những đồng cỏ, những ruộng lúa. Ông đã
từng là thiếu úy tại tiền đồn Genova năm 1831. Nghe tin các
phong trào cách mạng, ông đã lớn tiếng la: “Chế độ coäng hòa
muôn năm!”.người ta đã tống cổ ông tới thung lũng Aosta và
ông đã rời khỏi quân ngũ. Thân phụ ông là thống đốc của đô

14.2 Page 132

▲back to top
thị Torino kiêm cảnh sát trưởng, đã đẩy ông về miền nông
thôn. Thời gian xen giữa một mùa hái nho và một vụ gặt lúa,
ông đã đi du lịch khắp châu Âu, được thán phục bởi các nghị
viện ở Paris và ở London. Ông cũng đã gặp những người Ý bị
đày vì lý do chính trị và nói về họ: “Đó là một bọn điên, ngu và
cuồng tín mà tôi sẵn sàng dùng làm phân bón cho các cây củ
cải của tôi”.
Mazzini, 32 tuổi, mới đây đã bị đuổi khỏi Thụy Sĩ, nơi mà từ
đó ông đã từng điều hành những vụ âm mưu làm cách mạng.
Ông đã lập cư trong một ngôi nhà thuộc vùng ngoại ô thành
phố Luân Đôn. Ông viết bài cho các nhật báo để kiếm kế sinh
nhai. Ông đã để râu và thường lảng vảng trên những con phố
đầy sương mù của thủ đô, đơn độc và mình mặc toàn đồ đen.
Garibaldi đã đào thoát sang châu Mỹ sau thất bại của vụ nổi
dậy của Mazzini ở Lavoie và ông đã đổ bộ xuống xứ Braxin.
Ông này vừa tròn ba chục tuổi và hành nghề hải tặc tại các
vùng biển phía nam để phục vụ “chính quyền cách mạng” ở
Rio Grande. Ít lâu sau, ông cho “đoàn quân Ý” của mình mặc
chiếc áo sơ mi đỏ huyền thoại nhờ mua được với giá rẻ mạt ở
Montevideo nguyên một kho hàng áo mặc dưới tấm vải che
dành cho các tay giết heo ở Achentina.
Victor Emmanuel, 27 tuổi, sống tại hoàng cung Torino mà như
sống trong một trại lính đầy kham khổ. Ông phải đi kèm phụ
vương đến các lễ hội và các vũ hội của giới quí tộc và phải
đứng hàng giờ kế cận vua cha. Những giây phút sảng khoái
nhất của ông là khi ông ghé qua các chuồng ngựa. Ông nói một
thứ tiếng địa phương vừa mộc mạc vừa thô lỗ với mấy tên lao
công chuồng ngựa, ông cưỡi ngựa với vẻ vừa táo bạo vừa kênh
kiệu. Đây là một con người rất năng động và rất mê cảnh sống
tự do ngoài trời.

14.3 Page 133

▲back to top
Hoặc họ ở gần hoặc họ ở những phương trời xa xăm, lịch sử
của các nhân sĩ trên vẫn đều đều tiến tới. Những biến cố lớn
nhỏ nối tiếp nhau, đẩy nhanh bước diễn tiến của con người.
Năm 1836, Morse đã thực hiện được hệ thống đánh điện tín và
hệ thống liên lạc bằng điện đàm qua dây. Chẳng bao lâu sau đó
phổ biến khắp thế giới việc gửi điện tín (telegram): trước tiên
dành cho các quan chức và các tờ báo lớn, rồi sau đó được tới
tay mọi người sử dụng.
Năm 1837, trong một nạn dịch tả, nhà thi sĩ Giacobe Leopardi
đã qua đời tại Tháp Greco. Ông chỉ hưởng dương được ba
mươi chín tuổi. Bên Anh, Nữ hoàng Victoria lên ngôi: bà mở
màn cho một triều đại rất dài trong đó ta thấy Nước Anh trở
thành quốc gia thực dân đầu tiên trên thế giới.
Năm 1838, hầu tước Tancrede de Barolo, cựu đô trưởng thành
phố Torino đã từ trần… Bà vợ góa của ông quyết định hiến
toàn bộ tài sản của mình để cứu giúp các phụ nữ xấu số. Do đó
đã khai sinh ở ven đô Torino, không xa Cottolengo, một cơ
quan cứu trợ các nữ tù nhân và các phụ nữ túng quẫn.
Năm 1839, vua Ferdinand đệ nhị cho xây dựng tuyến đường xe
lửa đầu tiên của Ý, ông Napoli de Granatello và ông Jacques
Daguerre đã thiết kế chiếc máy chụp hình đầu tiên mà người
đời sẽ có thể lưu giữ được hình ảnh trung thực, nhờ hàng chục
tấm hình đã chụp ông trong những hoàn cảnh khác nhau.

14.4 Page 134

▲back to top
Chương 14
GIOAN ĐÃ TRỞ THÀNH DON BOSCO
Quần chúng không hiểu
Muøa hè 1838, Nhà “thần học” Gioan Bosco được mời đến
giảng lần đầu ở Alfiano, nhân dịp lễ Đức Mẹ Mân Côi. Ngài kể
lại: “Cha xứ của họ đạo, Don Joseph Pelato, là một vị linh mục
tốt, học rộng và rất đạo đức. Tôi đã xin ngài cho biết ngài nghĩ
sao về bài giảng của tôi. Ngài đáp:
- Hay lắm, bố cục rất mạch lạc. Thầy sẽ là một nhà thuyết giáo
kỳ tài.
- Giáo dân có hiểu nổi không ạ?
- Không nhiều lắm. Ông anh linh mục của tôi, bản thân tôi và
vài vị linh mục khác, chúng tôi hiểu.
- Nhưng... con giảng đơn sơ lắm mà.
- Đối với thầy thì giảng kiểu ấy dường như là đơn sơ, nhưng
đối với quần chúng, như vậy lại là rất cao siêu. Liệt kê hàng
chuỗi những sự kiện trong lịch sử Hội Thánh là cả một kỳ
công, thế nhưng thường dân có hiểu gì.
- Nếu vậy con phải làm sao đây?
- Phải bỏ hẳn văn phong của nền cổ văn, hãy nói bằng tiếng địa
phương, hoặc nếu thấy thích hợp, gặp dịp thì nói ngay bằng
tiếng Ý, nhưng là nói theo kiểu bình dân, rất bình dân, thật bình
dân. Thay vì dẫn chứng, hãy đưa ra những thí dụ, những so
sánh giản dị và thiết thực. Thầy hãy nhớ là người ta ít khi nghe
và cần phải giải thích cho người ta về các chân lý của Đức Tin
theo kiểu càng dễ hiểu bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

14.5 Page 135

▲back to top
Don Bosco đã viết rằng đây là một trong những lời khuyên quí
giá nhất mà mình đã nhận được trong đời. Nó giúp ngài trong
các bài giảng, các lớp giáo lý và để tiến hành việc viết sách
nữa.
Một giao ước với cõi bên kia
Tháng Mười Một năm 1838. Gioan Bosco bắt đầu năm thứ hai
thần học. Thầy hoàn toàn bị chấn động bởi một biến cố bi thảm
với một ấn tượng hãi hùng.
Trong những thánh hè cuối cùng, Lu-y Comollo đã nói với cậu
những lời rất lạ. Trong khi nhìn những vườn nho từ chỗ cao
hơn của một ngọn đồi, Lu-y đã thì thầm:
Mình thì hy vọng uống thứ rượu tốt hơn.
Bạn muốn nói gì với lời này?
Thôi, đừng nói nữa…Chúa biết điều gì Ngài sẽ thực
hiện.
Mình không hỏi cậu chuyện này. Mình hỏi cậu muốn
nói gì với lời: Mình thì hy vọng uống thứ rượu tốt
hơn. Hay là cậu muốn lên thiên đàng?
Cho dù mình không thực sự chắc chắn sẽ lên thiên đàng
sau khi mình chết, tuy nhiên mình có một hy vọng có
nền tảng, và đã từ một thời gian qua, mình tha thiết
mong mỏi thưởng thức niềm khao khát của các thánh,
khiến cho mình cảm thấy không thể nào những ngày
sống của mình còn kéo dài được nữa.

14.6 Page 136

▲back to top
Comollo nói điều này với một sự vui sướng raát lớn lao hiện
lên trên khuôn mặt vào đúng thời gian bạn đang hưởng sự
thánh thiện tuyệt hảo, và bạn đang chuẩn bị trở lại chủng viện.
Trong những tháng đầu tiên của năm học, có thêm một chi
tiết đặc biệt, cũng rất là lạ. Gioan và Lu-y cùng nhau đọc một
đoạn cuộc đời của một vị thánh, và Gioan bình luận rằng:
Thật là đẹp nếu một trong hai người chúng ta, ai chết
trước, và nếu Thiên Chúa cho phép, thì sẽ về báo cho
người kia những tin tức về cõi đời sau.
Lu-y bị đánh động mạnh bởi ý tưởng này, cậu nói một cách
mạnh mẽ:
Chúng ta giao kèo với nhau nhé. Người chết trước, nếu
được Thiên Chúa cho phép, sẽ nói cho người kia hay
xem mình đã ở trên thiên đàng chưa. Đồng ý chứ?
Họ đã bắt tay nhau.
Ngày 25 tháng Ba 1839. Trong khi họ đi tới nhà nguyện, Lu-
y chặn Gioan lại tại hành lang và nói với cậu ta với vẻ nghiêm
chỉnh:
Đối với mình thế là xong rồi. Mình cảm thấy khó chịu
quá, và mình biết mình sẽ chết.
Gioan nói diễu:
- Ôi, mình thấy cậu khỏe mà. Hôm qua chúng ta đã đi dạo với
nhau suốt cả một giờ. Cậu đừng yên trí như thế.

14.7 Page 137

▲back to top
Nhöng thực ra sự việc lại nghiêm trọng. trong khi họ ở trong
nhà thờ, thì Comollo được đưa vào bệnh xá. Cơn sốt đột xuất
trở nên rất cao và đáng lo ngại.
Ngày 31 tháng Ba là Lễ Phục Sinh. Comollo được nhận Mình
Thánh Chúa như của ăn đàng. Cậu đã hoàn toàn kiệt lực. Trong
giờ phút Gioan ở bên cậu, cậu liền cầm lấy tay Gioan và thì
thầm:
Đây là giờ phút chúng ta phải chia tay, Gioan thân mến.
Chúng ta cứ nghĩ rằng chúng ta cùng trở thành linh
mục, và sẽ giúp đỡ nhau, khuyên bảo nhau. Nhưng
Thiên Chúa lại không muốn thế. Bạn hãy hứa là cầu
nguyện cho mình nhé.
Comollo chết vào sáng ngày mùng 2 tháng Tư, trong
khi siết chặt tay Gioan. Cậu cho chưa tròn 22 tuổi.
Và đây là sự kiện rất lạ lùng xẩy ra sau đó 44 giờ, do
chính lời Don Bosco viết lại:
“Chiều hôm đó, cha đã lên giường trong một nhà ngủ dành cho
20 chủng sinh, và cha rất bồn chồn, tin chắc rằng đêm đó lời
hứa sẽ được thực hiện. Vào lúc 11 giờ 30, một tiếng ồn sâu
lắng nghe vang lên ở các hành lang. Nó giống như một toa xe
lớn được kéo bởi nhiều con ngựa đang tiến dần đến cửa nhà
ngủ. Nó càng lúc càng vang lên ghê sợ tựa tiếng sấm, khiến cả
nhà ngủ rung lên. Các thầy chủng sinh khiếp hãi chạy trốn khỏi
giường để qui tụ lại với nhau, tạo cho nhau được thêm can
đảm. Chính lúc đó, và giữa cái thứ sấm gầm sâu lắng và hãi
hùng đó, cha nghe rõ ràng tiếng của Comollo ba lần vang
lên: Bosco, mình đã được cứu rỗi! Tất cả nghe thấy tiếng ồn,
có một số nghe thấy tiếng là không hiểu ý nghĩa; tuy nhiên

14.8 Page 138

▲back to top
một số bạn khác đã hiểu y như cha. Bằng chứng là trong cả một
thời gian lâu dài về sau lời ấy vẫn được nhắc lại trong chủng
viện. Đó là lần đầu tiên như cha nhớ là cha đã thực sự sợ hãi:
Cha sợ hãi khủng khiếp đến nỗi rơi vào một cơn bệnh nặng,
gần như đã ở bên bờ mộ rồi.”
Don Lemoyne, người đã sống ở Nguyện Xá bên cạnh Don
Bosco từ năm 1883 đến 1888, quả quyết rằng: “Cha Fiorito đã
nhiều lần kể lại lần Lu-y hiện ra này cho các bề trên của
Nguyện Xá”.
Bánh mì trộn hạt kê với rượu vang vùng Barbera
“Cơn bệnh nặng” Don Bosco nói đến đó chính là một hình thức
nghiêm trọng của một sự kiệt sức do mất tinh thần, và nó kéo
dài cho đến những tháng đầu tiên của năm học sau đó. Gioan
ghê sợ việc ăn uống, và cơn mất ngủ liên tục kéo dài. Sau một
vài tháng, bác sĩ khuyên Gioan tuyệt đối phải nghỉ tại giường.
Cậu nghỉ như thế trong 30 ngày.
Nhưng cậu được hồi sức lại một cách lạ lùng, hầu như không
thể tin nổi. Mẹ cầu, biết cậu đã nằm liệt giường nhiều ngày
qua, nên đã đến gặp cậu với một rổ to những bánh mì trộn hạt
kê và một chai rượu vang để lâu ngày. Đối với những người
nghèo, thiếu ăn là thứ bệnh duy nhất, và đồ ăn tốt là thuốc
chữa duy nhất. Trên các đồi nho vùng quê, thì chẳng có các thứ
bệnh với những cái tên bệnh lạ hoắc, và những thứ thuốc chữa
tinh vi.
Gioan đang ở trong trò chơi thú vị đó. Cậu không muốn làm
cho mẹ cảm thấy buồn tủi vì con từ chối món quá. Cậu liền bẻ
những miếng bánh, cứ miếng này đến miếng khác trôi vaøo cổ
họng, lại thêm những hớp rượu đã để dài ngày. Và cứ thế,
chẳng hề để ý, cậu tiếp tục ăn no bánh và uống hết cả chai
rượu. Sau cùng là một giấc ngủ thật say, suốt hai ngày và một
đêm liên tục”. Khi thức dậy, cậu cảm thấy khỏi hẳn.

14.9 Page 139

▲back to top
“Linh mục không lên Thiên Đàng một mình”
Ngày 26 tháng 5, thầy phó tế Gioan Bosco bắt đầu cấm phòng
để dọn mình chịu phép truyền chức linh mục. Thầy đã được
cha giảng phòng mời gọi hãy nguyện ngắm trong mấy ngày
này những lời Thánh Vịnh: “Ai sẽ lên núi Chúa? Ai sẽ được ở
trong nhà Chúa? Đó là kẻ có đôi tay và tâm hồn trong trắng”.
Khi suy tư về quá khứ của mình, thầy nhận thấy là hai bàn tay
mình, kể từ ngày mẹ Margarita đem chắp nó lại cho mình, vẫn
như có phép lạ, luôn còn trong trắng”.
Trên một cuốn sổ tay, thầy đã ghi: “Linh mục không lên trời
một mình, ngài không xuống hỏa ngục một mình. Nếu ngài làm
tốt, ngài sẽ về trời với những linh hồn mà mình đã cứu được
nhờ gương sáng của mình; nếu ngài làm bậy, ngài sẽ đi tới chỗ
hư mất cùng với những linh hồn bị hư mất do sự bê bối của
mình. Chính vì vậy mà tôi sẽ dồn hết can đảm để thực thi các
quyết định sau đây”.
Tiếp theo là chín huấn lệnh cơ bản cho tương lai. Đại khaùi,
chúng chỉ lặp lại và xác định rõ các ý định của thầy nhân dịp
lãnh áo chùng thâm. Nhưng ba huấn lệnh trong số đó cho thấy
một sự đào sâu đặc thù cái sẽ là “kiểu cách linh mục” của
Gioan Bosco, sau đây là mấy huấn lệnh vừa kể:
- Triệt để tận dụng mọi giờ giấc của mình.
- Chịu đựng, hành động, tự hạ trong mọi sự và mọi lúc ngay
khi vấn đề đặt ra là phải cứu rỗi các linh hồn.
- Đức ái và sự dịu hiền của thánh Phanxicô Salê sẽ hướng dẫn
tôi trong mọi sự.
Linh mục đời đời
Ngày 5 tháng 6 năm 1831, trong nhà nguyện của Tòa Tổng
Giám Mục, Gioan Bosco, mình mặc áo trắng tinh, phủ phục

14.10 Page 140

▲back to top
trước bàn thờ, mặt úp xuống đất. Những nốt nhạc khắc khổ của
bản bình ca tuôn xuống từ cây đàn dương cầm. Các linh mục
và các chủng sinh hiện diện khẩn cầu với từng vị Thánh một
của Giáo hội: Phêrô, Phaolô, Benađô, Phanxicô, Catarina,
Inhaxiô...
Mặt tái mét vì xúc động và vì mệt mỏi do những ngày tất bật
vừa qua, Gioan trỗi dậy và đến quì dưới chân Đức Tổng Giám
Mục. Đức Cha Lu-y Fransoni đặt tay lên đầu ngài và phong
ngài làm linh mục đời đời, sau khi đã cầu xin Chúa Thánh
Thần ngự đến.
Mấy phút sau, hòa giọng mình với giọng Đức Tổng Giám Mục,
Gioan bắt đầu cử hành Thánh lễ đồng tế đầu tay của mình.
Ngài đã trở thành Don Bosco.
“Lễ mở tay của tôi, ngài đã viết một cách đơn sơ, tôi đã cử
hành tại nhà thờ thánh Phanxicô khó khăn, với sự tham dự của
Don Caffaso, người chỉ đạo kiêm ân nhân kiệt xuất của tôi.
Người ta đang nóng lòng mong đợi tôi tại quê nhà (hôm ấy là
ngày lễ Chúa Ba Ngôi), nơi mà bao năm nay không có một lễ
mở tay nào. Nhưng tôi thích cử hành ở Torino cách âm thầm,
tại bàn thờ Thiên Thần Bản Mệnh. Tôi muốn gọi hôm ấy là
ngày đẹp đẽ nhất đời mình. Tới lúc đọc nghi thức nhớ đến
những người quá cố, tôi đã nhớ đến những người thân yêu, đến
các vị ân nhân của tôi, đặc biệt là Don Calosso, mà lúc nào tôi
cũng coi là vị ân nhân vĩ đại và kiệt xuất. Những người Công
giáo ngoan đạo xưa nay vốn tin là Chúa nhân lành luôn luôn
chấp thuận ban ơn huệ mà vị tân linh mục cầu xin với Chúa
trong lúc cử hành lễ mở tay. Tôi đã sốt sắng cầu xin ôn lôïi
khaåu, ngõ hầu có thể mưu ích cho các linh hồn”.
Thánh lễ thứ hai, Gioan Bosco đã muốn cử hành tại bàn thờ
Đức Bà An Ủi kẻ âu lo, bên trong đại Thánh đường dâng kính
Đức Mẹ ở Torino. Khi ngước mắt nhìn lên, cha đã thấy Ngài

15 Pages 141-150

▲back to top

15.1 Page 141

▲back to top
ngự trên cao, Bà lạ chói lọi như mặt trời, Đấng mà mười bảy
năm trước, đã phán bảo cha trong giấc mơ: “Hãy trở nên khiêm
tốn, can trường và dũng mãnh!”, Bà đã nói thế. Gioan Bosco đã
ra sức phấn đấu và đã thành công. Giờ đây đã bắt đầu tới thời
tới lúc mà cha sẽ hiểu rõ mọi sự”.
Thứ năm tuần sau, nhằm lễ Mình Máu Thánh Chúa Kitô (thời
ấy là một leã buộc), Gioan Bosco về làm lễ tại quê nhà.
Những quả chuông đã đổ từng hồi, tiếng vang đi rất xa. Toàn
thể dân chúng đã chen chúc chật ních bên trong nhà thờ. “Họ
quý mến tôi quá, ngài nói, mà ai nấy đều sung sướng như chính
tôi vậy”.
Các chú bé tí teo tròn xoe mắt khi nghe người lớn nói lại raèng
vị linh mục này xưa kia đã từng là một tay xiếc raát cöø.
Những người lớn thì đang nhớ lại người bạn đã cùng học, cùng
chơi với mình cách nay trên dưới một chục năm.
Những bậc kỳ cựu, trên những ngọn đồi quanh vùng, đã bao
phen thấy “cậu đi ngang qua trên đường, đi chân không và sách
vở ôm trong tay”.
Tối hôm ấy, mẹ Margarita đã tìm được ít phút để nói chuyện
riêng với vị tân linh mục. Bà bảo con: “Bây giờ con đã là linh
mục, con đã ở gần Chúa Kitô. Mẹ chưa hề đọc qua các sách
của con, nhưng con hãy nhớ rằng bắt đầu dâng thánh lễ, tức là
bắt đầu chịu thương chịu khó. Con sẽ không nhận thức được
điều ấy ngay bây giờ đâu, nhưng dần dà con sẽ thấy là mẹ đã
nói sự thật. Kể từ giờ phút này, con hãy chỉ nghĩ đến phần rỗi
của các linh hồn mà thôi, chứ đừng lo nghĩ mảy may gì cho mẹ
cả”.

15.2 Page 142

▲back to top
Chương 15
NHỮNG BƯỚC ĐẦU ĐỜI LINH MỤC
Don Bosco sẽ làm gì bây giờ?
Ngài thông minh, ngài thèm được làm việc, ngài nghèo…
Người ta đề nghị với ngài ba nhiệm sở. Một gia đình quí phái ở
Genova đề nghị ngài làm gia sư dạy dỗ con cái của họ. Vào
thời ấy, rất nhiều gia đình, thay vì gửi con vào học các trường
công lập, lại thích bao phòng trọ tại khách sạn riêng của mình
cho một thầy giáo tư để vị này đảm nhiệm việc dạy dỗ và giáo
dục con cái họ. Hầu như bao giờ họ cũng lựa một linh mục bảo
đảm là nghiêm túc. Mấy nhà quí tộc thành Genova đã cho Don
Bosco biết là thù lao của ngài sẽ là mười ngàn lires mỗi năm
(một sự đãi ngộ rất hậu).
Cư dân ở địa phương của ngài thì xin ngài giữ chức quản lý
nhà thờ Murialdo hiện còn bỏ trống. Họ cam kết với ngài một
khoản thù lao cao gấp hai lần mức thông thường.
Cha xứ ở Castelnuovo, Don Cinzano lại đề nghị ngài làm phó
xứ cho mình và cũng đảm bảo cho ngài một thu nhập khá.
Lạ thật! Mỗi người đều nói với Don Bosco về tiền bạc, như thể
chuyện trở thành linh mục là một "áp phe sộp" mà rốt cuộc đã
"chộp" được, cần phải làm sao cho nó sinh lợi về mặt kinh tài.
Duy chỉ có một phụ nữ đã luôn luôn phải chắt chiu từng xu để
giữ quân bình ngân sách chi thu, là đã nhắc nhở vị tân linh
mục: "Nếu con trở nên giàu có, mẹ sẽ không bao giờ còn đặt
chân đến nhà con nữa đâu".
Để quyết định dứt điểm, Don Bosco đã tới Torino, tìm đến nhà
Don Cafasso.
- Con đến làm gì đây?

15.3 Page 143

▲back to top
- Đừng chấp thuận đề nghị nào cả. Hãy đến đây, đến Trung tâm
giáo sĩ. Cha sẽ bổ túc khóa đào tạo linh mục của mình tại đây".
Don Cafasso là người nhìn xa thấy rộng. Ngài đã hiểu rằng "sứ
mạng" nhân bản và thiêng liêng của Don Bosco không thể cam
phận với một gia đình hoặc một địa phương. Ngược lại, Torino
là một thành phố phù hợp với tài đức của vị tân linh mục:
những khu phố mới, những thời đại mới, những vấn đề mới.
Don Cafasso sẽ chỉ cần luôn luôn chuyên chú theo dõi để điều
tiết Don Bosco.
Khám phá đầu tiên: cảnh cơ cực của vùng ven đô
Trung tâm giáo sĩ trước kia là một tu viện tọa lạc gần nhà thờ
thánh Phanxicô khó khăn. Trong tòa nhà ấy, nhà thần học Lu-y
Guala, với sự tiếp tay của Don Cafasso, đang chuẩn bị cho bốn
mươi lăm linh mục trẻ trở thành những vị tông đồ "của thời đại
họ và của xã hội mà trong đó họ sẽ phải sống".
Việc chuẩn bị kéo dài hai năm (riêng đối với Don sẽ áp dụng
một ngoại lệ: ba năm). Ngày nào cũng diễn ra hai phiên họp:
một vào buổi sáng do Don Guala chủ trì và một vào buổi tối do
Don Cafasso. Trong ngày, các linh mục được gửi đi vào giữa
môi trường đô thị để tiến hành công tác mục vụ của mình:
những bệnh viện, những khám đường, những cơ sở từ thiện,
những cao ốc sang trọng, những ngôi nhà bình dân và những
căn gác xếp, giảng Phúc âm trong các nhà thờ và dạy giáo lý
cho bọn trẻ, cứu tế các bệnh nhân và những người già nua tuổi
tác.
Kể từ năm 1841, Don Cafasso đã trở thành "cha linh hướng"
của Don Bosco. Điều này có nghĩa là Don Bosco sẽ xưng tội
với ngài, xin những lời khuyên bảo của ngài trước bất cứ một
quyết định quan trọng nào, bày tỏ với ngài những ý đồ riêng
của mình và tin cậy hoàn toàn ở sự nhận định của ngài.

15.4 Page 144

▲back to top
Cho đến nay, Don Bosco chỉ mới quen biết cảnh nghèo của
vùng nông thôn. Ngài không biết thế nào là cảnh cơ cực chung
quanh các đô thị. Don Cafasso bảo ngài: "Đến đó mà coi, cha
hãy nhìn xem quanh mình".
"Ngay những ngày Chúa nhật đầu tiên, Micae Rua sẽ làm
chứng, ngài đã đi xuyên suốt thành phố nhằm tạo cho mình một
ý niệm về điều kiện tinh thần của những người trẻ".
Ngài đã bàng hoàng, điên đảo vì những điều mắt thấy tai nghe.
Các vùng ven đô đều là những khu vực sục sôi và đầy chống
đối, những vành đai của sự thống khổ. Lũ trẻ vị thành niên đi
lang thang khắp các phố xá, không có công ăn việc làm, hư
hỏng, sẵn sàng lún sâu thêm.
Chợ mua bán những tay thợ trẻ
Gần chợ trung tâm của Torino, ngài phát hiện ra một khu "chợ
buôn bán những cánh tay trẻ" chính hiệu. "Khu vực kế bên
Porta Palazzo [Cổng Dinh Vua], Don Lemoyne viết, lúc nhúc
những kẻ buôn gánh bán bưng, những người bán diêm quẹt,
những kẻ đánh giày, những thợ cạo ống khói, những tên lao
công chuồng ngựa, những người phân phát các giấy tờ quảng
cáo, những tên mối lái các mặt hàng trong chợ, tất cả đều là
những đứa con nít đáng thương chạy ăn từng ngày, từng bữa".
Con cái của các gia đình nghèo, bản thân chúng cũng không có
việc làm, lùng sục bất cứ công việc nào, miễn là nó đem đến
cho chúng ít nhiều phương tiện nào đó để sống còn. Chúng là
những "sản phẩm" đầu tiên của sự qui tụ những người di dân từ
"vòng đai đen" đã vây bọc thành phố từ thuở nào tới giờ.
Người ta thấy chúng leo lên những dàn giáo thợ hồ, tìm một
chân làm trẻ sai vặt trong các cửa hàng, đi lang thang mà
miệng gào to những tiếng rao của những kẻ làm nghề cạo ống
khói. Người ta bắt gặp chúng chơi các trò ăn tiền tại các góc

15.5 Page 145

▲back to top
phố với vẻ mặt đanh lại và đầy kiên quyết của loại người sẵn
sàng làm tất cả mọi sự để giành lấy một chỗ đứng thoải mái
dưới ánh sáng mặt trời.
Nếu ta thử lại gần chúng, chúng sẽ lảng tránh, với vẻ vừa e dè
vừa miệt thị. Chúng không đến từ xóm Becchi, chúng không
tìm những mẩu chuyện vui, cũng không thèm những trò ảo
thuật. Chúng là những con "chó sói", những thú vật hoang dã
trong giấc mơ của ngài, tuy tận đáy những ánh mắt ấy ta ghi
nhận nhiều vẻ sợ hãi hơn là vẻ hung dữ.
Cuộc cách mạng công nghiệp
Bọn trẻ trên các con đường phố của Torino ấy đều là một
"thành quả biến chất" của các biến cố đã bắt đầu làm đảo lộn
thế giới: cuộc cách mạng công nghiệp.
Năm 1769, ở Glassgow bên Anh quốc, Jacques Watt đã xin cấp
bằng sáng chế cho "máy hơi nước". Bộ máy này, nhờ sử dụng
năng lượng tỏa ra từ sức nóng, phát động một cần gạt và các
đai chuyền. Chỉ duy một bộ máy của Watt (với một lực lên tới
100 sức ngựa) đã mở ra một lực tương đương với sức của 800
người hợp lại. Nhờ sử dụng máy này, một nhà máy sợi có thể
đạt năng suất bằng năng suất của 200,000 người. Để tiến hành
những nghề kéo sợi hoàn thành bởi cỗ máy này, chỉ cần 750
công nhân, chen vai sát cánh nhau trong một vài nhà xưởng.
Xưởng thợ và công nhân (còn được gọi là dân vô sản) bắt đầu
hiện hữu. Trước kia, dân chúng được chia ra thành nông dân,
thương gia và thợ thủ công. Trong số các thợ thủ công (những
lao động sử dụng các công cụ thuộc về mình, trong các xưởng
thợ của chính mình), người ta kể luôn những người thợ dệt
chuyên môn kéo sợi bông vải và len bằng cách dùng đôi cánh
tay của mình.

15.6 Page 146

▲back to top
Việc sản xuất được nhân gấp các công việc làm giảm đột ngột
giá cả các mặt hàng vải và phát triển thêm nhiều vải vóc trên
thị trường. Đồng thời, người ta ghi nhận một sự tăng vọt đáng
kể việc sử dụng sắt (cho việc sản xuất ra các máy móc, các
nghề, các đường xe lửa) và việc khai thác từ trong lòng đất
(thiết yếu cho động lực của máy hơi nước và cho việc luyện
thép).
Việc quy hoạch rộng rãi các tuyến đường xe lửa, các tàu bè
chạy bằng hơi nước và các phương tiện vận tải khác cũng diễn
ra trong thời kỳ này.
Cũng trong những năm ấy, nhờ những tiến bộ thắng lợi của y
khoa và khoa vệ sinh phòng chống những dịch bệnh gây tử
vong dữ nhất như bệnh dịch hạch và bệnh sởi, dân số châu Âu
tăng vọt khủng khiếp: từ 180 triệu trong năm 1800 lên thành
260 triệu vào năm 1850.
Sự phát triển ghê gớm của các cơ xưởng (tức là nền công
nghiệp) gây nên một cơn khủng hoảng cuộc sống của các công
nhân. Làn sóng những con người đi tìm kiếm việc làm từ nông
thôn ào ào kéo về các thành phố. Các xưởng thợ đều mang một
nét mặt đặc thù: đó là những trung tâm trong đó một lượng
đông đảo các lao động cùng hoàn thành một công việc dưới sự
lệ thuộc vào một ông chủ.
Bên Anh cũng bắt đầu nảy sinh những thành phố than, những
thành phố sắt, những thành phố công nghệ dệt. Đây là cuộc
cách mạng công nghiệp. Khai sinh từ Anh quốc, nó nhanh
chuyển qua Pháp, Đức, Bỉ, rồi qua châu Mỹ.
Theo sử gia Carlo M. Cipolla[1], đây là một trong số hai cuộc
đổi thay vĩ đại nhất đã xảy ra trong lịch sử loài người.
Cuộc đổi thay thứ nhất xẩy ra trong đêm tối của lịch sử. Những
con người là “một tổng thể được gắn kết với những đám thợ

15.7 Page 147

▲back to top
săn ít ỏi, hung dữ và xấu xa”. Với “cuộc cách mạng của đời
sống nông nghiệp”, con người biến thành những người trồng
tỉa và nuôi gia súc. “Giữa những người thợ săn của thời cổ và
những người canh tác đất đai với các dụng cụ tinh vi, có cả một
vực thẳm cách biệt,đó là sự cách biệt của cuộc sống man rợ với
cuộc sống của nền văn minh”. Sự thay đổi tận căn thứ nhất này
của lịch sử con người được phát triển trong dòng một ngàn
năm, con người ta có thời gian để thích nghi một cách tuần tự.
Cuộc cách mạng thứ hai, tức là cuộc cách mạng kỹ nghệ, “xâm
chiếm địa cầu, đảo lộn cuộc sống và cuốn trôi đi các cơ cấu của
tất cả các xã hội hiện hữu của con người trong vòng có 7 hay 8
thế hệ thôi (= đồng nghĩa với khoảng 150 năm hay 200 năm).
Tâm trí con người bị đặt trước các vấn đề mới “với một sự bức
bách đến chóng mặt”.
Sự tiến bộ lớn lao được cống hiến cho thế giới
Cuộc cách mạng công nghiệp mở ra những cánh cửa cho một
thế giới hoàn toàn mới, cho những nguồn năng lượng mới và
chưa từng được biết đến: than, dầu lửa, cốt mìn, điện, nguyên
tử.
Nhân loại phát triển với tốc độ của sự bùng nổ: 750 triệu người
trong năm 1750, một tỷ 200 triệu trong năm 1850 và hai tỷ rưỡi
vào năm 1950.
Sự thoải mái mà cuộc cách mạng công nghiệp phát huy, trước
đây chưa bao giờ đạt được.
Những đổi thay toàn diện và đầy công hiệu đang xẩy ra trong
các thói tục, các tư tưởng, các tín ngưỡng, trong việc giảng dạy,
gia đình. Những vấn đề hết sức lớn lao được đặt ra cho các thế
hệ mới. Chúng ta hãy nhớ lại, vẫn chỉ là sự tăng gia không
được kiểm soát về dân số, các võ khí luôn luôn gây tử vong

15.8 Page 148

▲back to top
nhiều hơn, sự phân hóa của Quốc gia truyền thống, nạn ô
nhiễm, việc gạt ra ngoài xã hội những người già nua tuổi tác.
Bất kể các vấn đề đã được đặt ra thế nào, cùng với cuộc cách
mạng công nghiệp. Nhân loại "đã thắng thiên nhiên trong một
mức độ rộng lớn, đã xóa bỏ các khoảng cách, đã bẻ gẫy rất
nhiều những trở ngại vật chất đã từng đặt điều kiện cho họ trải
qua suốt bao thiên niên kỷ". (Jacque Marrtina)
Cái giá khủng khiếp mà con người đã trả
Sự tiến bộ rộng lớn, nhất là trong một năm đầu, đã bắt con
người phải trả một giá khủng khiếp: "một thiểu số cực nhỏ
những người cực kỳ giàu có áp đặt một chế độ nô lệ đích thật
lên một cộng đồng vô cùng đông đảo những kẻ vô sản".
(Thông điệp Tân Sự - Rerum Novarum)
Trong thời đại mới của nhân loại đang đào sâu một "lỗ đen"
khổng lồ: vấn đề thợ thuyền. Tại các thành phố công nghiệp
mới đang hình thành một giai cấp mới, giai cấp những kẻ vô
sản, những kẻ chẳng có của cải nào khác hơn là những cánh tay
và những đứa con của họ. Những điều kiện mà trong đó những
kẻ vô sản sinh sống thật là khủng khiếp.
Năm 1850 (chúng tôi viện dẫn theo các cuộc điều tra của
Dolléans và Villermé), phân nửa dân số Anh quốc từ nay đã
phải sống chen chúc trong các trung tâm đô thị. "Nhà ở" của
các công nhân thông thường là những hầm rượu, trong đó cả
gia đình xúm nhau lại, không có khí trời, không có ánh sáng,
hôi rình do ẩm thấp và do những ống cống. Trong các xưởng
thợ, không có các biện pháp vệ sinh, không hề có một qui chế
hợp pháp nào, trừ qui chế do ông chủ đặt ra.
Đồng lương chết đói tuyệt nhiên không cho phép một chế độ ăn
uống đầy đủ. Bữa ăn thường lệ, là nồi canh rau sam. Sự phân
hóa của gia đình; sự leo thang của tật nghiện rượu, của nạn mãi

15.9 Page 149

▲back to top
dâm, của sự phạm pháp, sự tràn lan của các chứng bệnh mới lạ
gây ra bởi một số nghề hoặc bởi những điều kiện mà trong đó
họ hành nghề (bệnh ho lao, các chứng viên nhiễm đường hô
hấp…) đã thành những hiện tượng phổ biến.
Lao động trong các xưởng máy không chỉ có những người đàn
ông và những người đàn bà, mà còn cả những trẻ nhỏ mà cuộc
sống trở thành một cơn ác mộng. Một gia đình vô sản rất khó
mà sống còn được. Họ thậm chí chẳng có đồng nào để trả tiền
bác sĩ, tiền thuốc men, tiền quần áo. Một bản thống kê tiết lộ là
ở Nantes (Pháp) 66% trẻ em chết trước khi được 5 tuổi. Tuổi
thọ trung bình của một người thợ, trong những năm 1830 đến
1840, là mười bảy, mười chín. Chính là những năm mà trong
đó (chúng ta đã có nói tới) các công nhân ở Lyon và ở Paris nổi
loạn với những tiếng gào la: "Sống bằng lao động hoặc chết
trong chiến tranh!" và đã bị tan rã vì hàng loạt đại bác bắn xối
xả.
Thảm cảnh của các trẻ em vô tội ở Ý
Bên Ý, cuộc cách mạng công nghiệp đến trễ, do thiếu vốn và
thiếu nguyên liệu. Các xí nghiệp tơ sợi đầu tiên đã biến thành
những xưởng máy ở Lombardia-Vénétie thuộc Áo (nhà máy
kéo sợi len Rossi ở Schio năm 1817, Mazotto ở Valdagno năm
1836). Nền công nghiệp cơ khí bắt đầu ở Milan vào năm 1846.
Sự phát triển công nghiệp diễn ra rất chậm và đầy khó khăn.
Về đời sống trong các xí nghiệp tơ sợi ở Lombardia, Rudolphe
Morand đã viết: "Tại các nhà máy kéo tơ tằm, những xí nghiệp
lớn chiếm từ 100 đến 200 người, người ta sử dụng đại đa số là
trẻ em. Các công đoạn được giao cho chúng mang nặng tính
máy móc đến nỗi chỉ sau ít lâu bọn trẻ đáng thương ấy đã thành
ngớ ngẩn như những kẻ mất hồn hoặc như những người mắc
bệnh tâm thần. Công việc kéo dài liên tục 13 giờ/ngày trong
mùa đông và suốt 15 tiếng hoặc 16 tiếng/ngày trong mùa hè.

15.10 Page 150

▲back to top
Trong các máy kéo sợi được kéo nhờ sức nước, công việc đôi
khi bị gián đoạn và bọn trẻ đáng thương lại phải "tranh thủ làm
đêm". Môi trường lao động ẩm ướt và độc hại, việc thức khuya
dậy sớm, sự ở lâu trong những tư thế vất vả thường gây nên,
theo chứng từ của y sĩ thuộc khu vực công nghiệp, sự chai
cứng các hạch, chứng ngạnh kết, bệnh tràng nhạc, bệnh sở,
những u bướu lạnh. Hơn 15,000 trẻ em, tại xứ Lombardia, đã
chết như vậy ở lứa tuổi măng non.
Tại Torino, năm 1841, cuộc cách mạng công nghiệp đã đến
như một hệ quả gián tiếp của tình thế.
Thành phố phát triển mau lẹ. Trong những năm 1838 - 1848,
dân số từ 117,000 chuyển thành 137,000: một sự gia tăng 17%.
Trong thập niên ấy, 700 hộ gia đình mới. Nhịp độ của làn sóng
di dân vẫn được duy trì. Nó đạt đến đỉnh cao trong hai năm
1849 - 1850 khi người ta nói đến 50,000 dân di trú, nếu không
phải là 100,000.
Những gia đình nghèo, hoặc những thanh thiếu niên đơn độc
kéo đến từ thung lũng Sesia, từ các thung lũng thuộc các xứ
Lanzo, Montferrat, Lombardia. Trên các Quảng Trường xây
dựng, phụ việc cho các thợ hồ, suốt ngày ở trên những dàn giáo
hiểm nghèo, phơi mình ngoài nắng, ngoài gió, leo trèo trên
những cây thanh ngay đơ, mang nặng nào gạch, nào vôi, chẳng
được hưởng sự giáo dục nào khác ngoài những ngược đãi thô
lỗ và những cú đánh đập".
Các gia đình thợ thuyền, tối đến, "leo lên những kho chứa đồ
cũ". Đây là những chỗ ở duy nhất mà tiền trọ là có thể chấp
nhận được đối với đồng lương của các công nhân. Don Bosco
đã leo lên để nhìn qua những căn phòng nằm sát mái nhà ấy và
thấy chúng đều "thấp lè tè, chật hẹp, buồn thiu và dơ dáy.
Chúng được dùng vừa làm phòng ngủ, vừa làm nhà bếp và đôi

16 Pages 151-160

▲back to top

16.1 Page 151

▲back to top
khi là cả xưởng làm việc cho mọi lao động bất kể trẻ, già, trai,
gái trong các hộ gia đình.
Việc tính sổ
Từng đoàn, từng nhóm thanh niên đi lang thang, nhất là ngày
Chúa nhật, trên các đường phố và dọc theo hai bờ sông Pô.
Chúng đưa mắt nhìn những con người "thơm phức và tươi rói"
đi ngang, dửng dưng trước nỗi cơ cực của chúng.
Don Bosco tính sổ thật lẹ. Bọn trẻ ấy cần có một mái trường và
một công việc nhằm chuẩn bị cho chúng một tương lai ổn định
hơn; chúng cần được sống chính cuộc sống tốt lành của các
người trẻ, nghĩa là cần thỏa mãn khát vọng của mình là được
chạy và nhảy trên những khoảng xanh rì, mà khỏi phải ở lỳ một
chỗ để ủ rũ đợi chờ trên các hè phố; chúng cần được gặp gỡ
Thiên Chúa ngõ hầu khám phá ra và biểu hiện nhân phẩm của
mình.
Ngài không phải là người đầu tiên cũng chẳng phải là người
duy nhất đã rút ra những kết luận đại loại như vậy. Yêu cầu
bức thiết phải giúp đỡ quản đại quần chúng, giữa lúc ấy, cũng
chính là cảm tưởng của chính Carlo Alberto.
Nhà vua đã đặc biệt bận tâm vì "cuộc cách mạng khác" đang ở
đâu đó trong không trung, cuộc cách mạng chính trị, sẽ bất thần
nổ ra vào khoảng cuối năm 1847 sang đầu năm 1848.
Trong khi vẫn để mắt ngó chừng nước Áo (kẻ thù sẵn sàng
nhượng bộ hoàn toàn với phe tự do), ông thận trọng chuyển từ
các tư thế chuyên chế sang những dòng chảy ôn hòa nhất của
phe tự do. Ông bắt liên lạc với Massimo d'Azelio, Cesare
Ballo, Giacomo Durando. Quy trình lâu dài này sẽ đưa ông đến
chỗ trở thành người ủng hộ cuộc Risorgimento đầu tiên.

16.2 Page 152

▲back to top
Nhưng nhà vua cũng còn bận tâm đến các điều kiện xã hội
trong Vương quốc của mình; ông tán trợ bất luận ý kiến nào
liên quan đến vấn đề từ thiện và bình dân học vụ.
Các linh mục và các nhà chính trị cũng chia rẽ nhau. Vào thời
đại này, tùy theo xu hướng của họ là thuận hay chống lại các
quan niệm của phe tự do. Nhưng họ đều kề vai sát cánh với
nhau trên cùng một trận tuyến chống lại nỗi cơ cực cả về vật
chất lẫn tinh thần của dân chúng. Những năm ấy, Torino đã
thấy đột nhiên xuất hiện hàng loạt những trường học bình dân
dành cho các công nhân.
Ngược lại chính vấn đề thanh thiếu niên là cái khiến Don
Bosco tập trung mọi nỗ lực của ngài. Don Cafasso nhận xét
thấy vậy và quyết định đốc thúc ngài xốc tới hết ga.

16.3 Page 153

▲back to top
Chương 16
"CON TÊN LÀ BARTHELÉMY GARELLI"
Dân chúng ở Torino gọi Don Cafasso là "vị linh mục của giá
treo cổ". Ngài thường đi xuống từng phòng giam tại các nhà tù
để ủy lạo các tù nhân. Nếu có người nào bị kết án tử hình, ngài
liền cùng anh ta leo lên xe bò và động viên anh ta cho tới tận
địa điểm hành quyết.
Vào thới ấy, có bốn nhà tù tại Torino: hai cho đàn ông, hai cho
đàn bà.
Vào lúc sắp khởi hành một trong những chuyến viếng thăm
theo thông lệ, Don Cafasso đã rủ Don Bosco đi theo mình.
Những hành lang âm u, những vách tường tối thui và ẩm ướt,
bộ mặt ủ rũ và tái nhợt của các tù nhân khiến Don Bosco cảm
thấy bồi hồi xao xuyến. Trái tim ngài thổn thức trong lồng
ngực và ngài có cảm giác như ngộp thở.
Những đứa trẻ đằng sau các song sắt.
Nhưng điều khiến ngài khổ tâm hơn cả, đó là cảnh tượng bọn
trẻ đằng sau các song sắt. Ngài viết: "Thấy một số đông các trẻ
em từ mười hai đến mười tám tuổi, tất cả đều dồi dào sức khỏe,
lực lưỡng, vẻ mặt thông minh; thấy chúng ở trong đó, chẳng có
gì làm, bị cắn xé bởi chấy rận, thiếu cả của ăn vật chất lẫn của
ăn tinh thần, điều ấy khiến tôi ghê sợ".
Ngài còn trở lại đó nhiều lần, với Don Cafasso và cả đi một
mình nữa. Ngài tìm cách bắt chuyện với chúng, không chỉ theo
kiểu "dạy giáo lý" (dưới sự giám sát của các cai tù) mà là một
cách hết sức đơn sơ. Buổi đầu, các phản ứng rất là gay gắt,
nhưng rồi dần dần, đứa này hoặc đứa khác đã tỏ ra bớt e dè và
cuộc đối thoại đã trở nên hữu nghị hơn.

16.4 Page 154

▲back to top
Bằng cách ấy, ngài đã biết được chuyện đời bạc phước của
chúng, sự đồi trụy của chúng, cơn điên khùng đã từng bước
biến chúng thành hung dữ. "Tội" thông thường hơn cả là trộm
cắp: vì đói, và cũng vì oán hận đối với những kẻ giàu đã khai
thác công việc của chúng và bỏ mặc chúng trong cảnh cơ cực.
Chúng được nuôi sống bằng bánh mì và nước lã. Chúng phải
miễn cưỡng vâng lời những tên cai tù, là những kẻ vốn khiếp
sợ chúng nhưng lại tìm đủ mọi cớ để đánh đập chúng.
Người ta giam chúng trong những xà lim tập thể mà ở đó
những tên ác ôn côn đồ hơn cả lại biến chúng thành những "đại
ca", những ông chủ tuyệt đối.
"Điều khiến tôi cảm kích nhất, Don Bosco viết, đó là rất nhiều
em, khi ra khỏi tù, đã quyết tâm thay đổi cuộc sống, theo
hướng tốt hơn", dù chỉ là vì sợ hãi cảnh tù đày, "nhưng rồi sau
đó ít lâu, ngựa quen đường cũ, rốt cuộc chúng lại bị bắt giam
vào đó như trước".
Ngài cố tìm hiểu lý do và đã kết luận: "Đó là vì chúng đã bị bỏ
rơi một mình, tứ cố vô thân. Chúng không có gia đình hoặc cha
mẹ họ hàng đều hắt hủi chúng bởi lẽ ngục tù đã làm chúng ô
danh cho đến muôn đời".
"Tôi đã tự nhủ trong lòng: lẽ ra bọn trẻ ấy phải tìm được ở bên
ngoài một người bạn nào đó chăm lo cho chúng, hỗ trợ chúng,
dạy dỗ chúng, dẫn chúng đến nhà thờ trong các ngày lễ. Được
như vậy, chúng sẽ không còn bị ngồi tù trở lại nữa".
Ngày này qua ngày khác, ngài đã kết thân được với vài đứa.
Các "bài học giáo lý sau song sắt" của ngài đã được nghe một
cách tự nguyện hơn. "Tôi càng cho chúng hiểu thế nào là nhân
phẩm, ngài viết, chúng càng cảm thấy vui thỏa trong lòng và
càng kiên quyết trở nên tốt hơn”.

16.5 Page 155

▲back to top
Nhưng rất thường, khi ngài trở lại, tất cả đều đổ vỡ tan hoang.
Những gương mặt lại ra vẻ cau có, những giọng nói móc mỉa,
lầm bầm những câu chửi thề. Don Bosco không phải lúc nào
cũng tái thiết được những gì đã đổ vỡ. Một hôm ngài đã bật
khóc; khoảnh khắc lưỡng lự. Ai đó lên tiếng hỏi:
- Tại sao vị linh mục đó lại khóc?
- Tại cha ấy yêu thương bọn mình. Mẹ tớ có thể cũng sẽ khóc
nếu bà thấy tớ ở trong này.
Don Bosco quyết định, trong khi các cha xứ thì chờ đợi
Khi ra ngoài, Don Bosco đã đưa ra một quyết định không gì lay
chuyển được: "Với bất cứ giá nào, phải ngăn chặn không để
cho những trẻ em còn quá nhỏ dại như vậy bị tàn đời trong
chốn ngục tù. Tôi muốn là người giải cứu cho lớp trẻ ấy".
"Tôi đã bày tỏ quyết định này với Don Cafasso, ngài viết, và
theo lời khuyên của ngài tôi đã ra sức phấn đấu thể hiện nó
trong thực tế".
Có những linh mục khác, ở Torino, cũng đang tìm những đáp
án cho các vấn đề của giới trẻ và đang đi theo những hướng
khác nhau.
Tại Torino có tất cả 14 giáo xứ trong thành phố và hai giáo xứ
tại vùng phụ cận. Các cha xứ cảm nhận vấn đề của các thanh
thiếu niên, nhưng họ đang chờ đợi chúng tại các phòng mặc áo
hay trong các nhà thờ, để dạy giáo lý cho chúng vào buổi
chiều, vào Chúa Nhật, hay trong mùa chay. Các ngài tiếc nuối
“các thời tươi đẹp” trong đó các em di dân tới Torino với thư
gửi gắm của cha xứ gốc của chúng cho cha xứ bạn tại thành thị.
Họ không nhận ra rằng dưới những đợt sóng của sự tăng
trưởng của dân chúng, những khung sống và hoạt động đang
phải chịu sự biến đổi, những thời kỳ “tươi đẹp quá khứ” sẽ
không trở lại nữa đâu.

16.6 Page 156

▲back to top
Cần phải sáng tạo ra những khung hoạt động mới, những con
đường mới. Những vị cha phó xứ vẫn đang còn tiếp tục cử
hành các tang lễ và việc rửa tội, phải biết thử nghiệm một hoạt
động tông đồ khi đi lại thoăn thoắt giữa các xưởng thợ, các văn
phòng, và các khu thương mại.
Tại Milan, nơi các cuộc cách mạng kỹ nghệ đã trở nên mạnh
mẽ từ nhiều năm nay, vấn đề thanh thiếu niên lang thang hè
phố đã được đương đầu. Kể từ đó người ta có thể thấy mạng
lưới những viện giáo dục thích đáng đối với các thời đại: các
“Nguyện Xá”. Trong năm 1850, niên giám giáo phận Milan kể
ra có tới 15 Nguyện Xá, có vài Nguyện Xá có cả mạng lưới các
viện được thích ứng với thời đại
Kinh nghiệm của cha Cocchi
Vị đầu tiên là Don Cocchi, một linh mục tích cực đến từ tỉnh
lẻ, từ Druent. Cha đã thụ phong linh mục năm 1836, đang khi
Don Bosco kết thúc năm triết thứ nhất của mình ở chủng viện.
Tại Moschino, một địa phương vốn nổi tiếng là cực kỳ nghèo
khổ và hẻo lánh thuộc thị trấn Vanchiglires, ngài đã thành lập
vào năm 1841, Nguyện Xá đầu tiên của kinh thành Torino
(ngài đã có thử vào năm 1840) và ngài đã đặt nó dưới sự bảo
trợ của Thiên thần Bản mệnh. Trong khu giáo xứ Đức Mẹ
Truyền Tin, gần sông Pô.
Don Cocchi là một linh mục có thiên tài và nhạy bén, với
những ý tưởng tỏa sáng và những cái gật đầu của một con
người khởi xướng, nhưng không có sự bền bỉ và cái nhìn dài
lâu của một con người thực hiện. Và ngài có các ý tưởng tự do,
đảm nhận những thái độ đối đầu trước đường nét chính trị của
Đức Tổng Giám Mục của ngài và của Đức Thánh Cha. Điều đó
khiến người ta “e ngại” ngài, ngay cả cho dù ngài có một đức
ái năng động đánh thức sự bất động của biết bao các vị giáo sĩ
khác.

16.7 Page 157

▲back to top
Trong thời gian giữa 1849 - 1850, cha Cocchi hoạt động giữa
những người sinh động hóa “các Hiệp hội Bác ái ủng hộ các
trẻ mồ côi và bị bỏ rơi”, và sau đó trong các “Trường Trung
học Thợ”, Nguyện Xá Thánh Martinô, “Trung tâm Canh nông”
tại Moncucco, luôn luôn ủng hộ giới trẻ và các tầng lớp khổ sở.
Những linh mục khác, cùng với cha Cocchi, cũng đồng dấn
thân vào công việc mục vụ giữa giới trẻ. Họ là những linh mục
“tự do” khỏi các bổn phận tại các giáo xứ. Nhiều vị đã học hay
đang học tại Học Viện Giáo Sĩ của cha Cafasso, và kết bạn với
nhau trong kinh nghiệm sinh động mà họ cùng chung đương
đầu.
Chính cha Cafasso – như Don Bosco ghi nhớ lại – “từ nhiều
năm qua, trong thời gian nghỉ hè, vào các Chúa Nhật, đã dạy
giáo lý cho các bạn trẻ thợ xây tại một căn phòng nhỏ gần bên
nhà mặc áo của nhà thờ thánh Phanxicô Assisi. Tuy nhiên sự
nghiêm trọng của các mối quan tâm tới đức tin đã buộc ngài
phải ngưng một hoạt động rất thiết thân với ngài”.
Cả ngày Don Bosco, như chúng ta đã nói, khi vừa mới bước
vào Học viện Giáo sĩ, đã bắt đầu đi thăm các trẻ ở ngoài hè
phố. Ngài đã gặp những đám trẻ e ngại và thù địch với ngài,
nhưng cũng có các trẻ rất thương mến ngài. “Cha đã gặp gỡ cả
một đoàn lũ các bạn trẻ đi theo tôi trên các đường phố, các
Quảng Trường, và tại chính phòng áo của nhà thờ Học viện
Giáo sĩ”.
Cha Cafasso muốn phó thác việc tiếp tục lớp giáo lý dạy các
bạn trẻ của ngài cho Don Bosco, nhưng sau cái kinh nghiệm bi
đát về thể xác lẫn tinh thần ở nhà tù khiến Don Bosco nghĩ đến
một cái gì đó có sức bền chặt hơn.
Don Bosco muốn thực hiện – như ngài đã nói với cha Cafasso -
một trung tâm mà tại đó những trẻ em nào bị gia đình bỏ rơi sẽ
tìm được một người bạn, hoặc tại đó những đứa nào trong bọn

16.8 Page 158

▲back to top
chúng ra khỏi nhà tù, biết rằng mình sẽ có một sự cứu giúp và
một sự nâng đỡ. Một trung tâm không chỉ hoạt động ngày Chúa
nhật để dạy giáo lý, mà còn sẽ kéo dài cả tuần bằng tình bạn, sự
hỗ trợ, những cuộc gặp gỡ ngay tại nơi làm việc.
Một kinh Kính Mừng để khởi sự
Buổi đầu rụt rè của công trình ấy (chưa gì đã chứa đựng tất cả
tính độc đáo của Nguyện Xá của Don Bosco) đã diễn ra vào
buổi sáng ngày 8-12-1841. Cũng trong năm mà Don Cocchi đã
thành lập Nguyện Xá đầu tiên, tại Torino, ba mươi lăm ngày
sau khi Don Bosco đến Học viện Giáo sĩ.
Chính ngài đã kể lại vụ việc với sự tế nhị và đơn sơ của một bài
cổ văn:
"Ngày lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, lúc ấy tôi đang mặc áo lễ để cử
hành thánh lễ. Thầy phục vụ phòng áo, Giuseppe Comotti, thấy
một đứa bé trong góc nhà, liền bảo nó ra giúp lễ cho tôi.
- Con không biết, nó lúng túng trả lời.
- Lại đây nào, thầy nói tiếp. Thầy muốn em giúp lễ mà.
- Em không biết, đứa bé lặp lại, em có giúp lễ bao giờ đâu.
- Ngu ơi là ngu! Thầy coi phòng áo tức giận la. Nếu mày không
biết giúp lễ thì mày mò vào phòng áo làm gì chứ? Miệng nói,
tay thầy lăm lăm cây chổi lông gà và quất túi bụi lên lưng và
lên đầu thằng bé xấu số đang ra sức vùng vẫy để mong thoát
thân.
Tôi lên tiếng phản đối:
- Thầy làm gì vậy. Sao thầy lại đánh nó?
- Vì nó mò vào phòng áo mà lại không biết giúp lễ.
- Thầy đã hành động sai quấy rồi đó.

16.9 Page 159

▲back to top
- Việc ấy có mắc mớ gì tới cha đâu?
- Đó là một người bạn của tôi. Thầy hãy lập tức đi kiếm nó. Tôi
cần nói chuyện với nó.
Thằng bé trở lại, đầy vẻ bẽn lẽn. Nó có mái tóc hớt ngắn, chiếc
áo lốm đốm những vết vôi. Đó là thằng bé di dân. Có lẽ những
người thân trong gia đình đã bảo nó: "Chừng nào mày tới
Torino rồi, hãy đi giúp lễ". Nó đã đến nhưng không dám vào
nhà thờ giữa các tín hữu ăn mặc đẹp, chỉnh tề. Nó đã thử vào
qua ngả phòng áo, như những người đàn ông và các thanh niên
vẫn quen làm tại nhiều ngôi làng ở nông thôn.
Tôi hỏi nó với giọng ngọt ngào:
- Con đã dự lễ rồi chứ?
- Chưa.
- Vậy hãy vào dự lễ đi. Sau đó cha cần bàn với con về một
công việc mà chắc sẽ làm con thích thú.
Nó hứa với tôi như vậy. Làm lễ xong và sau khi đọc kinh cám
ơn, tôi dẫn nó vào một cái sân nhỏ và mỉm cười hỏi nó:
- Anh bạn tên là gì nhỉ?
- Barthelémy Garelli
- Con quê ở đâu?
- Ở Asti.
- Con làm nghề gì?
- Thợ hồ.
- Cha con còn sống chứ?
- Không, ổng chết rồi?

16.10 Page 160

▲back to top
- Thế còn mẹ con?
- Bả cũng chết rồi.
- Con bao nhiêu tuổi?
-Mười sáu trăng tròn.
- Con biết đọc, biết viết chứ?
- Không.
- Con biết hát chứ?
Thằng bé dụi mắt, nhìn tôi trân trối và nói:
- Không.
- Con biết huýt gió chứ?
Barthelémy bật cười. Đó chính là cái tôi cần. Chúng tôi đã bắt
đầu là bạn của nhau.
- Con đã rước lễ lần đầu rồi chứ?
- Chưa.
- Con đã xưng tội rồi chứ?
- Rồi, hồi con còn nhỏ.
- Con có đi học giáo lý không?
- Con không dám, bọn nhóc nhỏ hơn con chúng chọc quê
con…
- Nếu cha mở lớp giáo lý dạy riêng mình con thì con sẽ đến
chứ?
- Rất sẵn lòng.
- Ngay tại đây, được chứ?

17 Pages 161-170

▲back to top

17.1 Page 161

▲back to top
- Với điều kiện là không có ai quýnh con.
- Yên chí đi, bây giờ con đã là bạn của cha và sẽ không một ai
dám đụng tới con nữa. Con muốn bao giờ thì chúng ta bắt đầu?
- Bao giờ cha muốn.
- Ngay bây giờ nhé?
- Rất vui lòng.
Don Bosco quỳ gối và đọc một kinh Kính Mừng. Bốn mươi
lăm năm sau, với các tu sĩ Salêdiêng của mình, ngài sẽ nói:
"Tất cả mọi ơn lành đã từ trời rơi xuống cho chúng ta đều là kết
quả của kinh Kính Mừng đầu tiên ấy, được đọc với lòng sốt
sắng và với ý chỉ ngay lành".
Sau kinh Kính Mừng, Don Bosco làm Dấu Thánh giá trước khi
bắt đầu, nhưng nhận thấy Barthelémy không làm dấu, hay ít ra
là một thao tác quờ quạng tương tự như một Dấu Thánh giá.
Thế là, dịu dàng, ngài liền dạy nó phải làm Dấu Thánh giá ra
sao. Rồi ngài giảng giải cho nó bằng tiếng địa phương (cả hai
đều quê ở Asti) tại sao người ta gọi Thiên Chúa là "Cha". Cuối
cùng, ngài bảo nó:
- Cha muốn con trở lại vào Chúa nhật sau, nghe Barthelémy.
- Rất vui lòng.
- Nhưng con đừng đến một mình. Hãy dẫn theo bạn bè cùng
đến cho đông vui.
Barthelémy Garelli, một chú bé thợ hồ quê ở Asti, đã là đại sứ
đầu tiên của Don Bosco giữa các lao động trẻ trong khu phố
của nó. Nó kể lại cho chúng cuộc gặp gỡ của mình với vị linh
mục dễ gây cảm tình "cũng biết huýt gió như ai", và chuyển lời
mời của ngài đến bọn chúng.

17.2 Page 162

▲back to top
Bốn hôm sau là ngày Chúa nhật. Bọn chúng gồm chín đứa kéo
nhau vào phòng áo. Chúng không đến "nhà thờ Thánh
Phanxicô khó khăn", chúng đến "kiếm Don Bosco". Nguyện
Xá đầu tiên đã được khai sinh.
Ngay bây giờ nhé: Đó là một lời đánh dấu cả một hành trình
Trong cuộc đối thoại với Barthelémy Garelli, có từ Ngay Bây
Giờ (tiếng Ý có nghĩa là "ngay tức khắc"). Đây có vẻ là từ cũng
giống như trăm ngàn từ khác, nhưng đây lại là một hạt giống;
nếu bạn gieo nó, nó sẽ mọc lên cho bạn một cái cây.
Với thời ấy (1841), Ngay Bây Giờ là khẩu hiệu của một nhóm
linh mục ở Torino. Trong cơn hoang mang của cuộc cách mạng
công nghiệp lớn nhất, trong tình trạng không sao tìm được
những phương án và Chương trình hành động có sẵn, các linh
mục ấy đã dồn tất cả năng lực của mình nhằm tiến hành "ngay
bây giờ" một việc gì đó cho các trẻ em nghèo, cho những kẻ
xấu số.
Nhưng từ “ngay bây giờ” ấy sẽ vẫn tiếp tục, một cách đặc biệt,
là ấn chứng của Don Bosco, rồi của các tu sĩ Salêdiêng của
ngài, những vị sẽ được đào tạo chuyên môn như những người
chuyên "can thiệp cấp kỳ" vào đám dân nghèo.
Chúng tôi sẽ nói, trong những trang sắp tới, về Don Bosco và
về vấn đề xã hội. Nhưng chúng tôi muốn nói ngay từ bây giờ là
Don Bosco đã "bị thúc đẩy phải hành động"ra sao do yêu cầu
bức thiết của tình thế, do sự bất khả đợi chờ.
Cần phải "làm việc gì đó ngay tức khắc", Ngay Bây Giờ, bởi lẽ
các trẻ em nghèo đâu có được hưởng những món hàng xa xỉ
phẩm là ngồi đợi chờ những cải tổ, những kế hoạch có tổ chức,
những đổi thay về cơ chế. Đã hẳn, từ Ngay Bây Giờ thôi vẫn
chưa đủ. "Nếu bạn gặp ai đó sắp chết đói, thay vì cho người ấy
con cá, hãy dạy người ấy cách câu cá". Điều này rất đúng,

17.3 Page 163

▲back to top
nhưng mặt trái của câu này cũng đúng luôn. "Nếu bạn gặp ai đó
sắp chết đói, hãy cho người ấy một con cá để người ấy có đủ
thời gian học cách câu cá". Từ Ngay Bây Giờ thôi vẫn chưa đủ,
sự can thiệp khẩn trương cũng vậy luôn, nhưng "chuẩn bị một
tương lai khác" nào có ích chi, nếu như, trong khi chờ đợi,
những kẻ nghèo lăn ra chết vì đói.
Don Bosco và các tu sĩ Salêdiêng tiên khởi của ngài nhằm
hướng Ngay Bây Giờ mà tiến tới, nhắm vào sự can thiệp cấp
kỳ. Các ngài sẽ cung cấp cho các trẻ em nghèo nào giáo lý, nào
bánh ăn, nào việc dạy nghề, nào một cái nghề được bảo vệ bởi
một hợp đồng có việc làm béo bở. Và các ngài chỉ mong sao
cho những người Công giáo khác, nhằm cạnh tranh với những
người theo chủ nghĩa xã hội, những người Cộng sản, những kẻ
vô chính phủ, sẽ chuẩn bị những phương án để tấn công và để
tiến hóa cái quốc gia tự do vốn giả nhân giả nghĩa, luôn làm
ngơ trước những tranh chấp trong công việc làm ăn, nghĩa là để
mặc cho những kẻ mạnh trở thành những kẻ có toàn quyền còn
những kẻ yếu thì bị chà đạp, bị bóc lột tận xương tủy.

17.4 Page 164

▲back to top
Chương 17
NGUYỆN XÁ CỦA CÁC CHÚ BÉ THỢ HỒ
Trên tòa giảng trong nhà thờ Thánh Phanxicô khó khăn, một
linh mục trẻ đang say sưa thuyết giáo. Kế bên một bàn thờ phụ,
ngồi trên những bậc tam cấp của vòng rào vây quanh gian dành
cho ca đoàn, mấy chú bé thợ hồ đang thiu thiu ngủ, đứa nọ gục
đầu lên vai đứa kia.
Don Bosco băng ngang nhà thờ và đụng vào đứa đầu tiên. Cả
bọn choàng tỉnh, bối rối. Ngài mỉm cười và khẽ hỏi:
- "Sao các con lại ngủ gục?
- Tụi con chẳng hiểu gì cả, đứa lớn nhất cằn nhằn.
- Dù sao đi nữa, dứt khoát là vị linh mục ấy không cố ý giảng
cho bọn con, đứa ngồi kế bên tiếp lời bạn.
- Các con hãy đến với cha.
Nhón gót, ngài dẫn chúng vào phòng áo. "Đó là Carlo Buzzetti,
là Giovanni Garibaldi, là Germano", Don Bosco đầy cảm kích
kể lại cho các tu sĩ Salêdiêng tiên khởi của ngài. Những chú
thợ hồ nhỏ bé của vùng Lombarđi mà trong suốt 30 năm, 40
năm chúng luôn có mặt bên cạnh ngài, và tất cả những ai ở
Valdocco đều biết chúng. “Khi ấy chúng chỉ là những chú thợ
hồ nhỏ bé, bây giờ chúng đã là các ông chủ, ông thầy thợ xây
rồi”[2].
Đến phòng áo còn có cả Barthelémy Garelli và bạn bè của nó.
"Quân số tăng dần". Don Bosco giúp chúng cầu nguyện, nói
với chúng một lời cổ võ thích hợp, sống động dưới hình thức
một cuộc đối thoại với những sự kiện và những tin tức mới lạ.
Rồi chúng đến ngự trên các băng ghế bên trong nhà thờ để dự
thánh lễ do Don Bosco cử hành. Nhưng buổi sáng quá dài, sau
thánh lễ và ổ bánh nhỏ của bữa điểm tâm, bọn trẻ lại thèm

17.5 Page 165

▲back to top
được nô đùa. Chúng bắt đầu bằng cách chạy lòng vòng trên
mảnh sân nằm trong khuôn viên Học viện Giáo sĩ.
Những mẫu ảnh nhỏ, và cả những ổ bánh nhỏ
Don Bosco, những ngày đẹp trời, thường dẫn bọn trẻ dạo chơi
vào buổi chiều, trên đồi, dọc theo hai bờ sông, đến các Thánh
đường dâng kính Đức Mẹ.
Ngài đã dự tính suốt mùa đông đầu tiên ấy, chỉ tiếp nhận những
trẻ em "gặp nguy hiểm nhiều hơn cả, và nhất là những đứa vừa
ra tù". Nhưng, suốt quá trình cuộc sống của ngài, Don Bosco sẽ
không bao giờ nỡ lòng nào đuổi xua một đứa trẻ đã ngỏ lời xin
được ở lại với ngài. Sau một thời gian rất ngắn, "nhóm" của
ngài đã được hình thành, một phần lớn bởi "những thợ đẽo đá,
thợ hồ, thợ tô đường giả cẩm thạch, thợ lát đá hè phố" đến từ
những miền xa xôi và vì những lý do khác nhau, không thể
quay về nhà trong mùa thất nghiệp.
Don Guala và Don Cafasso giải tội cho bọn trẻ, đến trò chuyện
với chúng, giúp đỡ chúng.
Don Bosco viết, có phần hơi bối rối: "Người ta sẵn sàng cho tôi
những mẫu ảnh, giấy tập, những cuốn sách nhỏ, những ảnh
đeo, những cây Thánh Giá nhỏ để tôi phân phát lại cho chúng.
Nhưng các chú bé thợ hồ và các cựu tù nhân, có những yêu cầu
còn khẩn trương hơn cả giấy tập và những mẫu ảnh đeo. Ngài
lưu ý họ điều đó, và người ta cung cấp cho tôi những phương
tiện để may mặc cho những đứa cần kíp hơn cả, lương thực cho
những đứa khác đủ dùng trong nhiều tuần lễ, ít nhất là tới khi
chúng có thể tự lực kiếm ăn bằng chính việc làm của mình.
Tìm việc cho những đứa thất nghiệp, tranh thủ được những
điều kiện tốt hơn cho những đứa đã được tuyển dụng, trở thành
công việc liên tục của Don Bosco trong suốt tuần lễ. "Tôi đến
thăm chúng ngay tại hiện trường mà chúng công tác, trong các

17.6 Page 166

▲back to top
xưởng thợ và trên các Quảng Trường. Bọn trẻ của tôi tỏ ra hết
sức mừng rỡ khi thấy một người bạn chăm lo cho chúng, điều
này cũng làm hài lòng các ông chủ của chúng, khiến họ sẵn
sàng nhận đùm bọc bọn trẻ, được hỗ trợ suốt tuần và trong các
ngày lễ.
Những đứa "ra tù" đặt ra vấn đề tế nhị hơn cả. Ngài phấn đấu
"kiếm việc làm cho từng đứa một nơi một ông chủ đàng hoàng
tử tế" và ngài đến "gặp chúng lai rai trong tuần". Kết quả rất
khả quan: "Chúng đã tập cho quen với nếp sống bình thường,
đã quên đi quá khứ, đã trở nên những người Kitô hữu tốt và
những công nhân lương thiện". (Bộ hồi sử, trang 127)
Thứ bảy nào Don Bosco cũng trở lại trong các khám đường để
tiếp tục việc tông đồ khó khăn nhất của mình. "Tôi đến trong
các trại giam với những túi đựng đầy thuốc lá, hoặc trái cây,
hoặc những ổ bánh nhỏ. Bao giờ cũng nhằm mục đích cứu giúp
các trẻ em đã sa cơ thất thế lọt vào đó, để biến chúng thành bạn
của mình và để làm chúng thèm được đến Nguyện Xá khi
chúng sẽ được ra tù".
Mười hai cung nhạc Kính Đức Mẹ
Ngày 2 tháng Hai 1842. Đó là ngày lễ Đức mẹ Dâng Chúa
Giêsu tại Đền Thờ (vào thời đó là lễ buộc), Don Bosco đã dạy
cho 25 đứa trẻ đó hát. Don Bosco đã viết rằng: “Thiếu âm
nhạc, các cuộc họp mặt ngày lễ của chúng ta sẽ giống như một
thân thể không có linh hồn”. Lũ trẻ hát và gào thét trên những
nẻo đường đồi núi, nhưng chúng cũng được học hát xướng
cách nhịp nhàng một bài ca kính Đức Mẹ có tên là “Kính
Mừng đức Bà Maria” (Lodate Maria).
Bài ca ngắn ngủi đó (gồm có 12 nốt nhạc) đã lượn từ Nguyện
Xá này sang Nguyện Xá khác, từ trường Salêdiêng này sang
trường Salêdiêng khác, và cho đến hôm nay (1979) vẫn còn

17.7 Page 167

▲back to top
được các trẻ hát lên tại Khasi bên Bắc Ấn Độ, giữa các căn nhà
ọp ẹp của các khu ngoại ô tồi tàn của Brasil và Colombia.
Sự thành công rất khiêm cung của Don Bosco về âm nhạc đó
sau này còn dẫn đến biết bao thành công và âm vang về âm
nhạc Salêdiêng trên khắp thế giới, thứ nhạc hào hứng của tuổi
trẻ!
Thằng bé đến từ xứ Caronno
Mùa xuân, các chú bé thợ hồ đã lên đường về nhà mình trong
mùa thất nghiệp, nay lại trở lại Torino. Nhóm của Don Bosco
tăng dần từng Chúa nhật. Có cả Giuse Buzzetti, em trai của
Carlo đến từ Caronno Ghiringhello (nay là Caronno Varesino),
một xứ thuộc tỉnh Milan. Em bé này mới lên mười. Nó quấn
quýt bên Don Bosco không khác gì một chú chó con bên chủ
mình và sẽ không bao giờ còn lìa xa ngài nữa.
Từ mùa xuân năm 1842 đến hừng đông ngày 31-1-1888, ngày
Don Bosco tạ thế, Giuse Buzzetti sẽ luôn cận kề bên ngài, là
nhân chứng bình thản và thầm lặng toàn bộ lịch sử của vị linh
mục "đã rất quý yêu mình". Rất nhiều biến cố của trong cuộc
sống của Don Bosco kể từ nay có thể sẽ bị liệt vào loại các
"huyền thoại", vào thời đại đầy nghi hoặc và tối kỵ sự thần
thánh hóa của chúng ta, nếu chúng đã không được chứng kiến
bởi cháu bé thợ hồ người trần mắt thịt đến từ xứ Caronno, kẻ
mà lúc nào cũng có mặt tại chỗ, chỉ cách Don Bosco "của nó"
trong gang tấc.
"Nếu cha chỉ còn lại mỗi một miếng bánh…"
Điều khiến cho bọn trẻ gắn bó với Don Bosco chính là lòng
nhân hậu thiết thân và đầy chân tình của ngài. Chúng cảm nhận
lòng nhân hậu ấy và ghi nhận nó trong những hành động cụ thể
trong những cử chỉ khiến chúng xúc động, mỗi giây mỗi phút
trong ngày của Don Bosco đều nhằm phục vụ chúng.

17.8 Page 168

▲back to top
Nếu chúng cần tập đọc, cần tập làm bốn phép tính Don Bosco
sẽ tìm ra giờ hoặc những người đầy khôn khéo để đứng lớp cho
chúng.
Nếu chúng có một ông chủ xấu hoặc lâm cảnh thất nghiệp, ngài
liền nhúng tay vào, tổng động viên toàn thể các bạn bè thân
hữu để tìm ra một chỗ làm, một ông chủ Công giáo và lương
thiện.
Thậm chí khi chúng cần tiền, chúng cũng biết rằng Don Bosco
sẽ trút sạch hầu bao của ngài vào tay chúng.
Nếu ngày của chúng trĩu nặng u sầu và cực nhọc, chúng sẽ thưa
với ngài: "Xin cha hãy đến với con", và ngài sẽ đến. Ngài đi
sâu vào trong các xưởng thợ, trên các Quảng Trường xây dựng.
Gặp ngài, trò chuyện với ngài, đó là những phút giây nhẹ nhõm
trong lòng.
Một trong những câu mà nhiều đứa thường được nghe ngài nói
với chúng (và được chúng bảo tồn trong ký ức của mình như
một kho báo), đó là: "Cha thương con đến nỗi như đến ngày
nào đó cha chỉ còn lại có mỗi một miếng bánh, thì chính con là
người sẽ được cha chia sẻ miếng bánh ấy".
Khi cần khiển trách ai, ngài không mảy may ngại ngùng, nhưng
không bao giờ làm trước mặt những người khác, để khỏi sỉ
nhục đương sự. Nếu ngài hứa điều gì, ngài sẵn sàng nhảy vào
lửa để làm tròn lời hứa đó.
Tất cả mọi trẻ em đều quí mến ngài, chúng gắn bó với ngài một
cách vô điều kiện. Mỗi lần gặp ngài là lòng chúng lại rộn ràng
như mở hội.
Trên đường phố Milan, gần tòa đô chánh, ngài gặp một thằng
bé đi ngược chiều đang trở về sau một cuộc mua sắm. Hai tay
nó bận mang một chai dầu ăn và một ly giấm, nhưng, vừa thấy
bóng Don Bosco, nó liền chạy về phía ngài, miệng reo vang:

17.9 Page 169

▲back to top
"Chào Don Bosco!". Dầu ăn và giấm sóng sánh một cách nguy
hiểm trong chai và trong ly.
Don Bosco cười vì thấy nó sung sướng và ngài nói đùa với nó:
"Cha dám cá là con không thể nào làm được như cha đây". Và
ngài bắt đầu vỗ tay. Thằng nhỏ trong cơn hào hứng của cuộc
gặp gỡ, bị mắc mưu một cách dễ dàng. Nó kẹp cái chai vào
nách và ra sức vỗ hai tay vào nhau, miệng la: "Don Bosco
muôn năm!".
Chai và ly tuột khỏi tay nó và vỡ tan. Nó đứng ngẩn người ra,
tiu nghỉu như mèo cụt tai.
"Con khỏi lo, cái xui này mình sẽ hàn gắn được trong nhấp
nháy", Don Bosco bảo nó.
Don Bosco đã mua dầu ăn và giấm cho thằng bé.
"Quyền lãnh đạo thuộc về Đức Giáo Hoàng, thanh gươm thuộc
về Đức Vua Carlo Alberto"
Năm 1843, tại Bruxelles (Bỉ) một người Piemonte bị đi đầy
khác, Gioberti, sẽ phát hành một cuốn sách gây rất nhiều chấn
động: Quyền Tối Cao Tinh Thần Và Dân Chính Của Dân Tộc
Ý.[3] Trong những trang ấy có chứa đựng những quan niệm
chủ yếu của chủ trương cải tổ kiểu phe tự do ôn hòa sẽ được
gọi là "néoguelfisme" (tân phái ủng hộ Giáo hoàng). Sự cao cả
của nước Ý, Gioberti khẳng định, gắn liền không thể tách rời
với sự cao cả của Đức Giáo hoàng. Nền độc lập của nước Ý, do
đó, sẽ phải được thực hiện nhờ sự liên minh với các quốc gia
thuộc Ý Đại Lợi dưới quyền thống lãnh của Đức Giáo hoàng.
"Quyền lãnh đạo thuộc về Đức Giáo hoàng, thanh gươm thuộc
về Carlo Alberto" sẽ trở thành khẩu hiệu của những kẻ theo tân
phái ủng hộ Giáo hoàng.
Carlo Alberto khấp khởi mừng thầm, nhưng ông vẫn nhìn nước
Áo với một con mắt đa nghi.

17.10 Page 170

▲back to top
"Cha có một chiếc áo dòng quá mong manh"
Ngày 30-4-1842, Don Cottolengo từ trần tại Chieri. Trong
"ngôi nhà nhỏ" của ngài, số bệnh nhân nan y đã lên tới mấy
trăm người. Mấy năm trước, Bộ trưởng Tài chính đã cho đòi
Don Bosco tới hầu:
- Cha là giám đốc "ngôi nhà nhỏ của Chúa Quan Phòng" hả?
- Không, tôi chỉ là người làm công tầm thường của Chúa Quan
Phòng.
- Có thể lắm. Nhưng nhờ ai mà cha có đủ phương tiện để nuôi
sống bấy nhiêu người bệnh?
- Tôi đã thưa với ngài rồi, nhờ ở Chúa Quan Phòng.
Người đàn ông ấy vốn đã quen với những thực tế của đời
thường, với những khoản thu và chi của ngân sách, tỏ ra mất
bình tĩnh:
- Nhưng mà tiền bạc, cha ơi, tiền bạc ấy mà? Cha đào đâu ra
mà lắm thế?
- Lại nữa! Nhưng tôi đã nói với ngài hai lần rồi. Chúa Quan
Phòng đã cung cấp cho chúng tôi tất cả. Chúa không để chúng
tôi thiếu bất cứ sự gì. Rồi đây tôi sẽ chết, ngài bộ trưởng cũng
sẽ chết, nhưng Chúa Quan Phòng sẽ vẫn tiếp tục lo cho những
người nghèo trong ngôi nhà nhỏ ấy.
Điều ấy đã xảy ra đúng như ngài đã nói. Khi ngài tạ thế, cha
Anglesio thuộc Tòa Tổng Giám mục đã kế vị ngài và ngôi nhà
nhỏ vẫn thản nhiên tiếp tục tồn tại, tọa lạc giữa ngôi chợ chính
của thành phố và những tòa nhà thuộc các cơ sở từ thiện của bà
hầu tước Barolo.
Don Bosco, nhân dịp này, đã nhớ lại cuộc gặp gỡ đầu tiên của
mình với Don Cottolengo. Ngài đã đến Torino trước đó ít lâu

18 Pages 171-180

▲back to top

18.1 Page 171

▲back to top
và đã ghé thăm ngôi nhà nhỏ. Vị linh mục thuộc Tòa Tổng
Giám Mục đã hỏi xem quí danh của ngài là gì, ngài từ đâu tới,
rồi với vẻ lơ đãng và giễu cợt, cha đã bảo ngài:
- Trông cha cũng khá đấy chứ. Cha hãy đến công tác tại ngôi
nhà nhỏ. Công việc sẽ không thiếu cho cha đâu.
Don Bosco đã trở lại đó, để giải tội cho các bệnh nhân, để ở
bên bọn trẻ tật nguyền vài giờ. Một hôm, cha Cottolengo lại
gặp ngài nữa (lúc ấy cậu bé Đaminh Saviô cũng có mặt), cha
đã nắm lấy một dúm vải của tấm áo dòng của ngài và vừa rờ
vừa nói:
"Vải mỏng quá. Cha hãy sắm lấy một chiếc áo bền chắc hơn,
bởi lẽ nhiều trẻ em sẽ bấu víu vào chiếc áo dòng ấy".
Ngài thanh thản nói về Chúa
Bọn chúng bấu víu lấy thật. Thời gian càng trôi qua, số trẻ của
Nguyện Xá càng gia tăng, đã hơn một trăm đứa. Chúng không
chỉ cần bánh ăn và việc làm, mà còn cần cả Đức tin nuôi sống
chúng cả khi bánh ăn trở nên hiếm hoi. Và Don Bosco, vốn
không phải là một nhà từ thiện mà là linh mục, đã chăm lo cho
chúng gặp gỡ với Thiên Chúa.
"Đối với tôi đó là một điều thật lạ lùng, ngài viết, suốt cả tuần
và cách riêng những ngày lễ, khi thấy tòa giải tội của mình bị
vây kín bởi bốn, năm chục đứa trẻ đôi khi phải đợi rất lâu mới
tới phiên được vào tòa để xưng tội".
Xưng tội không phải là việc dễ dàng đối với bọn trẻ. Don
Bosco giúp chúng bằng cách gợi ý cho chúng những phương
thức cực kỳ đơn giản: "Nếu con không biết phải giải thích ra
sao, chỉ cần đề nghị cách giải tội giúp con. Vì ngài đã quá bận
rộn, nên ngài sẽ nêu cho con vài câu hỏi và thế là mọi chuyện
đều được giải quyết ổn thỏa".

18.2 Page 172

▲back to top
Hệ quả bình thường của việc xưng tội là việc rước lễ, và rất
đông đảo trẻ em tuần nào cũng nối đuôi nhau bước lên bàn
Thánh.
Ngay cả trong những cuộc trò chuyện thông thường, giữa các
cuộc chơi, Don Bosco cũng thản nhiên nói về Thiên Chúa.
Ngài chẳng cần phải gắng công chút nào với bọn trẻ của mình
dù là để trao đổi những lời bông đùa hoặc những câu chuyện,
hay là để nói với chúng về Thiên Chúa. Giữa lúc đang choáng
ngợp niềm vui, ngài bỗng nhìn chúng và bảo:
"Sung sướng biết bao, khi chúng ta được họp mặt với nhau trên
Thiên quốc!".
Thỉnh thoảng, họ lại có dịp thảo luận với nhau và các câu hỏi
có thể lái từ điều thiện sang điều ác, sang cuộc sống ở bên kia
thế giới. Đứa nào đó đã cất tiếng hỏi ngài:
"Còn con, con có được rỗi không ạ?"
Và ngài:
"Cha muốn thấy con sa hỏa ngục quá đi! Con tưởng rằng Chúa
nhân lành dựng nên Thiên Đàng là để bỏ trống hay sao? Tất
nhiên, leo lên đó đòi hỏi nhiều hy sinh, nhưng cha muốn rằng
tất cả chúng ta sẽ gặp lại nhau đông đủ trên đó. Chúng ta sẽ ăn
mừng cuộc họp mặt ấy thật linh đình, trọng thể".

18.3 Page 173

▲back to top
Chương 18
BÀ HẦU TƯỚC VÀ “ÔNG CHA NHỎ” [CHA BOREL]
Mùa hè 1844, Don Bosco đã trải qua đủ ba năm tại Học viện
Giáo sĩ.
Don Cafasso xuống khu phố Valdocco và đến gặp nhà thần học
Borel, cha linh hướng của Nhà Nương Náu, được thành lập bởi
bà hầu tước Barolo.
"Tôi muốn gửi đến đây cho cha một vị linh mục ngon lành".
Cần cung cấp cho cha ấy một căn phòng và một khoản thù lao.
Nhưng ở đây thậm chí còn không đủ việc làm cho riêng mình
tôi nữa. Chúng tôi có thể dùng cha ấy vào việc gì chứ?
Thì cứ để mặc cho cha ấy rảnh rỗi. Nếu khoản thù lao khiến
cha bận tâm, thì chính tôi là người sẽ chi trả. Cha ấy tên là Don
Bosco và tại nhà chung, cha ấy đã khởi công một kiểu Nguyện
Xá cho bọn trẻ nhà nghèo. Nếu chúng ta không tìm được công
tác nào cho cha ấy trong thành phố, Đức Tổng Giám mục sẽ cử
cha ấy đi làm phó xứ ở vùng nông thôn và bọn trẻ trong
Nguyện Xá của cha ấy sẽ quay về với đường phố. Đó sẽ là một
bất hạnh đích thực.
Nếu thế thì được. Tôi sẽ bàn với bà hầu tước về chuyện này.
Don Cafasso trở lại nhà chung và bảo Don Bosco:
"Cha hãy thu dọn hành trang và hãy lên đường đến Nhà Nương
Náu. Cha sẽ làm việc cạnh cha Borel và cha sẽ có thời giờ để lo
cho bọn trẻ của mình".
Chiếc áo nhặm dưới bộ xiêm y sang trọng
Bà hầu tước Julie-Francoise Colbert hồi ấy chiếm địa vị hàng
đầu trong giới thượng lưu ở Torino. Là dân di cư từ Pháp sang

18.4 Page 174

▲back to top
trong thời kỳ cách mạng, bà đã kết hôn với Charles Tancredi
Falletti di Barolo, người mà vào năm 1825, đã từng là đô
trưởng thành phố Torino.
Ông hầu tước, qua đời năm 1838, đã bỏ bà lại không có con cái
nối dõi tông đường và một gia tài kếch xù. Bà hầu tước, năm
53 tuổi, đã mặc, bên dưới những xiêm y thanh lịch của mình,
một chiếc áo nhặm để đền tội và đã hiến trọn đời mình cho
những người nghèo khó.
Bà bỏ ra, suốt nhiều tháng liền, mỗi ngày ba tiếng đồng hồ có
mặt tại các trại giam các nữ tù nhân.
Bà đã cắn răng chịu đựng những lời thoá mạ, những sự lăng
nhục, thậm chí đã chịu cả những cú đập đánh nhằm giúp đỡ và
dạy dỗ đám phụ nữ xấu số ấy. Cuối cùng bà đã đòi được các
giới hữu quan thành lập những trại giam nữ tù nhân cách biệt
hẳn với những trại giam dành cho các tù nhân đàn ông. Bà
chuyển các nữ tù nhân đến trong một ngôi nhà vệ sinh hơn mà
chính bà đã cho thiết kế.
Bà đã sáng lập những viện mồ côi và những trung tâm dành
cho các công nhân trẻ.
Tại Valdoco, gần ngôi nhà nhỏ của Don Cottolengo, bà đã xây
Nhà Nương Náu, dành cho những gái điếm hoàn lương muốn
làm lại cuộc đời. Gần đó, bà đã mở ngôi nhà của các cô gái biệt
danh là “các nàng Mai Đệ Liên Bé nhỏ, tức là các thiếu nữ lâm
nguy về mặt tinh thần mà chưa đến 14 tuổi.
Cũng trong năm 1844 ấy, bà đã khởi công một ngôi nhà thứ ba,
tức bệnh xá Thánh nữ Philomène, dành cho các bé gái đau yếu
hoặc tật nguyền.
Là người đứng đầu ba cơ sở từ thiện trên, lúc nào bà cũng tỏ ra
thanh lịch và lanh lợi. Trong phòng tiếp tân của bà thường diễn
ra những cuộc hẹn hò của các nhà thức giả nổi tiếng nhất lúc

18.5 Page 175

▲back to top
đương thời, Silvio Pellico đã từng là bí thư của bà và chính tại
nhà bà là nơi ông ấy đã viết cuốn "Những ngục tù của tôi".
Camille Cavour đã là bạn rất thân và tâm giao của bà.
Nhà thần học Borel đến tìm bà hầu tước:
Tôi đã tìm được một cha linh hướng cho bệnh xá của bà. Tên
cha ấy là Don Bosco và cha ấy xuất thân từ Nhà Chung.
Đồng ý nhưng bệnh xá còn đang thi công dở dang. Sáu tháng
sau chúng ta sẽ bàn lại vụ này.
Không được đâu thưa hầu tước. Don Bosco cần phải được
tuyển dụng ngay lập tức, bằng không ngài sẽ được cử đi nơi
khác. Don Cafasso đã nồng nhiệt gửi gắm ngài cho tôi và cha
ấy có nói với tôi về Nguyện Xá đã được thành lập bởi vị linh
mục ấy. Cha ấy nói rằng sẽ là cả một lỗi lầm nếu chúng ta để
cho Don Bosco trôi dạt đi nơi khác.
Bà hầu tước đòi có những thông tin bổ sung. Rồi vững bụng,
bà đã mướn Don Bosco với thù lao hàng năm là 600 lires và
một căn phòng kế cận phòng của Don Borel, ở gần Nhà Nương
Náu.
Về phần mình, ngay trong cuộc hội ngộ lần đầu với Bà hầu
tước, Don Bosco đã muốn có những thông tin và những đảm
bảo. Ngài chấp thuận giúp việc cho Nhà Nương Náu, nhưng
đòi hỏi không bị buộc phải bỏ rơi bọn trẻ của mình. Ngài đặc
biệt đề nghị là những trẻ em nào muốn gặp ngài những ngày
thường trong tuần phải được ngài tiếp thoải mái.
Bà hầu tước, tuy tuổi đã lục tuần nhưng vẫn giữ được nguyên
vẹn tính khí cương nghị và trung thực của mình, lấy làm mãn
nguyện trước sự thẳng thắn đó. Bà chấp thuận cho vị linh mục
trẻ được tụ tập Nguyện Xá của ngài trên khu đất trống nằm kế
bên bệnh xá còn đang thi công. Ngay khi nào có thể, bà sẽ để

18.6 Page 176

▲back to top
ngài tuỳ nghi sử dụng, bên trong toà nhà, hai phòng nhỏ nữa,
ngài sẽ có thể thiết kế hai phòng nhỏ ấy thành nhà nguyện.
Đó được coi là một sự sắp đặt, tuy rằng chỉ tương đối mà thôi.
Những chú chiên hoá thành những chàng chăn chiên tí hon
Ngày 12-10-1844, thứ bảy, Don Bosco có vẻ đăm chiêu tư lự.
Hôm sau ngài sẽ phải nói với bọn trẻ là Nguyện Xá sẽ được dời
ra vùng ven của khu phố Valdocco. "Nhưng tính khí khả nghi
của địa điểm cũng như của các phương tiện, của cư dân ở đó,
khiến tôi cảm thấy bồn chồn lo lắng. Đêm ấy, tôi lại mơ một
giấc mơ nữa mà tôi thấy có vẻ là phần tiếp theo của giấc mơ
mà tôi đã gặp ở xóm Becchi vào năm chín tuổi".
Ngài lại thấy cả một bầy chó sói đông đảo. Ngài tính bỏ chạy.
Nhưng người phụ nữ mặc đồ chăn chiên đã ra dấu cho tôi đi
theo bầy thú vật kỳ quái ấy trong lúc chính bà thì đi trước dẫn
đường cho chúng. Chúng tôi dừng bước cả thảy ba lần. Tại mỗi
trạm dừng chân, nhiều con chó sói trong bầy đã biến hoá thành
những chú chiên hiền lành dễ thương. Mệt đừ đến chịu hết nổi,
tôi chỉ muốn ngồi bệt xuống để nghỉ xả hơi, nhưng bà chăn
chiên cứ yêu cầu tôi đi tiếp hoài. Và này, chúng tôi đang ở trên
một cái sân rộng, với một cổng lớn xây ngay giữa sân và ở cuối
sân là một ngôi Thánh đường. Số chiên đã trở nên hết sức đông
đảo. Một số người chăn chiên khác đã đến để chăn dắt chúng,
nhưng rất ít người trong bọn họ đã trung kiên tới cùng. Lúc ấy,
một điều kỳ diệu đã xảy ra, nhiều con chiên bỗng biến hoá
thành những chàng chăn chiên tí hon và chăn dắt các con chiên
khác. Bà chăn chiên bảo tôi nhìn về phía Nam. Khi đưa mắt
nhìn, tôi đã thấy một cánh đồng. Tôi đã thấy một ngôi Thánh
đường nguy nga, tráng lệ. Bên trong ngôi thánh đường ấy, có
một biểu ngữ màu trắng từ trên nóc vòm thòng xuống với một
hàng chữ cực lớn: Hic domus mea, inde gloria mea (đây là nhà
của Ta, từ nơi đây sẽ toả ra vinh quang của Ta).

18.7 Page 177

▲back to top
Cách đó mười dòng, Don Bosco kết luận: "Tôi đã không mấy
tin. Nhưng khi chuyện ứng nghiệm tới đâu tôi liền hiểu ngay
tới đó. Vậy là, giấc mơ ấy, với một giấc mơ khác nữa, đã được
tôi dùng làm Chương trình cho các quyết định của mình".
Don Bosco đâu? Nguyện Xá ở đâu?
Ngày 13 tháng 10, Chúa nhật, Don Bosco báo cho các con cái
ngài việc dời Nguyện Xá tới gần Nhà Nương Náu. Việc này
gây nên ít nhiều rắc rối. Thế là Don Bosco liền xốc tới, trả
ngay bằng tiền mặt cho công trình xây dựng mà ngài mới chỉ
thấy trong giấc mơ, rồi ngài hí hửng báo cho bọn trẻ là "ở đàng
ấy đang chờ đợi chúng ta là cả một toà nhà rộng lớn dành trọn
cho chúng ta tha hồ ca hát, chạy, nhảy. Chúng ta sẽ hài lòng
với toà nhà ấy". Ai nấy đều nóng lòng chờ mong được thấy toà
nhà mới.
Ngày 20 tháng 10, Chúa nhật, các toán trẻ em vượt qua những
rào cản của trạm thuế nhập thị và lũ lượt kéo xuống khu phố
lao động Valdocco. Tới tận hữu ngạn sông Dora, đó là một
vùng toàn những đồng cỏ và ruộng rẫy, với từng đám nhà cửa
nằm rải rác. Ngôi nhà nhỏ của Don Cottolengo, Nhà Nương
Náu của bà hầu tước Barolo nằm kế cận những quán nhậu và
những ngôi nhà quê mùa nơi cư trú của những người dân quê
sống an phận thủ thường. Bọn trẻ chẳng biết phải đi đâu cả,
chúng bắt đầu gõ hết cửa này đến cửa khác và la om sòm:
"Don Bosco ơi! Don Bosco đâu? Nguyện Xá ở đâu?"
Dân chúng đã từng thấy những bọn trẻ côn đồ mất nết tương tự
như bọn chúng, cứ ngỡ là có chuyện chẳng lành sắp xảy ra, nên
liền gắt gỏng:
"Nguyện Xá nào? Don Bosco nào? Tụi bây có cút đi không?
Cút đi cho khuất mắt, không thì chúng tao sẽ dùng chỉa ba rượt
tụi bay chạy có cờ bây giờ!"

18.8 Page 178

▲back to top
"Nghe tiếng ồn, cùng lúc với nhà thần học Borel, tôi vội vã ra
khỏi nhà. Sự huyên náo ngừng lại và lũ trẻ chạy đến bao quanh
chúng tôi".
Chỗ để chơi và để chạy thì thừa, bán đi chẳng xuể. Nhưng một
nơi yên tĩnh để cầu nguyện, để giải tội, để làm lễ thì chẳng có
chỗ nào thích hợp cả.
"Toà nhà rộng lớn mà cha hứa với các con hiện vẫn chưa xây
xong. Nhưng ai muốn, đều có thể lên phòng riêng của cha và
phòng của Don Borel".
Kết quả, đối với Chúa nhật ấy cũng như mọi Chúa nhật khác
cho tới mãi tháng 12, đó là cảnh những con cá bị đóng hộp.
"Các phòng, các dãy hành lang, các cầu thang, đâu đâu cũng lố
nhố kín đặc các trẻ em. Giải tội thì chỉ có hai chúng tôi, mà số
trẻ muốn xưng tội lại lên đến cả hai trăm em. Mà đố ai giữ
chúng yên lặng nổi, trong lúc chúng mỏi chân sốt ruột đứng đợi
đến phiên mình, cả hai trăm thanh thiếu niên ấy!
"Đứa này muốn đốt lửa, đứa kia lại đòi dập tắt. Đứa lo chất củi
thành đống, đứa khác xối nước lên trên. Xô, kẹp gắp than, xẻng
xúc than, bình tưới cây, thau rửa mặt, ghế ngồi, giày dép, sách
vở, tất cả đều ngổn ngang bề bộn, vì ai cũng muốn sắp xếp cho
gọn cả".
Don Bosco có hơi quá đáng khi ghi lại mấy hàng diễn tả cuộc
sống đầy vui nhộn trên, nhưng ai đã từng sống lâu năm giữa
các trẻ em, thì biết rằng đây không phải là một sự "quá đáng"
quá lố.
Sáu Chúa nhật như vậy, với hai trăm Thanh thiếu niên, vào
khoảng giữa buổi sáng, nối đuôi nhau hàng hàng lớp lớp sau
lưng Don Bosco, như một đạo quân nhỏ, để đi xem lễ ở Núi
các tu sĩ dòng Capuxinô hay ở Nhà thờ Đức Bà An Ủi hay tại
vùng Sassi.

18.9 Page 179

▲back to top
Thường thì nhà thần học Borel cùng đi với họ. Vị linh mục
giản dị và bình dân mà thiên hạ quen gọi, do tầm vóc thấp bé
của ngài, là "ông cha nhỏ". Đây là một người lao động không
biết mệt, đã đùm bọc chở che cho Don Bosco trẻ trung và đã
giúp đỡ ngài với một tình bạn tế nhị, kể cả giúp bằng tiền túi
của mình.
Những bài thuyết giáo của "ông cha nhỏ" được đón nghe nồng
nhiệt bởi bọn trẻ, vì bài nào bài nấy đều được trình bày bằng
tiếng địa phương rất dễ thương của vùng Porta Palazzo, điểm
thêm những tục ngữ, những câu nói bông đùa, những từ đầy ý
nhị. Có người đã nói với Don Bosco là lẽ ra nên giảng theo một
kiểu nghiêm túc, chững chạc hơn. Ngài đã trả lời: "Thế gian
này đầy rẫy những chuyện tức cười, do đó cần phải giảng theo
kiểu tấu hài".
Lọn tuyết nổ tí tách trong lò than
Ngày 8 tháng 12, hai căn phòng dùng làm nhà nguyện rốt cuộc
đã sẵn sàng. Thật đúng lúc, vì khi đêm xuống, tuyết rơi rất dữ.
Sáng hôm sau, tuyết đóng rất dầy và tiết trời rất lạnh. Một lò
than được đem vào nhà nguyện. Giuse Buzzetti còn nhớ là khi
cậu băng qua sân, những lọn tuyết đã đáp xuống giữa lửa và nổ
tí tách.
Bọn trẻ tuy vậy vẫn đến. Chúng thấy một bàn thờ nhỏ, một nhà
tạm nhỏ, vài hàng ghế băng. "Chúng tôi đã làm lễ, Don Bosco
ghi lại một cách đơn sơ, nhiều trẻ em đã xưng tội và chịu lễ và
tôi đã khóc, vì tôi thấy dường như từ nay trở đi Nguyện Xá đã
ổn định".
Ngài đã lầm, ngài sẽ còn phải khóc thêm hai lần nữa không
phải vì mừng mà là vì buồn, trước khi tìm được một chỗ cố
định và lâu bền cho Nguyện Xá.

18.10 Page 180

▲back to top
Kể từ ngày 8-12-1844 ấy, Don Bosco dù sao cũng đã tìm được
cho Nguyện Xá một cái gì đó sẽ tồn tại lâu dài một cái tên. Nó
sẽ được gọi là "Thánh Phanxicô đệ Salê". Tại sao? Chính Don
Bosco đã giải thích điều ấy như sau: "Vì bà hầu tước đã cho
họa chân dung vị thánh ấy ngay cổng ra vào của toà nhà. Và vì
hoạt động của chúng tôi đòi hỏi phải có thật nhiều điềm tĩnh và
hiền hoà. Chúng tôi đã đặt mình dưới sự bảo trợ của Thánh
Phanxicô đệ Salê, ngõ hầu ngài cầu bầu cho chúng tôi có được
lòng nhân hậu phi thường của ngài".
Để duy trì niềm vui cho bọn trẻ của mình, Don Bosco đã mua
những "trái bun", những viên đáo, những cặp cà kheo (hồi ấy
người ta còn chưa chế ra bóng tròn). Ngài vẫn tiếp tục giúp
những đứa nghèo nhất về của ăn, áo quần, giầy dép.
Giờ đây, vì ngài đã có sẵn một căn phòng, nên ngài hy vọng có
thể dạy học chút ít cho những đứa thông minh nhất trong bọn
trẻ của mình. Tối đến, cắt xén bớt hai tiếng đồng hồ ngủ nghỉ
của ngài, từng nhóm lẻ tẻ kéo nhau vào phòng riêng của ngài,
với bộ mặt đen xì đầy mồ hóng hoặc trắng xoá vì dính đầy vôi,
với tấm vải khoác vắt trên vai để ngăn bớt cơn lạnh, mặt mày
hớn hở vì được học hành trong chốc lát.
Nhưng để mua sắm sách vở, quần áo, các đồ dùng để chơi, cần
phải có tiền. Don Bosco cảm thấy rụt rè và khó chịu. Ngài rất
kỵ việc phải vác mặt đến một gia đình giàu để xin bố thí. Don
Borel động viên ngài:
"Nếu cha thật sự muốn mưu ích cho bọn trẻ của mình, thì cũng
phải chấp nhận luôn cả sự hy sinh này nữa".
Don Bosco đành chấp nhận hy sinh. Gia đình đầu tiên mà ngài
đến ăn xin (đã được chuẩn bị trước bởi Don Borel) đó là gia
đình của hiệp sĩ Gonella. Ngài cảm thấy mặt mày đỏ bừng và
nóng ran đến tận tai khi chìa tay ra để nhận ba trăm lires đầu
tiên.

19 Pages 181-190

▲back to top

19.1 Page 181

▲back to top
Bốn mươi hai năm sau, khi ngài yêu cầu một cha giám đốc
Salêdiêng đi nhận một khoản bố thí, ngài đã nghe đáp lại là cha
ấy "thiếu cái gan của Don Bosco". Ngài đã tỏ vẻ nghiêm nghị
và bảo:
"Cha đâu biết là tôi đã phải khổ sở biết bao để xin bố thí".
Ngài sẽ không bao giờ rũ bỏ được sự khinh tởm ấy cũng như
ngài sẽ không đánh mất nhân phẩm của mình. Không rụt rè,
cũng không hạ cấp. Các gia đình quí tộc sẽ nói về ngài:
"Cứ y như vị thiên thần bước vào nhà chúng tôi vậy".
Thất bại ở Nhà thờ Thánh Phêrô bị trói
Suốt mùa chay 1845, ngài đã thử dời địa điểm từng phần một.
Với bài học giáo lý hàng ngày (thời ấy được qui định cho toàn
thể trẻ em trong suốt Mùa Chay và Mùa Vọng) các lớp lớn nhất
họp nhau tại nhà thờ Thánh Phêrô bị trói. Người ta gọi như vậy
cho một ngôi nhà thờ dâng kính Thánh Gia, nằm kế một nghĩa
trang mà đã mười năm nay không còn chôn cất ai nữa. Nghĩa
trang, (ngày nay vẫn còn nhìn thấy được trong khu phố
Valdocco), có một cổng vòm, một sân rộng có mái che và một
chái vây quanh.
Vì các cuộc tập kết để học giáo lý đã tiến hành rất tốt đẹp và vì
linh mục quản lý nghĩa trang, Don Tesio, vốn là bạn thân của
ngài, nên tháng 5, Don Bosco đã đề nghị với cha ấy cho mình
thử làm một cuộc thử nghiệm toàn diện: dời toàn bộ Nguyện
Xá vào ngôi nhà thờ và trong sân của Thánh Phêrô bị trói.
Don Tesio phải vắng mặt hôm Chúa nhật 25 tháng 5 nên đã trả
lời:
"Cha cứ việc đem bọn trẻ đến vào ngày 25. Tiện thể, cha hãy
làm lễ thay tôi ngày hôm ấy".

19.2 Page 182

▲back to top
Vị linh mục quản lý nghĩa trang có lẽ đã phạm hai sai lầm.
Ngài cứ ngỡ là Nguyện Xá của Don Bosco chỉ gồm vài thiếu
niên mà ngài đã thấy, đầy vẻ chăm chú và trật tự trong một lớp
giáo lý Mùa Chay. Ngoài ra, ngài còn tưởng (như ngài đã từng
nhận xét thấy tại các cơ quan khác dành cho trẻ em) là sau
thánh lễ và các việc phụng vụ trong nhà thờ, bọn trẻ sẽ ai về
nhà nấy, sau khi đã ăn xong mỗi đứa một ổ bánh nhỏ trong sân.
Sự thể đã diễn ra khác hẳn. Bà giúp việc của vị linh mục quản
lý nghĩa trang đã thấy lũ lượt kéo đến cả một bọn trẻ đông như
kiến, chen nhau chật cứng như nêm bên trong nhà thờ. Lễ
xong, chúng thanh toán gọn ổ bánh nhỏ của bữa điểm tâm và
xổ chuồng đùa giỡn om sòm trong sân và dưới những hàng cột
có mái che. Bà người làm (có nuôi mấy con gà mái dưới các
khung cửa vòm cung), bỗng thấy kinh hoàng, rồi nổi cơn tam
bành lục tặc. Bà bắt đầu la ó, chạy lồng lộn, dùng cán chổi chà
quất túi bụi trong lúc lũ gà mái của bà ta kinh hồn bạt vía, bay
loạn xạ với bọn trẻ rượt theo đầy thích thú. Trong cơn hăng
máu, bà đã đến ngay trước mặt Don Bosco và chửi luôn cả
ngài. "Xâm phạm các chốn thánh liêng" là tội danh nhẹ nhất
bà đã tặng cho ngài.
Don Bosco hiểu rằng "Ba mươi sáu nước, chỉ có nước chuồn là
thượng sách". "Tôi thích chẳng thà ngưng ngay các cuộc chơi.
Chúng tôi đã bỏ đi với ý định là sẽ trở lại vào Chúa nhật sau
một cách êm ả hơn".
Đó sẽ chỉ là một vụ việc tầm thường thôi, nếu nó đã không ở
trong một tình huống đầy ấn tượng như trên. Don Rua, nhân
cuộc "điều tra nhằm thu lượm những tài liệu hữu ích cho án vụ
phong thánh cho Don Bosco”, đã khai như sau: "Có một ông
tên là Melanotte, quê ở Lanzo, có mặt vào lúc đó, đã kể lại với
tôi là Don Bosco, không nao núng mà cũng không nổi giận
trước những lời chửi rủa trút xuống như mưa ấy, đã quay về
phía bọn trẻ và nói: "Tội nghiệp bà già! Bà ta ra lệnh cho chúng

19.3 Page 183

▲back to top
ta cuốn gói, trong khi chính bà ta, Chúa nhật sắp tới, sẽ nằm
yên dưới đáy huyệt lạnh".
Lúc Don Tesio về tới, bà giúp việc đã kể lại với ngài mọi
chuyện, bằng những lời lẽ độc địa đến nỗi vị linh mục quản lý
nghĩa trang (có lẽ để khỏi nuốt lời hứa với Don Bosco) đã biên
thư cho hội đồng thành phố để họ ra lệnh cấm mọi cuộc chơi
bên trong khuôn viên nghĩa trang.
"Tôi lấy làm tiếc phải nói thế, Don Bosco rầu rĩ ghi lại, nhưng
lá thư ấy đã là lá thư cuối cùng của Don Tesio". Trong tuần
tiếp theo đó, cả Don Tesio lẫn bà giúp việc của ngài đều đã lăn
ra chết bất đắc kỳ tử.
Ông Bà Hầu Tước Barolo và những công trình giáo dục...

19.4 Page 184

▲back to top
Chương 19
NGUYỆN XÁ LƯU ĐỘNG
Sau cuộc thử nghiệm đau thương ở Thánh Phêrô bị trói,
Nguyện Xá lại tiếp tục tập kết tại Nhà Nương Náu. Bà hầu tước
tuyệt nhiên không làm gì để cấm cản điều ấy. Tuy nhiên bà đã
nhắc nhở Don Bosco là ngày 10 tháng 8 bệnh xá sẽ khánh
thành. Kể từ ngày ấy, nơi đó sẽ biến thành vùng đất cấm đối
với bọn trẻ.
Ngày 12-7-1845, một lá thư của Hội đồng thành phố tới tay
Don Bosco. Người ta chấp nhận cho Don Bosco được quyền sử
dụng ngôi nhà nguyện trong khu nhà máy xay lúa của thành
phố để dạy giáo lý cho bọn trẻ, từ giữa trưa đến ba giờ chiều,
với lệnh cấm không cho chúng xâm nhập vào tận sân thứ hai
của các toà nhà.
Một nhà thờ dùng trong ba tiếng đồng hồ ngày Chúa nhật, tuy
không phải là lâu đài hay cung điện gì, nhưng ít ra cũng đủ để
sống còn. "Có còn hơn không", như người ta thường nói.
"Chúng tôi lấy các ghế băng, ghế quì, các chân đèn và các ghế
bành, những ảnh tượng và những khung hình nhỏ, Don Bosco
nhớ lại, và mỗi người mang một món đồ vừa với tầm vóc của
mình, như thể chúng tôi là những người di cư. Chúng tôi đã
đến đặt Tổng hành dinh của mình tại những nơi mà tôi vừa kể
trên".
Khu nhà máy xay lúa của thành phố, được gọi nôm na là
Molassi, toạ lạc tại quảng trường Emmanuel Philibert (Porta
Palazzo), nằm bên tay phải khi người ta đi xuống về phía sông
Dora. Đến nay, trên quảng trường ấy vẫn còn là nơi họp chợ
hàng ngày của thành phố, với những sạp hàng xếp thành từng
dãy san sát bên nhau.
“Hỡi các con yêu thương, Những cây cải bắp...”

19.5 Page 185

▲back to top
Don Bosco không hài lòng với lối dàn xếp ấy, và cả bọn trẻ
cũng vậy. Ngài viết: "Ở đó chúng tôi không sao làm lễ được,
chiều tối cũng không thể nào chầu Phép lành. Hơn nữa, cũng
không thể cho rước lễ, mà đây lại là nhân tố cốt lõi của tổ chức
Nguyện Xá của chúng tôi. Ngay cả giờ chơi cũng bị phá rối dữ
dội: bọn trẻ phải chơi trên đường phố hoặc trên Quảng Trường
nhỏ trước cửa nhà thờ, là nơi nườm nượp ngựa, xe qua lại.”
Thế rồi Don Bosco kết luận: “Không có cơ hội may mắn hơn,
chúng tôi đành đợi chờ một nơi tốt đẹp hơn”.
Don Bosco đã thuê một phòng ở tầng trệt của ngôi nhà, và ở
trong đó cha cố gắng sắp xếp để vừa dạy giáo lý vừa làm lớp
dạy học.
Cha Borel đã tìm cách nâng tinh thần của tất cả mọi người dậy
với một bài giảng đã trở nên nổi tiếng. Các trẻ em gọi đó là
“bài giảng những cây cải bắp”.
“Hỡi các con thiếu niên yêu thương, các con biết nếu những
cây cải bắp không được nhổ lên trồng lại, thì nó sẽ không sản
sinh thành các bắp cải đẹp và to tròn. – “vị linh mục cha hiền
nhỏ bé đó đã bắt đầu lên tiếng khi làm cho toàn thể lũ trẻ cười
rộ -. Vậy, Nguyện Xá của chúng ta cũng vậy, và nhờ thế nó
liên tục tăng trưởng lớn hơn, mạnh hơn. Chúng ta hãy tin tưởng
và phó thác cho Chúa. Chắc chắn Chúa sẽ chúc lành cho chúng
ta, giúp đỡ và nghĩ đến chúng ta”.
Thế nhưng chỉ sau vài Chúa nhật đã diễn ra hàng loạt những
rắc rối.
Từ phòng thư ký của khu nhà máy xay lúa đã bay về Hội đồng
thành phố một lá thư với một danh mục kín đặc những lời buộc
tội nặng nề: bọn trẻ đang gây những thiệt hại nghiêm trọng cho
nhà thờ và cho các toà nhà, chúng là một sự "tụ họp có thể
được điều động trong trường hợp có cách mạng" (lời buộc tội

19.6 Page 186

▲back to top
rất nguy hiểm ở thời điểm ấy), và chúng hợp thành một vườn
ươm những cảnh đồi phong bại tục".
Do lệnh của ông Đô trưởng, một tiểu ban đã đến hiện trường để
điều tra về những gì đang xảy ra. Người ta bắt gặp những cái
cớ gây oán hận vẫn thường thấy: bọn trẻ gây ồn ào, một bức
tường bị rạch bằng vữa đinh. Nhưng không hề có cách mạng
hoặc một vụ đồi phong bại tục nào cả (đã là nguyên nhân của lá
thư). Sự giận dữ của những người thuê các nhà kế bên, những
tiếng ca, những tiếng hò la, những trò chơi ồn ào, phá rối sự
yên tĩnh của ngày Chúa nhật.
Don Bosco rất khổ tâm trước những lời vu khống (bao giờ
cũng để lại những tì vết), nhưng còn ít hơn nhiều so với những
quyết định đã được chuyển đến ngài: Hội đồng thành phố
không thu hồi giấy phép đã cấp nhưng, ngày 1 tháng 1, sẽ
không triển hạn giấy phép hiện hành. Thư thông tri chính thức
sẽ đến tay ngài vào tháng 11. Trong khi chờ đợi, ngài nên "tỏ
ra biết điều".
Don Bosco đã tỏ ra như vậy. Kể từ giờ phút ấy, ngôi nhà thờ
trong khu nhà máy xay lúa chỉ được ngài dùng làm điểm tập
kết. Từ nơi này, ngài đưa bọn trẻ đến chơi trên những vùng
đồng không nhà trống nằm dọc theo dòng Dora. Để cầu
nguyện, họ đến nhà thờ Đức Mẹ trên Cột cao ở Pilier, ở Sassi,
hoặc nhà thờ Đức Mẹ Đồng quê. "Trong các nhà thờ ấy, ngài
viết, tôi làm lễ, giảng Phúc âm. Chiều tối, tôi dạy giáo lý trong
chốc lát, kể chuyện, rồi chúng tôi hát vài bài ngợi khen Chúa
và Đức Mẹ. Sau đó là những trò ảo thuật và dạo chơi cho tới
giờ trở về gia đình. Người ta cứ ngỡ là tình huống cam go ấy sẽ
làm tiêu tan thành mây khói mọi ý nghĩ về Nguyện Xá; trái lại,
số lượng các trẻ em đã gia tăng một cách đáng ngạc nhiên".
"Lấy đi, bé Micae, lấy đi"

19.7 Page 187

▲back to top
Gần khu nhà máy xay lúa, tháng 9, Don Bosco đã có một trong
những cuộc gặp gỡ quan trọng nhất đời ngài. Bọn trẻ chen chúc
trước mặt ngài để mỗi đứa nhận một mẫu ảnh đeo. Đứng riêng
rẽ đằng xa, một đứa trẻ tám tuổi với một băng tay màu đen trên
cánh tay trái. Cha nó đã qua đời cách đó hai tháng. Nó chẳng
thích thú gì chuyện xô lấn trong đám đông, hích cùi chỏ nhau
để dành chỗ. Những mẫu ảnh đeo đã hết sạch, chẳng còn gì cho
nó nữa.
Lúc ấy, Don Bosco tiến lại gần nó và mỉm cười bảo nó:
"Lấy đi, bé Micae, lấy đi".
Lấy cái gì chứ? Vị linh mục kỳ lạ mà nó mới gặp lần đầu ấy
chẳng cho nó cái gì cả. Ngài chỉ chìa ra cho nó bàn tay trái của
ngài. Và, với bàn tay phải, làm bộ cắt bàn tay trái làm hai.
Thằng bé ngước mắt nhìn, vẻ như dò hỏi. Vị linh mục bảo nó:
"Hai chúng ta, rồi đây, cái gì chúng ta cũng sẽ chia đôi với
nhau cả".
Don Bosco thấy gì lúc ấy? Ngài sẽ chẳng bao giờ nói ra, nhưng
thằng bé ấy sẽ là cánh tay phải của ngài. Là đấng kế vị đầu tiên
của ngài ở chóp đỉnh Tu hội Salêdiêng.
Nó tên là Micae Rua. Nó chẳng hiểu câu nói ấy nghĩa là gì, dù
là lúc ấy hay cả nhiều năm sau này nữa. Nhưng nó đã gắn bó
với vị linh mục ấy, vì gần ngài nó cảm thấy sung sướng và như
được đổ đầy hơi ấm.
Nó thường trú tại Michelino, cơ sở sản xuất vũ khí của hoàng
gia, nơi cha nó trước kia đã làm công nhân ở đó, bốn người
trong số các anh trai của nó đã chết yểu, còn nó thì rất mảnh
khảnh yếu ớt. Vì lẽ đó, mẹ nó không cho nó đến Nguyện Xá
thường xuyên. Nhưng nó cũng đã gặp Don Bosco tại trường
các Sư Huynh các Trường Công giáo, nơi nó đang theo học
một lớp sơ cấp. Sau này, nó sẽ thuật lại:

19.8 Page 188

▲back to top
"Khi Don Bosco đến dâng lễ và giảng cho chúng tôi, ngài vừa
bước vào nhà nguyện thì một luồng điện dường như chuyền
qua khắp lượt bọn trẻ đông đúc ấy. Chúng tôi đều đứng cả dậy,
ra khỏi chỗ của mình và đến xúm xít quanh ngài. Ngài phải mất
khá lâu mới tới được phòng áo. Các sư huynh tốt bụng chẳng
có cách nào ngăn chặn được cảnh mất trật tự lộ liễu ấy. Khi các
linh mục khác tới nơi, không bao giờ xảy ra chuyện tương tự
như vậy".
Những cuốn sách viết trong những đêm thức dài...
Tháng 10 có xảy ra một biến cố trọng đại: Lịch sử Hội thánh
dùng cho các trường học đã được phát hành. Nhờ rút bớt giờ
ngủ, dưới ánh sáng một ngọn đèn dầu hôi, ngài đã gấp rút hoàn
tất nó bằng một tuồng chữ không sao đọc nổi, đây là cuốn sách
giáo khoa đầu tay mà Don Bosco đã viết cho các trẻ em. Lịch
sử Hội thánh không phải là một tác phẩm "có tính khoa học":
không một cuốn sách nào của Don Bosco sẽ là một tác phẩm
thuộc thể loại này. Đúng ra, sách rất bình dân, phù hợp với đầu
óc đơn sơ và trình độ văn hoá hạn chế của bọn trẻ của ngài.
Sách nói về các Đức Giáo Hoàng, các sự kiện chói sáng nhất
của Hội thánh, nó vẽ lại chân dung các vị thánh, mô tả các cơ
quan từ thiện nở rộ ở mọi thời đại trong cộng đồng dân Chúa.
Tiếp theo là Lịch Sử Thánh (1847), Phép Đo Lường Bằng
Thước Tấc (1849), Lịch Sử Nước Ý (1855).
Song song với các sách giáo khoa, Don Bosco sẽ còn tìm được
thời gian để viết rất nhiều sách khác và những tập sách nhỏ:
hạnh các thánh, sách đọc để giúp thư giãn, sách kinh nguyện và
dạy đạo. Không một cuốn nào sẽ là một kiệt tác phẩm, nhưng
mỗi cuốn đều là một chứng tích của tình yêu của ngài đối với
các con cái ngài, đối với đám dân nghèo hèn, đối với Hội
thánh. Và nhiều cuốn sẽ là nguyên nhân của bao khốn khó cực

19.9 Page 189

▲back to top
khổ sẽ xảy đến với ngài: thậm chí người ta sẽ tính đánh ngài
ngất xỉu để ngăn không cho ngài viết.
Ba phòng trong nhà Cha Moretta
Tháng 11, thư của Hội đồng thành phố đến cùng lúc với mùa
đông khắc nghiệt. "Thời tiết, ngài viết, không còn thích hợp
cho những cuộc dạo chơi và những chuyến đi chơi xa bên
ngoài thành phố. Thống nhất ý kiến với nhà thần học Borel,
chúng tôi đã thuê ba gian phòng trong nhà Cha Moretta".
Hiện nay, ngôi nhà ấy không còn nữa. Bức tường cuối cùng
của nó đã bị nuốt chửng vào nhà thờ phụ của giáo xứ Đức Mẹ
phù trợ, về bên phải khi ta đi xuống hướng về phía Vương cung
Thánh đường đồ sộ nguy nga.
"Trong ba gian của nhà Moretta, chúng tôi đã qua bốn tháng
chật chội, nhưng hài lòng vì ít ra cũng có thể tiếp bọn trẻ, đứng
lớp cho chúng, cống hiến cho chúng khả năng xưng tội".
Don Bosco mỉm cười nhớ lại là, trong mấy gian phòng ấy, ngài
đã buộc lòng phải vi phạm điều thứ hai trong số các quyết định
xa xôi hồi ngài còn ở chủng viện: để giúp vui cho bọn trẻ trong
một nơi nhỏ hẹp như vậy, ngài đã làm lại những trò ảo thuật.
Ngài sẽ không dừng lại nữa vì các kết quả đã rất là kỳ diệu.
Ngài cũng bắt đầu, với sự tiếp tay của nhà thần học Carpano,
một lớp tối thường xuyên, rất khác với những bài học tuỳ tình
thế mà ngài đã giảng dạy từ trước đến nay.
Một dấu chấm hỏi lớn về Nguyện Xá
Tháng 12, sức khoẻ của Don Bosco sa sút một cách đáng lo
ngại. Ngài đang là linh mục phụ trách một bệnh xá dành cho
các bé gái, từ ba đến mười hai tuổi. Ngài rất bận rộn trong các
khám đường, ở Cottolengo, trong các cơ sở giáo dục của thành
phố. Ngài làm việc trong Nguyện Xá của mình, giảng dạy
trong các lớp tối, đến thăm bọn trẻ tại những nơi chúng làm

19.10 Page 190

▲back to top
việc. Và mùa đông 1845-1846 được dự đoán là sẽ cực kỳ giá
lạnh.
Mùa đông ở Torino đến trễ, càng hay! Nhưng nó bao phủ
những con phố chật hẹp bằng những đống tuyết màu xám tro
khiến cho thành phố lúc nào cũng lạnh triền miên và ảm đạm
suốt mấy tháng dài.
Buồng phổi của Don Bosco, trong mấy tháng ấy, cho thấy một
tính mỏng dòn đầy báo động. Nhà thần học Borel đã nhận thấy
thế và liền thông báo kịp thời cho bà hầu tước. Bà biếu Don
Bosco một trăm lires để dùng cho Nguyện Xá và truyền cho
ngài "phải tạm ngưng mọi công việc của mình cho đến lúc đã
hoàn toàn bình phục".
Don Bosco tuân lệnh và cắt đứt mọi cam kết ngoại trừ việc nào
có dính líu đến bọn trẻ của ngài. Cái lợi mà ngài thu được
chẳng lấy gì làm sáng chói và ngài sẽ sớm nhận thức được điều
đó.
Nhưng mối bận tâm về sức khoẻ của ngài chẳng đáng kể là
bao, lúc này, so với những đám mây đen chồng chất trên
Nguyện Xá. Ngài viết với vẻ cay cú: "Chính vào thời điểm này
đã loan truyền rộng rãi lời đồn thổi kỳ quặc: một số người đã
gọi Don Bosco là nhà cách mạng, một số khác lại nói là ngài
điên, thậm chí là kẻ rối đạo".
Những người đầu tiên đặt dấu chấm hỏi về công cuộc này là
các cha xứ trong vùng. Trong một cuộc họp của các ngài vào
đầu năm 1845, thì một trong các vấn đề bàn luận sôi nổi là việc
dạy giáo lý cho các trẻ em. Vị cha xứ của nhà thờ Cát-minh lợi
dụng dịp này để nói lên sự hoài nghi của ngài về Nguyện Xá
của Don Bosco: các trẻ em tách ra khỏi các giáo xứ của mình,
đến độ chúng chẳng biết ai là cha xứ của chúng. Vậy đó là
chuyện tốt hay xấu? Các cha xứ khác cũng đều lo lắng như vị
này.

20 Pages 191-200

▲back to top

20.1 Page 191

▲back to top
“Đây chẳng phải là một tham vọng hay nỗi ghen tương đáng
thương hay sao? – Don Bosco liền lên tiếng đáp trả ngày - các
vị ấy có thực sự khao khát ơn cưu rỗi của các linh hồn chăng?”.
để làm sáng tỏ tình hình, họ đã cử hai vị đại diện của họ đến.
Don Bosco trong Hồi Ký Nguyện Xá, đã xây dựng lại cuộc đối
thoại mà ngài đã phải lập đi lập lại nhiều lần trong những năm
đó: Đây là một luận chứng sống còn cho công cuộc của ngài.
Chúng ta chỉ xin kể lại ở đây những phần chính yếu thôi:
Nguyện xá này đưa các trẻ em xa khỏi giáo xứ. Vậy tại
sao Don Bosco không trả lại các trẻ em cho các giáo
xứ?
Bởi vì phần lớn các trẻ em này không biết có cha xứ,
cũng không biết cả các giáo xứ; chúng hầu hết là những
trẻ ở phương xa tới đây để tìm việc làm. Chúng gốc ở
Val d’ Aosta, Savoy, Biella, Navara, Lombardia.
Tại sao lại không giúp đưa chúng vào các giáo xứ của
chúng ?
Không thể được, nào là ngôn ngữ khác nhau, rồi chuyện
chúng chẳng chắc chắn ở một nơi nào cũng là một cản
trở lớn. Chúng ta cứ thử xem, với điều kiện là mỗi cha
xứ đến thu thập các trẻ của mình lại, và dẫn chúng về
giáo xứ của mình. Nhưng như vậy vẫn còn có vấn đề:
Không ít em trong số chúng là những đứa chơi bời,
phóng đãng, vô kỷ luật. Chỉ có việc làm sao biết thu
nhận chúng bằng các trò chơi, các cuộc đi dạo, kèm
theo giáo lý và kinh nguyện. Mỗi một giáo xứ phải có

20.2 Page 192

▲back to top
một nơi nhất định để qui tụ chúng và tổ chức các trò vui
chơi cho chúng.
Chuyện này thì sao có thể làm được? Chúng tôi không
có các nơi chốn, các linh mục thì lại bận bịu những việc
khác nữa vào Chúa Nhật.
Câu kết luận y như chúng ta đã nói đến ở phía trước.
Nó được thông báo cho Don Bosco trong ít ngày sau
đó: “Vì không có thể tạo được nơi mỗi giáo xứ một
Nguyện Xá, nên các cha xứ khích lệ linh mục Gioan
Bosco tiếp tục công việc Nguyện Xá”.
Điểm nghi ngại thứ nhất đã có câu trả lời. Nhưng vào
mùa xuân sắp tới, nhiều vấn nạn khác còn được nêu lên,
và có tính cách hăm dọa dữ dằn hơn.
Một Nguyện Xá hoàn toàn khác
Chúng ta có thể xác định các đặc tính của nguyện xá Thánh
Phanxicô Salê. Trước hết Don Bosco đã kín múc các kinh
nghiệm của các nguyện xá tại Milano, Brescia, và Roma của
thánh Philipphê Neri xưa. Ngài đã đi theo bước chân của người
tiền nhiệm Cocchi của ngài tại Torino. Nhưng Don Bosco đã
ghi dấu ấn trên Nguyện Xá của ngài bằng nhân cách của ngài.
Chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm có tính chất Don
Bosco sau đây:
Các nguyện xá xưa đều gắn liền với các giáo xứ. Don Bosco đã
tạo nên một Nguyện Xá vượt ra ngoài lãnh giới của giáo xứ, và
nó trở thành “giáo xứ của các trẻ không có giáo xứ”, như Đức
Tổng Giám Mục Fransoni đã phát biểu.

20.3 Page 193

▲back to top
Một vị cha xứ truyền thống gợi hứng lên “một sự hiện diện yêu
thương nghiêm khắc” khiến cho niềm vui ở trong mức độ giới
hạn và sự hò hét bị giảm bớt lại. Don Bosco lại gợi hứng “một
tình yêu thương vui tươi”, trong đó chính vị linh mục là người
khởi xướng các trò chơi náo nhiệt đưa vào các trò chơi đó
những nhịp độ vui tươi.
Các Nguyện Xá truyền thống chỉ thuần úy là khánh lễ viện, và
thường giới hạn giờ giấc tham dự của các trẻ em vào số hai, ba
giờ buổi chiều Chúa nhật mà thôi. Don Bosco nới rộng giờ giấc
tham gia trong suốt cả ngày lễ. Còn trong các ngày khác trong
tuần, thì Nguyện Xá tổ chức các giờ học lớp ban chiều cũng
như các cuộc gặp gỡ các em tại nơi làm việc của các em.
Các trẻ em lui tới một nguyện xá thông thường, thì tới giáo xứ,
và các em tìm thấy ở đó một nhà thờ được xác định rõ ràng.
Ngược lại được khích lệ bởi tình trạng sống trong cảnh di trú
liên tục, các trẻ em của Nguyện Xá Thánh Phanxicô Salê
đến để tìm gặp Don Bosco, qua cả ngày lễ với Ngài. Trung tâm
của Nguyện xá không còn phải là nhà thờ giáo xứ, mà là chính
con người Don Bosco, sự hiện diện liên tục và đầy phấn khích
của ngài. Mối giao tiếp không có tính cách cơ chế, mà là thân
tình cá nhân.
Các nguyện xá khác chọn những trẻ em tốt hơn. Chính các cha
mẹ đem trẻ em đến, đảm bảo hạnh kiểm tốt của chúng. Don
Bosco thì lại chọn đường hướng trái ngược. Ngài bắt đầu từ các
thanh thiếu niên ở tù vì phạm pháp, và các em này không biết
tìm đâu ra một người bạn chăm lo giáo dục cho chúng. Sau đó
ngài tiếp tục với các em thợ xây trẻ mà gia đình các em đều ở
xa. Chúng là “những trẻ em bị bỏ rơi và gặp nguy hiểm. chúng
là hạt nhân then chốt của Nguyện Xá Don Bosco mà cánh cửa
mở ra cho tất cả mọi bạn trẻ. Dĩ nhiên Don Bosco phải đòi hỏi
nơi các trẻ Nguyện Xá một sự tối thiểu của tấm lòng sẵn sàng,
và biết đón nhận, biết cộng tác. Ngài không thể đón nhận

20.4 Page 194

▲back to top
những hạng du côn, lưu manh từ các nhóm băng đảng, cũng
như những trẻ bị bỏ rơi không có một chút ý muốn tham dự cầu
nguyện tại nhà thờ. Và dĩ nhiên Don Bosco luôn liên tục theo
dõi chúng, lôi kéo chúng lại với ngài từng em một, hay ít nhất
là tìm cách lôi kéo chúng, lúc thì thành công, lúc thì thất bại.
Vụ treo cổ ở Alexandria
Trong năm 1846, một thanh niên hai mươi hai tuổi đã trở thành
bạn thân của Don Bosco tại khám đường, đã bị kết án tử hình
cùng lúc với thân phụ của anh ta. Vụ hành quyết sẽ diễn ra ở
Alexandria. Khi Don Bosco đầy lo lắng, đến gặp anh ta, chàng
thanh niên đã bật khóc và xin ngài đi kèm anh ta trong chuyến
đi cuối cùng. Don Bosco cảm thấy mình không có đủ can đảm,
ngài đã không có sức để hứa hẹn.
Người ta giải các tử tội đi.
Don Cafasso phải đến gặp họ với toa xe chở thư để hỗ trợ họ
trong những giờ phút cuối cùng. Vừa hay tin là Don Bosco đã
từ chối, Don Cafasso liền cho gọi ngài đến và lớn tiếng la:
- Cha không thấy rằng như thế là tàn bạo sao? Cha hãy chuẩn
bị đi, chúng ta sẽ cùng đáp xe lửa đến Alexandria.
- Tôi sẽ không đời nào chịu nổi cảnh tượng ấy.
- Cha hãy lẹ lên, xe thư không có chờ chúng ta đâu.
Họ tới Alexandria hôm trước ngày hành quyết. Chàng thanh
niên khi thấy Don Bosco bước vào xà lim của mình, đã ôm
choàng lấy cổ ngài và khóc oà lên. Don Bosco cũng khóc. Họ
cùng thức với nhau đêm cuối cùng để cầu nguyện và để nói về
Chúa.
Lúc hai giờ sáng, ngài ban phép lành tha tội cho anh ta, làm lễ
cho anh ta ngay trong xà lim và họ cùng đọc kinh tạ ơn với
nhau.

20.5 Page 195

▲back to top
Chuông nhà thờ chính toà rót từng tiếng rời rạc cầu cho kẻ hấp
hối. Cửa xà lim bật mở, cảnh sát bước vào cùng với đao phủ,
người này (theo tập tục) liền quì xuống để xin lỗi kẻ tử tội. Rồi
người ta cột hai tay anh ta và quàng sợi dây thừng vào cổ anh
ta.
Mấy phút sau, từ vòm cổng của khám đường tiến ra chiếc xe bò
chở tử tội với Don Bosco đứng kế bên. Đi ngay phía sau là
chiếc xe bò chở người cha, được hỗ trợ bởi Don Cafasso. Dân
chúng, câm lặng, chen chúc nhau trên các đường phố.
Khi giảo hình đài xuất hiện đàng xa với mấy cái giá treo cổ,
Don Bosco bỗng tái mặt và ngất xỉu. Don Cafasso, nãy giờ vẫn
quan sát ngài, liền vội vã can thiệp để dừng xe bò lại và chuyển
ngài khỏi xe.
Đám rước ảm đạm đến giảo hình đài và vụ hành quyết đã diễn
ra. Khi Don Bosco hồi tỉnh, mọi sự đã kết liễu. Ngài cảm thấy
nhục nhã vì chuyện ấy. Ngài khẽ nói với Don Cafasso:
Tôi lấy làm tiếc cho thanh niên ấy. Anh ta đã hết lòng tin tưởng
nơi tôi ...
Cha đã làm những gì mình có thể. Phần còn lại, hãy để Chúa
nhân lành lo.
Lần nữa, lại bị đuổi
Tháng 3 năm 1846, Don Moretta, một vị linh mục tốt bụng,
đến gặp Don Bosco. Ngài cầm trong tay một xấp thư. "Những
người hàng xóm, Don Bosco viết, điên đầu vì những tiếng la,
vì sự huyên náo do những chuyến đi đi về về của bọn trẻ của
tôi, đã tuyên bố là họ sẽ nhất loạt bỏ đi nếu những cuộc hội họp
của chúng tôi không ngưng ngay tức khắc".
Ngài thèm đối đầu với họ. Lẽ nào lại không một ai chịu nổi
những con người trẻ tuổi? Những người lớn đầu ấy, bộ chính

20.6 Page 196

▲back to top
họ cũng chưa từng là những con người trẻ tuổi bao giờ sao?
Cuối cùng, ngài đặt một tay lên vai bạn Don Moretta của mình:
"Bạn khỏi lo, tụi tôi sẽ ra đi".
Ngài không biết đi đâu, nhưng may thay, mùa xuân sắp sửa tới,
sẽ không nhất thiết phải trú ẩn dưới một mái nhà nữa.

20.7 Page 197

▲back to top
Phụ Chương
VĂN ĐỐI THOẠI CỦA DON BOSCO
Có lẽ một số độc giả nhẹ nhàng nhận xét rằng “Văn đối thoại
của các bài tường thuật tuy làm cho sự việc kể ra có tính cách
sống động, nhưng có thể làm mất tính chất chính xác của lịch
sử.
Tôi xin trả lời rằng những câu đối thoại thường xuyên trong
sách này không phải là do tôi tạo nên, vì những lý do sau:
1. Cuốn “Hồi Ký Nguyện Xá” do chính Don Bosco viết
chiếm 320 trang trong cuốn sách này thì đã có 120
trang chứa những câu đối thoại rồi. Văn đối thoại cách
kể chuyện của Don Bosco.
2. Cuốn “Cuộc Đời Mẹ Margarita” do Cha Lemoyne viết
khi Don Bosco còn sống, một nửa đã là văn đối thoại
rồi. Tác giả viết: “Những gì liên quan đến Mẹ Margarita
thì tôi viết lại như chính miệng của Don Bosco nói ra,
nhờ tôi có hạnh phúc được đàm thoại với ngài vào
những chiều tối trong suốt hơn sáu năm. Tôi đã hỏi ngài
lúc này hay lúc khác về những gì ngài đã nói nhiều năm
trước kia và tôi đã viết lại cách trung thành bằng giấy
mực. Tôi thật ngạc nhiên trước sự chính xác của các lời
ngài nói, và ngài lập lại các lời ấy luôn y như nhau như
thể ngài đọc chúng ra từ một cuốn sách. Tôi cũng xin
đảm bảo là tôi ghi lại cách trung thực các lời ấy để làm
kho tàng học hỏi cho các hội viên của tôi (M. B. I, 121).
Theo lời các nhân chứng thì chính tay Don Bosco sửa
lại bản thảo của sách chuyện Mẹ Margarita này “trong
khi khóc vì cảm động”.

20.8 Page 198

▲back to top
3. Cha Lemoyne đã xuất bản cả thảy 7,800 trang Hồi Sử
trong 9 cuốn sách, để tường thuật cuộc đời Don Bosco
từ đầu cho đến năm 1870. Trong lời tựa thứ nhất của
mình, cha đã viết: “Tất cả các câu chuyện, các lời đối
thoại, các sự việc mà tôi cho là đáng ghi nhớ, thì tôi viết
lại y nguyên từng chữ, từng lời theo như những nhân
chứng đã trình bày”. Và trong lời tựa cuốn VIII:
“Chúng tôi xin nhắc lại rằng những gì chúng tôi đã trình
bày và diễn tả chính là một lời tường thuật trung thành
về những gì đã xẩy ra. Có cả hằng trăm người làm
chứng về đời sống của ngài... rất nhiều người trong số
đó đã để lại bài viết về những gì đã thấy về ngài (Don
Bosco) và đã nghe từ chính miệng ngài. Thậm chí các
lời đối đáp được duy trì và được chuyển đạt lại chính là
tất cả những gì xẩy ra trước mặt của họ”. Việc xuất bản
9 cuốn sách xẩy ra khi các nhân vật chính trong đó vẫn
còn sống (kể từ Don Rua cho đến Don Cagliero).
Những bản thảo đã được chính cha Paolo Albera duyệt
lại (ngài là “cậu bé Paolo” đã từng sống với Don Bosco
kể từ năm 1858). Cha Lemoyne đã qua đời trong khi
đang in cuốn Hồi sử IX. Cha Albera, khi giới thiệu nó
cho các Salêdiêng, đã viết: “Tất cả những ai biết cha
Lemoyne đã chuyên chăm tới mức nào để tập hợp lại
toàn bộ chất liệu của cuốn Hồi Sử IX, và ngài đã viết lại
các tài liệu ấy với tất cả sự chuyên chăm và lòng yêu
mến suốt ngày này sang ngày khác, tất càng quí trọng
như cuốn sách Hồi Sử ấy biết bao!” (Công Báo của Ban
Thương Hội Đồng,” ngày 24-4-1917).
4. Cha Bonetti kể lại một lịch sử Nguyện Xá rất phong
phú các đoạn đối thoại trên báo Salêdiêng khi Don
Bosco còn sống. Chính Don Bosco đã duyệt lại cẩn
thận những bản văn đó, ngay cả trong các cuộc hành
trình sang Tây Ban Nha của ngài (1886), ngài xin gửi

20.9 Page 199

▲back to top
cho ngài các bản thảo trước, rồi gửi lại bản thảo với các
nhận xét của ngài. Cha Ceria, người biên soạn 9 cuốn
Hồi Sử, trong lời tựa ngài viết cho cuốn thứ XII, đã
khẳng định về cách thức kể chuyện đặc trưng của Don
Bosco: “Chân phước Don Bosco trong khi kể lại những
điều đã xẩy ra cho ngài, thường sử dụng lối văn hỏi và
đáp, theo đó trí nhớ của ngài cung cấp cho ngài sự việc
được ghi nhớ. Cha Lemoyne cũng như những người
khác đã nghe và đã ghi nốt, rồi biên lại ý nguyên như
vậy trong văn bản họ viết”.
Những “lời đối thoại của Don Bosco” mà chúng ta tìm thấy
trong các nguồn văn để nhắc nhở đến ở trên, tôi nghĩ là mình
đã chuyển tải chúng lại với sự tôn trọng các nguồn văn. Tôi chỉ
sửa lại cho lời văn thông thoáng hay tóm tắt chúng lại thôi.

20.10 Page 200

▲back to top
Chương 20
VÔ VỌNG TRÊN ĐỒNG HOANG
MỪNG PHỤC SINH DƯỚI HẦM MÁI CHE
Don Bosco đã thuê được một đồng cỏ nhỏ có hàng dậu bao
quanh, không xa ngôi nhà Moretta bao nhiêu, chỉ đi khoảng
năm chục bước là tới nơi.
Ngày nay, khi ta bước đi trên đường Đức Mẹ Phù Hộ, bên tay
phải, trước khi băng ngang đường Cigna, ta thấy một khu nhà
chiếm một dải đất nằm dọc theo Công ty xuất bản S.E.I... Đây
là nơi xưa kia đã là đồng cỏ của anh em nhà Filippi.
Một căn nhà gỗ mục ngay chính giữa; người ta xếp vào đó
những trang thiết bị của các trò chơi. Chung quanh, mỗi Chúa
nhật, ba trăm trẻ em tha hồ rượt đuổi nhau và nô đùa thoả thích.
Trong một góc, ngồi trên một chiếc ghế băng, Don Bosco giải
tội.
Khoảng mười giờ, từng hồi trống giục giòn giã; mọi người xếp
thành từng hàng dài. Tiếng kèn Clairon vang lên và tất cả lên
đường: về hướng nhà thờ Đức Bà An Ủi hoặc núi các tu sĩ
dòng Capuxinô. Tại đó, Don Bosco làm lễ, phân phát Bánh
Thánh, rồi đến bữa điểm tâm.
Một thằng bé lạ nước lạ cái, là dân địa phương, tên Phaolô
Lino làm phụ hồ, một hôm đã đến nhập bọn với bọn trẻ trên
đường đến núi Các Tu sĩ dòng Capuxinô. Nó kể lại:
"Thánh lễ được cử hành, rất đông người chịu lễ, rồi tất cả đều
ra sân để ăn điểm tâm. Don Bosco thấy tôi và tiến lại gần:
- Con tên chi?
- Phaolô Lino.

21 Pages 201-210

▲back to top

21.1 Page 201

▲back to top
- Con ăn sáng chưa?
- Thưa ông, chưa, vì con chưa xưng tội và vì con không có chịu
lễ.
- Nhưng đâu có cần phải xưng tội hay chịu lễ mới được ăn
sáng.
- Vậy phải làm gì ạ?
- Phải cảm thấy thích ăn.
Ngài dắt tôi lại gần thúng và cho tôi đầy ắp hai tay toàn là bánh
trái cây. Tôi xuống dưới với ngài và tôi đã chơi mãi đến khi
trời tối. Kể từ giây phút ấy và trong nhiều năm liền, tôi đã
không còn rời nguyện xá nữa, cũng không hề bỏ Don Bosco, là
người đã giúp ích cho tôi rất nhiều".
Một tối ngày lễ, đang khi bọn trẻ nô đùa, Don Bosco đã thấy,
bên kia hàng đậu, một thằng bé trạc mười lăm tuổi. Ngài gọi
nó:
- Vào đi, con từ đâu tới? Tên con là gì?
Thằng bé không đáp.
- Ủa, con bị gì vậy? Con bệnh hả?
Nó vẫn ngập ngừng. Rồi, mở hé hai hàm răng nãy giờ vẫn cắn
chặt, nó nói cộc lốc:
- Con đói.
Thúng trống trơn. Don Bosco cho người đi kiếm bánh trong
một gia đình hàng xóm và để yên cho nó ăn. Rồi, chính thằng
bé bắt đầu kể lể như muốn trút bỏ một gánh nặng trong lòng:
- Con là thợ làm các mặt hàng bằng da, nhưng ông chủ đã đuổi
con vì con không thạo việc. Gia đình con còn ở lại dưới quê.

21.2 Page 202

▲back to top
Đêm qua, con đã ngủ trên các bậc thang trước nhà thờ chính
toà và sáng nay, con đã tính ăn cắp vì lúc ấy con đói bụng. Con
đã thử xin của bố thí, nhưng con đã tự nhủ: "Đầy đủ sức khoẻ
mạnh mẽ như mày, hãy đi làm việc đi". Rồi con đã nghe bọn
trẻ ở đây hò la nên con đã lại gần để coi thử.
- Con hãy nghe đây, chuyện tối nay và đêm nay, con cứ để cha
lo. Ngày mai, chúng ta sẽ đến gặp một ông chủ tốt bụng. Con
sẽ thấy là ông ta sẽ nhận con vào làm. Và nếu con muốn trở lại
đây vào các ngày lễ, con sẽ làm cha rất vui lòng.
- Con rất sẵn lòng trở lại.
Trong những tháng sống trên đồng cỏ Filippi, những "tin đồn
kỳ quặc" loan truyền về Don Bosco đã cụ thể hoá bằng ba mối
đe doạ: sự chống đối của nhà cầm quyền dân sự, niềm xác tín
là Don Bosco bị điên (do đó, các cộng sự viên của ngài bỏ rơi
ngài) và kế hoạch bắt giữ toàn bộ nhân một vụ giải thể tối hậu.
Bà hầu tước và các cảnh vệ
Những năm ấy là những năm của cách mạng, và ba trăm thanh
thiếu niên đi thành hàng ngũ theo tiếng kèn Clairon và tiếng
trống qua cửa ngõ dẫn vào kinh thành, không khỏi khiến vị chỉ
huy lực lượng cảnh sát thấy lo ngại. "Đó không chỉ là những
đứa con nít, Don Lemoyne viết, mà còn có cả những thanh niên
trẻ trung, lực lưỡng, táo bạo, không thể nào không dắt kè kè
trong mình con dao để phòng thân".
Hầu tước Michel de Cavour (cha của Camille và của Gustave),
thẩm phán của đô thành và do đó, là cảnh sát trưởng, đã cho
đòi Don Bosco đến. Cuộc nói chuyện diễn ra lúc đầu là giống
với ngoại giao, rồi tiếp tục bằng giọng gay gắt đằng đằng sát
khí. Don Bosco hiểu rằng người ta đang đột ngột ép uổng ngài
phải hạn chế số trẻ em, phải tránh cho chúng vào thành theo
đội ngũ, phải đuổi bớt những đứa lớn nhất vì bị coi là những

21.3 Page 203

▲back to top
phần tử nguy hiểm nhất. Ngài không chịu. Thế là Cavour bắt
đầu gào lên:
- Nhưng, cha được cái giải gì mà đi lo cho bọn trẻ trời đánh
thánh vật ấy chứ? Hãy cứ để mặc chúng ở nhà của chúng. Cha
chớ có ngu mà "ách giữa đàng, mang vào cổ", kẻo vụ việc này
sẽ gây hoạ cho mọi người.
- Tôi dạy giáo lý cho bọn trẻ xấu số, Don Bosco lì lợm đáp, và
chuyện ấy không thể gây hoạ cho bất cứ ai. Vả lại, tôi làm việc
nào cũng có phép của Đức Tổng Giám mục cả.
- Tổng Giám mục biết những chuyện này hả? Tốt lắm! Nếu
vậy, tôi sẽ nói với ngài Fransoni nhằm chấm dứt những chuyện
ngu xuẩn ấy.
Đức Cha Fransoni chẳng chấm dứt chuyện nào hết, ngược lại,
ngài còn công khai lên tiếng bênh vực cho Don Bosco nữa.
Kể từ ngày ấy, ven cánh đồng cỏ mà bọn trẻ nô đùa, các cảnh
vệ thuộc lực lượng cảnh sát bắt đầu luân phiên canh gác. Don
Bosco bất chấp điều ấy, nhưng ngài bắt đầu cảm thấy khó chịu
"như đứng đống lửa, như ngồi đống than": chỉ cần ngài phạm
phải sự bất hợp lệ nhỏ nhặt nhất cũng đủ để nguyện xá của ngài
tiêu tùng luôn. Cavour đang ở thế phượng phong.
Don Bosco điên rồi chăng?
Ngoài cả ý muốn của ngài, chính Don Bosco lại là kẻ đi cung
cấp lý do cho tiếng đồn là ngài đã bị điên. Nhằm động viên bọn
trẻ khi chuyển chúng từ một nghĩa trang đến một nhà máy xay
lúa, từ một ngôi nhà xập xệ đến một cánh đồng hoang, Don
Bosco đã kể lại các giấc mơ của mình.
Ngài đã nói đến một nguyện xá rộng lớn và khang trang, những
Thánh đường, những toà nhà, những trường học, hàng ngàn trẻ
em, những linh mục sẵn sàng phục vụ chúng hết mình. Tất cả

21.4 Page 204

▲back to top
những chuyện ấy chẳng ăn khớp tí nào với thực tế phũ phàng
của cuộc sống hàng ngày.
Bọn trẻ là những kẻ duy nhất có khả năng mơ mộng ngay giữa
ban ngày và chúng tin ở Don Bosco. Chúng lặp lại ở gia đình,
tại nơi làm việc, những gì ngài đã kể cho chúng nghe. Là điều
bình thường khi công chúng kết luận: "Tội nghiệp chưa! Quen
riết thành tật mà. Cứ sống mãi giữa cảnh ồn ào inh tai nhức óc
ấy, cha ấy thế nào cũng có ngày vô nhà thương điên mà!".
Đây không phải là một lời trù ẻo do ai đó tung ra, mà là một dư
luận phổ biến rộng rãi, Micae Rua nhớ lại: "Tôi vừa giúp lễ
xong ở cơ xưởng sản xuất vũ khí và đang chuẩn bị ra về thì vị
linh mục quản lý nhà thờ hỏi tôi: "Con tính về đâu?" - "Đến
nhà Don Bosco ạ, hôm nay là Chúa nhật" - "Con không nắm
bắt được tình hình ư? Ngài bệnh rồi, mà lại là một chứng bệnh
không dễ gì chữa lành đâu". Tin ấy đánh thẳng vào tim tôi, gây
cho tôi một nỗi đau khôn tả. Giả như tôi có được tin cha đẻ của
mình ngã bệnh, chắc tôi cũng không đau đớn hơn thế được. Tôi
chạy về nguyện xá và sửng sốt, thấy Don Bosco đang tươi cười
vẫn như mọi khi. "Ngài chết mê chết mệt vì bọn trẻ đến nỗi
ngài đã hoá điên" chính là căn bệnh mà lúc này người ta đang
nói đến ở Torino.
Don Borel, cộng sự viên đồng thời là người bạn thiết thân, ra
sức ngăn Don Bosco đừng kể lại các giấc mơ của mình:
- Cha nói đến một Thánh đường, một toà nhà, một khu dành
cho các cuộc chơi. Nhưng, những thứ ấy đâu?
- Tôi không biết, nhưng chúng có thật, vì chính mắt tôi đã thấy
chúng, Don Bosco nói nhỏ.
Một hôm, trong phòng riêng của ngài, sau khi cố gắng hoài
công nhằm lôi kéo ngài về với thực tế, Bon Borel đã bật khóc.

21.5 Page 205

▲back to top
Cha vừa ra khỏi phòng vừa mếu máo: "Tội nghiệp cho Don
Bosco! Cha ấy đã điên thật rồi!".
Hình như Đức Tổng Giám mục đã cho vời một quan sát viên
tới để ghi nhận mức độ mất quân bình của Don Bosco, Don
Vincento Ponzatti và Don Lu-y Nasi, đã nhất trí với nhau để lôi
Don Bosco ra khỏi tình trạng đáng buồn ấy.
Có lẽ hai vị ấy đã dàn xếp một vụ thăm bệnh với một cuộc xét
nghiệm nghiêm túc tại bệnh viên tâm thần, nơi mà ngài sẽ có
thể theo đuổi cuộc điều trị cần thiết (tình hình y khoa, ở thời
đại ấy, giống hệt như tình hình y khoa mà hiện nay ta còn bắt
gặp ở một số làng quê lạc hậu thuộc thế giới thứ ba).
Một buổi chiều tối, Don Bosco đang dạy giáo lý thì một cỗ xe
ngựa đóng kín bưng ngừng bánh trước cửa phòng ngài. Don
Ponzatti và Don Nasi bước xuống khỏi xe và mời ngài cùng
tham gia một cuộc dạo chơi với họ.
- Cha đã mệt, hít thở không khí trong lành sẽ rất bổ ích cho
cha.
- Rất sẵn lòng. Để tôi đi lấy nón rồi sẽ theo hai cha.
Một trong hai người bạn mở cửa xe:
- Cha lên đi!
Nhưng Don Bosco đã đánh hơi thấy cái bẫy:
- Cảm ơn, tiền chủ hậu khách!
Sau khi nài nỉ, rồi để khỏi làm hỏng việc, hai cha nọ đành phải
lên xe trước. Hai vị vừa an toạ trong xe thì, bằng một thao tác
lẹ làng, Don Bosco đã đóng sập cửa xe lại và truyền cho người
đánh xe:

21.6 Page 206

▲back to top
- Đến nhà thương điên mau! Hai vị này đang được chờ đợi ở đó
đấy!
Nhà thương điên hoặc bệnh viện tâm thần, cách đó không xa.
Các y tá được báo trước đang đợi một linh mục. Họ lại thấy
xuất hiện những hai vị. Vị linh mục quản lý nhà viện phải can
thiệp để giải thoát cho hai kẻ xấu số.
Trò đùa thật hiểm ác, nhất nữa lại do Don Bosco đạo diễn chứ
không phải do hai linh mục bạn của ngài. Lúc này, Don
Ponzatti và Don Nasi hết sức phẫn nộ. Sau này, họ đã trở lại là
những người bạn tốt của Don Bosco. Don Nasi, cách riêng, sẽ
trở thành người hướng dẫn âm nhạc trong nguyện xá.
Tuy nhiên, trong khi chờ đợi, Don Bosco đã bị mọi người bỏ
rơi. Ngài đã cay cú ghi lại: "Ai nấy đều trốn chạy tôi. Các cộng
sự viên của tôi đã bỏ mặc tôi một mình giữa bọn trẻ gần bốn
trăm đứa".
Đây là lúc mà "lương tri" đứt đoạn, sụp đổ. Trong con người
của Don Bosco, hoặc là có một vị thánh, hoặc có một tên điên.
Khó mà khẳng định dứt khoát được. Đây là một cách diễn đạt
khác cái giây phút mà Thánh Phanxicô khó khăn quăng hết cả
quần áo xuống dưới chân thân phụ và mình trần như nhộng, bỏ
đi trong lúc miệng nói: "Giờ đây chúng tôi có thể nói: "Lạy
Cha chúng tôi ở trên Trời"; cái giây phút mà Don Cottolengo
liệng qua cửa sổ những đồng xu cuối cùng và nói với tâm hồn
nhẹ nhõm: "Giờ đây, người ta sẽ thấy ngôi nhà nhỏ là sự
nghiệp của tôi hay đó là sự nghiệp của Chúa!". Ai mà nỡ trách
móc những kẻ khờ khạo, đầy ưu tư do thận trọng và theo lương
tri, cứ tưởng là các ngài đã bị điên.
Vô vọng trên đồng hoang
Những ngày ấy, đã kéo đến trên đồng hoang những chủ sở hữu
đất (ông hầu tước đã cử họ chăng?). Họ cúi khom người trên

21.7 Page 207

▲back to top
những ụ đất đã bị giẫm đạp không chút xót thương bởi tám
trăm đôi guốc gỗ. Họ cất tiếng gọi Don Bosco:
- Ủa! Bọn chúng tính biến nơi đây thành sa mạc hay sao chứ?
- Cứ cái đà này thì đồng cỏ của chúng tôi chẳng mấy chốc sẽ
thành một con đường đất nện mất thôi.
- Xin cha tha lỗi, nhưng vụ này không thể tiếp tục được nữa.
Chúng tôi miễn cho cha khoản tiền thuê đất, nhưng chúng tôi
buộc lòng phải mời cha đi chỗ khác!
Ngài có mười lăm ngày để "chuyển quân".
Don Bosco như bị xét đánh ngang tai. Thêm vào những biến cố
ô nhục của những ngày vừa qua, lại bồi thêm nỗi lo phải tìm ra
ngay tức khắc một cánh đồng khác. Nhưng phen này, ngài
chẳng tìm được gì cả; ai lại cho một tên điên thuê mướn bao
giờ?
Ngày 5-4-1846, ngày cuối cùng trên đồng cỏ Filippi. Một trong
những ngày cay đắng nhất đời ngài.
Ngài cùng bọn trẻ đi đến nhà thờ Đức Mẹ đồng quê. Trong giờ
lễ, ngài nói nhưng chẳng có lòng dạ nào mà đưa ra những câu
khôi hài ý nhị. Ngài không còn nói đến những bắp cải phải
bứng lên trồng lại nữa. Ngài nhìn chúng như nhìn những con
chim sắp bị người ta phá nát tổ ấm. Ngài kêu gọi chúng hãy
cầu xin với Đức Mẹ, dù sao họ cũng đang ở trong tay Mẹ.
Đến giữa trưa, ngài cố thử vận động lần chót với những người
trong gia đình Fillippi. Nhưng chẳng được gì cả. Ngài sắp bị
buộc phải nói lời giã biệt với bọn trẻ của mình chăng?
"Chiều tối hôm ấy, ngài viết, tôi đứng ngắm nhìn bọn trẻ đông
đảo đang nô đùa. Tôi cảm thấy cô đơn, bất lực, sức khoẻ tàn tạ.
Tôi xích ra xa và bắt đầu đi bách bộ, đơn độc, không sao cầm

21.8 Page 208

▲back to top
được nước mắt: "Lạy Chúa, tôi than thở, xin cho con biết con
phải làm gì bây giờ?".
Một cái gốc chẳng ai biết đến là khởi nguồn mọi sự
Chính vào lúc ấy đã xuất hiện, không phải một vị tổng lãnh
thiên thần, mà là một người đàn ông nhỏ con mắc chứng cà
lăm: Pancrace Soave, người chuyên sản xuất sút và bột giặt.
- Có thật là cha đang tìm một ngôi nhà để dùng làm phòng thí
nghiệm hay nghiệm xá gì đó phải không?
- Không phải nghiệm xá, mà là nguyện xá.
- Tôi chẳng biết hai cái xá ấy khác nhau ở chỗ nào cả, nhưng
dù sao, nhà thì có. Cha cứ việc đến mà coi. Nó thuộc chủ quyền
của ông Phanxicô Pinardi, một con người lương thiện.
Don Bosco, vẫn trong khu vực được gọi là Valdocco ấy, đã đảo
qua theo đường xéo khoảng hai trăm mét và thấy mình đứng
trước một ngôi nhà sập sệ chỉ có một tầng, với cái cầu thang và
bao lơn bằng gỗ đã mục vì mối mọt, vây quanh là vườn, đồng
cỏ và ruộng. Cách đó không bao xa là "ngôi nhà khả nghi" mà
ngài đã thấy trong giấc mơ. "Tôi tính lên cầu thang nhưng
Pinardi và Soave đã bảo tôi" "Đừng, ngôi nhà được đề nghị với
cha, ở mãi đàng kia kìa". Đó là một vựa lúa".
Các khách hành hương nào băng ngang sân, dọc theo Vương
Cung Thánh đường Đức Mẹ Phù Hộ, nay vẫn còn thấy ở cuối
sân nằm ngọn trong một góc của mấy toà nhà: khuất lánh, gốc
cây khiêm tốn mà từ đó đã vọt ra toàn bộ cơ ngơi đồ sộ của
Don Bosco. Mấy chữ "Nhà nguyện Pinardi" được viết bằng
chữ lớn, bởi lẽ ngày nay nó là một ngôi nhà nguyện tuy nhỏ
nhưng rất giàu những đồ trang trí và những bức bích hoạ, y hệt
như hồi các tu sĩ Salêdiêng đã tái thiết nó vào năm 1829.

21.9 Page 209

▲back to top
Khi Don Bosco tới đó, ngày 5-4-1846 ấy, nó chỉ là một cái mái
che nghèo nàn, thấp lè tè, về hướng bắc dựa vào căn nhà
Pinardi. Một bức tường nhỏ bao quanh biến nó thành một nhà
gỗ nhỏ. Nó mới được xây dựng không lâu, được dùng làm
xưởng thợ cho một ông thợ nón và làm nơi giặt quần áo cho
mấy bà thợ giặt (ngay kế bên có một dòng suối đổ ra sông
Dora, cách đó không bao xa). Nó đo được 15 mét x 6 mét, với
hai gian nhỏ hơn nằm kế cận.
Don Bosco đang sắp sửa từ chối.
- Thấp quá tôi không sử dụng được.
- Tôi sẽ cho sửa sang lại theo ý cha muốn, Pinardi nói. Tôi sẽ
đào, sẽ làm những bậc đi xuống, sẽ thay đổi nền nhà. Điều
quan trọng là cha phải đặt xưởng thợ của cha ở đây [Tiếng Ý
“xưởng thợ” gọi là “Laboratorio” đồng âm với tiếng “Nguyện
Xá”, tức là “Oratorio”].
- Không phải xưởng thợ mà là Nguyện Xá, Don Bosco nhắc
lại, một ngôi nhà nguyện chỉ để tụ họp bọn trẻ của tôi ở đó.
Pinardi lẫn lộn từ này với từ kia cũng là điều dễ hiểu: gần các
sông rạch, thời ấy, người ta thường xây cất những xưởng thợ
và những cơ sở sản xuất. Pinardi, sau vài giây ngẫm nghĩ, bỗng
reo lên:
- Một ngôi nhà nguyện à? Thế lại càng tốt hơn nữa. Tôi vốn là
ca viên trong ca đoàn của giáo xứ. Tôi sẽ đến tiếp tay với cha.
Tôi sẽ mang theo hai cái ghế: một cho tôi và một cho bà xã của
tôi.
Don Bosco chưa biết phải quyết định ra sao. Nhưng rồi ngài
nói:
- Nếu ông hứa với tôi là sẽ đào nền sâu xuống năm mươi
centimét, tôi sẽ chấp thuận.

21.10 Page 210

▲back to top
Ngài không muốn thuê theo tháng nữa. Ngài trả 320 lires để
mướn nguyên một năm (hơn phân nửa khoản thù lao của ngài ở
bệnh xá). Ngài được quyền sử dụng kho chứa đồ làm vườn và
dải đất quanh đó làm chỗ cho bọn trẻ nô đùa.
Ngài chạy ngược về giữa đám thanh niên của mình và la lên:
"Can đảm lên, các con! Chúng ta đã tìm được một nguyện xá
rồi! Chúng ta sẽ có một nhà thờ và một cái sân để nhảy và để
chơi. Chúa nhật này chúng ta sẽ đến đó: đàng kia kìa, đến ngôi
nhà Pinardi".
Hôm ấy là Chúa nhật Lễ Lá. Chúa nhật sau sẽ là Chúa nhật
Phục sinh, Chúa nhật của sự sống lại.
Khi từng hồi chuông đổ
Phanxicô Pinardi đã giữ lời. Không chậm trễ, mấy người thợ
hồ đã tới, đã đào bới, đã củng cố thêm mấy bức vách và mái
nhà. Mấy bác thợ mộc đã làm lại nền nhà và đã đóng một sàn
ván bằng gỗ. Trong vòng sáu ngày, việc ấy có vẻ như bất khả
thi, nhưng ta chớ nên quên là số giờ làm việc một ngày vào
thời ấy là 14 giờ/ngày. Thứ bảy, ngôi nhà đã tân trang xong.
Trên cái nền nhà thờ nhỏ, Don Bosco đặt mấy chân nến, một
ngọn đèn dầu hôi và một bức chân dung thánh Phanxicô đệ
Salê.
Ngày 12 tháng Tư là một ngày trọng đại. Sáng Phục sinh, tất cả
mọi quả chuông trong kinh thành đều rộn rã reo vang, gần kho
chứa đồ làm vườn Pinardi, không có quả chuông nào cả, nhưng
chính sự thân thương của Don Bosco đã kêu gọi các con cái
ngài trong giới mạt lưu xã hội thuộc khu Valdocco. Chúng lũ
lượt kéo đến từng đợt. Chúng chiếm chỗ bên trong ngôi nhà
thờ nhỏ, trên dải đất và trên những đồng cỏ vây quanh. Trong
một sự yên lặng đầy sốt sắng, chúng đã dự buổi chầu Phép lành
trong nhà nguyện và dự thánh lễ mà Don Bosco cử hành ngay

22 Pages 211-220

▲back to top

22.1 Page 211

▲back to top
sau đó. Rồi, chụp lấy ổ bánh nhỏ được người ta quăng cho,
chúng phân tán mỏng trên đồng cỏ và niềm vui nổ tung, niềm
vui vì rốt cuộc đã có một mái nhà "hoàn toàn là của chúng".
Hình chụp nguyên thủy thời Don Bosco

22.2 Page 212

▲back to top
Chương 21
PHÉP LẠ BỌN TRẺ THỢ XÂY KÊU XIN CHÚA
Mới sáng tinh mơ, người ta đã mở cửa nhà thờ và việc xưng tội
đã bắt đầu cho tới tận giờ lễ, được ấn định vào tám giờ, thường
khi vẫn bị hoãn tới mãi chín giờ, để giúp tất cả những ai còn
muốn xưng tội.
Thánh lễ, chịu Mình Thánh Chúa rồi đến bài giảng Tin Mừng
(bài giảng này, sau mấy Chúa nhật, đã được thay thế bằng bài
đọc vài phần trong Thánh sử). Sau bài giảng, học tới giữa trưa.
Don Bosco tự ban cho mình vừa đúng một giờ để ăn và để lấy
lại sức. Lúc một giờ chiều, bắt đầu giờ ra chơi: đánh đu, đi cà
kheo, đấu súng và đánh kiếm gỗ, sau buổi tập thể dục. Lúc hai
giờ rưỡi: giáo lý. Sau đó, lần hạt, việc này được duy trì cho tới
lúc mà bọn trẻ đã có đủ khả năng để hát kinh chiều. Tiếp theo
là đôi lời cổ võ, hát các kinh cầu và chầu Mình Thánh. "Ra
khỏi nhà thờ, là giờ tự do". Một số đứa theo học lớp giáo lý,
những đứa khác thì tập hát hoặc đọc sách. Phần đông chúng
chơi đùa và chạy nhảy cho đến lúc chiều tối.
"Tôi lợi dụng những giờ ra chơi hỗn loạn ấy để tiếp cận từng
đứa. Với một câu nói nhỏ vào tai, với đứa này tôi dạy hãy vâng
lời nhiều hơn, với đứa khác hãy kiên trì học giáo lý, với đứa
thứ ba tôi khuyên nó nên đi xưng tội, và cứ như thế..."
Ngài là linh mục
Don Bosco chơi, ngài thậm chí còn làm xiếc (ngài đã nói rõ
ra như thế), nhưng trên tất cả, ngài là linh mục. Khi nào cần,
ngài biết cách tỏ ra dứt khoát một cách nhã nhặn. Đây, để
chứng tỏ điều đó, chúng ta xin kể ra "một việc trong bao nhiêu
việc khác".

22.3 Page 213

▲back to top
Một đứa mà ngài đã nhiều lần giục nó lên chịu lễ cứ "hứa lèo"
mãi mà chưa lần nào giữ lời. Một buổi chiều, giữa lúc nó đang
hứng chơi, Don Bosco đã bắt nó ngừng chơi và yêu cầu nó theo
ngài vào phòng áo có việc cần.
"Nó muốn đến ngay dù đang mặc áo sơ mi xắn cao tay áo. Tôi
bảo nó: "Không, mặc áo vét vào rồi hãy đến. Khi tới phòng áo:
- Quì xuống trên ghế quì đó đi.
- Cha tính làm gì với con đây?
- Giải tội cho con.
- Con chưa dọn mình gì cả.
- Cha biết. Con hãy dọn mình đi, sau đó cha sẽ giải tội cho con.
- Cha đã hành động rất đúng khi đã thẳng tay với con như vậy,
bằng không, có lẽ chẳng bao giờ con quyết định nổi việc đi
xưng tội cả.
Đang khi tôi đọc kinh nhật tụng, nó dọn mình một lát, rồi nó
xưng tội và đọc kinh cám ơn. Kể từ lúc đó, nó đã trung kiên
làm tròn mọi bổn phận của người tín hữu".
Chia tay nhau tại Bùng Binh “Rondo”
Khi màn đêm buông xuống, mọi người lại trở lại nhà nguyện
để đọc kinh tối, kết thúc bằng một bài thánh vịnh. Rồi, trước
cửa kho chứa đồ làm vườn diễn ra cảnh tượng vui vẻ và đầy
cảm động của phút chia tay.
"Ra khỏi nhà thờ, Don Bosco viết, ai nấy đều nói lời tạm biệt
cả ngàn lần mà vẫn bịn rịn không muốn giã từ bạn bè của mình.
Tôi đã mỏi miệng nói: "Các con hãy lên đường về nhà mình đi,
đêm xuống rồi cha mẹ các con đang mong đợi các con". Chỉ
hoài công vô ích. Tôi đành để mặc cho chúng tụm năm tụm bảy

22.4 Page 214

▲back to top
với nhau và sáu đứa mạnh nhất trong bọn khoanh tay lại để làm
thành hình một chiếc kiệu mà, dù muốn dù không, tôi đành
phải ngồi lên như ngự trên ngôi vua vậy. Sau đó, bọn chúng
đứng thành nhiều hàng dài, khiêng Don Bosco trên cái ghế làm
bằng những cánh tay săn chắc của chúng và vừa tiến bước vừa
ca hát, reo cười và gây huyên náo cho tới tận Bùng binh
“Rondo” (ngã tư giữa đại lộ “Corso Regina”, hồi ấy gọi là Đại
lộ “Thánh Maxime”, và con đường “Cigna”). Tại đó, mọi
người còn hát thêm mấy bài thánh vịnh nữa rồi giữ yên lặng
tuyệt đối nhằm tạo điều kiện cho tôi lên tiếng chúc mọi người
một giấc ngủ ngon và một tuần mới tốt đẹp. Với tất cả hơi sức
còn lại, chúng đáp lại: "Chúc cha ngủ ngon!" Lúc ấy, tôi mới
được đặt xuống khỏi ngai vàng của mình. Mọi người ai về nhà
nấy trong khi vài đứa lớn nhất đã mệt bở hơi tai mà vẫn còn cố
"hộ tống" tôi về tận nhà".
Nhiều đứa trong bọn trẻ của ngài đã thì thầm bên tai ngài:
"Don Bosco, xin đừng bỏ con cô đơn một mình những ngày
thường trong tuần, xin cha hãy ghé thăm con". Ngay sáng thứ
hai, những người thợ hồ trên các Quảng Trường xây dựng ở
Torino đã được chứng kiến một cảnh tượng lạ đời: một linh
mục, áo chùng thâm xắn cao, trèo lên các dàn giáo, giữa những
bao vôi và những đống gạch. Sau khi đã làm tròn công tác mục
vụ của mình ở bệnh xá, tại các khám đường và các trường học
trong thành phố, Don Bosco đã leo lên đó để kiếm bọn trẻ của
ngài.
Đối với bọn chúng, đó là cả một lễ hội. Trong đa phần các
trường hợp, "gia đình" mà chúng quay về mỗi tối không phải là
gia đình có cha và mẹ còn ở lại dưới quê, mà là nhà của một
ông chú hoặc bác, của một người bà con, một người đồng
hương: đôi khi, đơn thuần chỉ là nhà của ông chủ đã được cha
mẹ, họ hàng của chúng giao cho việc canh giữ chúng. Chẳng
lấy gì làm mặn nồng đối với bọn trẻ, cũng vì vậy khi chúng gặp

22.5 Page 215

▲back to top
được một người bạn chân thành có lòng yêu thương chúng và
giúp đỡ chúng, thì đó là cả một lễ hội.
Mà cũng chính vì ngài yêu thương chúng, nên Don Bosco
thường dừng chân trao đổi vài ba câu với ông chủ. Ngài muốn
biết về lương bổng của chúng, về thời gian nghỉ ngơi của
chúng, về khả năng cho phép chúng thánh hoá các ngày lễ đạo.
Trong các yêu sách hàng đầu của mình, ngài đòi hỏi những hợp
đồng có việc làm đều đặn cho các thợ phụ của mình và theo dõi
sao cho các ông chủ chấp hành đúng nội dung của các bản hợp
đồng ấy.
Ngài đến thăm những người bạn trẻ của mình và tìm kiếm thêm
những người bạn khác. Theo chứng từ của Don Rua: "Ngài đến
tham quan những xưởng thợ trong đó có đông đảo các thợ phụ
và mời tất cả bọn họ đến nguyện xá của ngài. Ngài đặc biệt tỏ
ra ưu ái đối với những đứa bé di cư đã phải bỏ nhà đi tha
phương cầu thực".
Don Bosco ho ra máu
Don Bosco là một con người, và sức lực của một con người thì
có những hạn chế của nó. Sau những cơn stress của mùa xuân,
sức khoẻ của ngài bắt đầu bị huỷ hoại một cách nguy hiểm
ngay trong những đợt nóng bức đầu tiên.
Bà hầu trước Barolo, vốn rất ngưỡng mộ ngài, đã triệu ngài tới
vào đầu tháng 5 năm 1846. Cha Borel cũng có mặt. Bà đặt
trước mặt ngài món tiền kếch xù năm ngàn lires (tám năm thu
nhập) và bảo ngài bằng giọng nói hách dịch:
- Bây giờ cha hãy cầm lấy số tiền này và hãy lên đường, đến
bất kỳ nơi nào cha muốn, để an hưởng một cuộc nghỉ ngơi
tuyệt đối.
Don Bosco đáp lại:

22.6 Page 216

▲back to top
- Xin đa tạ bà. Bà thật quảng đại. Nhưng tôi không làm linh
mục để chăm lo cho sức khoẻ riêng của mình.
- Nhưng cũng không phải để tự sát. Tôi đã được tin là cha đã
ho ra máu. Buồng phổi của cha bây giờ nát bấy như một miếng
giẻ rách. Cha tưởng mình còn cầm cự được bao lâu với nếp
sống hiện thời chứ? Cha hãy chấm dứt việc vào các khám
đường và việc đến nhà Cottolengo. Và, trên hết tất cả, hãy rời
xa bọn trẻ của mình một thời gian. Cha Borel sẽ lo cho chúng.
Don Bosco nghe thấy trong những lời dặn dò trên một toan tính
"thứ mấy mươi" nhằm ly gián ngài với bọn trẻ của ngài. Ngài
đã phản ứng một cách thô bạo:
- Gì chứ việc ấy thì tôi sẽ không đời nào chịu cả!
Bà hầu tước mất kiên nhẫn:
- Nếu cha không muốn nhượng bộ những lời lẽ chí tình của tôi
thì tôi sẽ nói với cha những lời độc địa vậy. Cha cần có những
khoản thù lao mà tôi cống hiến cho cha để có thể xốc tới. Cha
hãy nghe điều tôi sắp nói đây. Hoặc là cha sẽ bỏ rơi nguyện xá
của mình và lên đường đi nghỉ dưỡng sức, hoặc là chính tôi, tôi
sẽ cho cha thôi việc.
- Đồng ý. Bà có thể tìm được rất nhiều linh mục để thay thế
vào chỗ của tôi, nhưng bọn trẻ của tôi chẳng có ai để chăm lo
chúng cả. Tôi không thể bỏ rơi chúng.
Don Bosco đã phát ngôn những lời lẽ anh hùng, nhưng ngài đã
phạm sai lầm. Bà hầu tước có vẻ như hành hạ ngài, nhưng
ngược lại chính bà là người có lý, những tháng sắp tới sẽ chứng
tỏ điều ấy. Don Bosco là một linh mục thánh thiện, nhưng ngài
còn rất trẻ (ba mươi mốt tuổi) và lại cứng đầu: ngài còn chưa
thủ đắc được ý thức về sự định lượng. Bà hầu tước (sáu mươi
mốt tuổi) cho thấy sẽ là bà biết phải trái hơn ngài. Đây cũng
còn là một phụ nữ thánh thiện. Sau vụ đôi co kịch liệt ấy (theo

22.7 Page 217

▲back to top
chứng từ của Don Giacomelli), "bà đã quì xuống trước mặt
Don Bosco, xin ngài ban phép lành cho mình" ("Bà chưa hề
làm thế với tôi bao giờ", Don Giacomelli nói thêm).
Don Bosco ho ra máu thật sự, rất có thể là một sự chớm nhiễm
ho lao đã công phá buồng phổi của ngài. Bất chấp điều ấy, ngài
vẫn nghĩ đến tương lai. Ngày 5-6-1846, ngài đã mướn thêm ba
phòng trên gác của ngôi nhà Pinardi, với giá tổng cộng là 15
lires/tháng.
Cùng thời gian này, hầu tước Cavour lại xuất đầu lộ diện. Tất
cả mọi ngày Chúa nhật, ông đều phái sáu nhân viên cảnh sát
đến để canh chừng Don Bosco. Năm 1877, Don Bosco sẽ nói
với Don Barberis: "Tôi thật tiếc vì đã không có một cái máy
chụp hình. Đẹp đẽ biết bao khi được nhìn lại cảnh tượng ấy:
hàng trăm thanh thiếu niên chăm chú nghe tôi, và sáu cảnh vệ,
mặc sắc phục đàng hoàng, hai tay khoanh trước ngực, đứng
từng cặp một, ngay đơ như những cây cọc tại ba điểm khác
nhau trong nhà thờ, cả họ nữa cũng nghe giảng. Họ giúp tôi rất
đáng kể khi canh chừng bọn trẻ, ngay trong lúc canh chừng
chính tôi. Chốc chốc lại có một người trong bọn họ đưa tay len
lén quệt một giọt lệ. Đẹp đẽ biết bao nếu chụp được cảnh họ
quì gối giữa bọn trẻ, chờ tới phiên mình kế bên toà giải tội của
tôi. Về các bài giảng, tôi đã dụng công giảng cho họ hơn là cho
bọn trẻ của tôi: tôi đã nói về tội lỗi, về sự chết, về cuộc phán
xét, về hoả ngục..."
"Lạy Chúa, xin đừng để ngài chết"
Chúa nhật đầu tháng bảy năm 1846, sau một ngày mệt nhoài tại
nguyện xá trong một nhiệt độ oi ả, khi quay trở lại phòng mình
tại Trú khu, Don Bosco đã ngất xỉu. Người ta khiêng ngài đến
tận giường nằm: "Ho, viêm nhiễm nặng, liên tục khạc ra máu".
Những lời ấy có nghĩa là: viên phế mạc, kèm theo sốt nặng, thổ

22.8 Page 218

▲back to top
huyết, là sự liên kết của những rối loạn cực kỳ nghiêm trọng
vào thời ấy đối với một người bệnh đã từng bị ói ra máu.
"Suốt mấy hôm liền, tôi đã bị coi như vô phương cứu chữa".
Người ta đã cho ngài rước của ăn đàng và phép xức dầu bệnh
nhân. Trên các Quảng Trường xây dựng với những thằng bé
phụ hồ, trong các xưởng thợ với những tay thợ trẻ, tin tức được
loan truyền tức khắc: "Don Bosco sắp chết".
Tối nào cũng vậy, nhằm hướng căn phòng nhỏ của Trú khu nơi
Don Bosco đang hấp hối, đều có nhiều nhóm gồm những đứa
trẻ hốt hoảng kéo tới. Chúng còn chưa kịp thay bộ đồ dơ dáy
do công việc của mình, bản mặt còn dính đầy vôi trắng bệt.
Chúng chưa vội ăn tối mà đã chạy ngay tới Valdocco. Chúng
than khóc, chúng cầu nguyện:
"Lạy Chúa, xin đừng để ngài chết".
Y sĩ đã ngưng ngay mọi cuộc thăm bệnh và y tá (do bà hầu
tước tức khắc điều động tới bên giường bệnh của Don Bosco)
cấm ngặt không cho bất kỳ ai vào phòng của người bệnh. Bọn
trẻ tỏ ra tuyệt vọng:
- Ít nhất cũng để tôi nhìn ngài chứ!
- Tôi chỉ nói với ngài có làm gì khác đâu.
- Tôi chỉ cần nói với ngài một câu thôi.
- Nếu Don Bosco biết là tôi có mặt ở đây, chắc chắn ngài sẽ
cho tôi vào mà.
Mạng sống của Don Bosco tựa như chỉ mành treo chuông, bị
treo lơ lửng như vậy tám ngày liền giữa sự sống và cái chết.
Suốt tám ngày liền, bọn trẻ, trong lúc lao động dưới ánh mặt
trời nóng bỏng, không hề uống bất cứ giọt nước nào để cầu
Trời chữa ngài lành bệnh. Trong thánh đường Đức Bà An Ủi,
những chú bé thợ hồ luân phiên túc trực cả ngày lẫn đêm. Lúc

22.9 Page 219

▲back to top
nào cũng có đứa nào đó quì gối trước Đức Mẹ. Nếu đôi mắt chỉ
chực nhắm nghiền lại vì mỏi mệt (sau mười hai giờ lao động),
chúng liền ra sức chống lại cơn buồn ngủ bởi lẽ Don Bosco
không nên chết.
Một số đứa, do tính quảng đại đột phá của trẻ em, đã hứa với
Đức Mẹ là sẽ lần hạt liên miên suốt đời, một số khác lại hứa sẽ
ăn chay trường nguyên một năm, chỉ ăn toàn bánh mì và uống
nước lã mà thôi.
Thứ bảy, Don Bosco trải qua một cơn đột biến trầm trọng hơn.
Ngài không còn sức lực nữa, chỉ cố gắng chút xíu cũng đủ
khiến ngài ói ra máu. Đêm ấy, nhiều người tưởng là giờ cuối
cùng của ngài đã điểm, nhưng thần chết vẫn chưa đến.
Mà ngược lại, chính sự thuyên giảm đã đến: đó là ơn huệ mà
bọn trẻ đã "vòi" được của Đức Mẹ, bởi lẽ chúng không thể nào
tiếp tục chịu được cảnh mồ côi cha được nữa.
Một ngày Chúa nhật cuối tháng Bảy, vào buổi chiều, tay chống
một cây gậy, Don Bosco tiến bước về phía nguyện xá. Bọn trẻ
ùa ra vây lấy ngài. Mấy đứa lớn nhất bắt ép ngài ngồi xuống
một cái ghế bành, rồi chúng khiêng ghế lên vai và kiệu ngài
vào trong sân. Cả bọn ca hát, khóc, những người bạn nhỏ ấy
của Don Bosco, và chính ngài nữa, cũng không sao cầm được
nước mắt.
Cha con họ kéo nhau vào nhà nguyện và cùng dâng lời cảm tạ
Chúa yên lành. Khi yên lặng đã được vãn hồi, đầy căng thẳng,
Don Bosco đã ấp úng nói được mấy câu:
"Mạng sống của cha, chính các con là những người mà cha
phải mang ơn. Nhưng các con hãy tin chắc cho rằng, kể từ hôm
nay, cha sẽ dồn toàn tâm toàn lực của mình cho các con".
Đối với tôi, đây là những lời trọng đại nhất mà Don Bosco đã
phát biểu trong đời ngài. Đó là "lời khấn trọng thể" mà qua đó

22.10 Page 220

▲back to top
ngài đã tận hiến cho các thanh thiếu niên và chỉ cho chúng mà
thôi. Những lời lẽ trọng đại khác (thật ra là đoạn tiếp theo của
những lời vừa rồi) ngài sẽ nói lên khi nằm trên giường bệnh
của mình: "Hãy nói với các con cái của cha rằng, cha đợi tất cả
bọn chúng trên Thiên Đàng".
Những hơi sức vô cùng hạn hẹp mà ngài có thể vận dụng ngày
hôm ấy, ngài đã dùng để nói với các thanh thiếu niên của mình
"nhằm đổi lấy những điều có thể thực hiện được, những lời
khấn và những lời hứa mà, do không suy nghĩ chín chắn, nhiều
đứa đã liều mình tự nguyện đưa ra trong lúc ngài đang trong
cơn thập tử nhất sinh". Nghĩa cử cực kỳ tế nhị.
Các y sĩ quy định cho ngài một thời gian dưỡng bệnh kéo dài,
một cuộc nghỉ ngời toàn diện, và Don Bosco đã lên xóm
Becchi, ở tại nhà anh trai và mẹ của ngài. Nhưng ngài đã hứa
với các con cái của mình:
"Chừng nào lá rụng, cha sẽ lại có mặt ở đây, ở giữa các con".
"Hoặc túi tiền hoặc nộp mạng cho tao!”
Ngài du hành ngất ngưởng trên lưng con lừa, dừng lại một lần
nữa tại Castelnuovo do bị dằn xóc quá nhiều bởi phương tiện di
chuyển thô sơ của mình và lúc chiều tối thì ngài tới xóm
Becchi.
Mảnh sân dội vang tiếng ồn ào vui vẻ mấy đứa cháu trai và
cháu gái rộn rã chào đón ngài. Antôn đã tự cất cho mình một
ngôi nhà nhỏ đối diện với ngôi nhà mà hắn đã ở hồi nhỏ. Hắn
hiện có năm đứa con: Phanxicô mười bốn tuổi, Margarita mười
hai, Têrêxa chín, Gioan sáu và Francoise năm và Lu-y còn
đang nằm nôi.
Don Bosco đã tạm trú tại nhà Giuse. Không khí trên vùng đồi
núi của quê hương, tình thân thương kín đáo của mẹ già, những
cuộc đi chơi xa càng ngày càng dài mà ngài thực hiện mỗi buổi

23 Pages 221-230

▲back to top

23.1 Page 221

▲back to top
chiều tối băng ngang những vườn nho trong đó những trái nho
đang bắt đầu mọng đỏ, đã trả lại nhựa sống và sức mạnh cho
ngài.
Thỉnh thoảng ngài lại biên thư cho Don Borel để hỏi thăm tin
tức bọn trẻ của mình. Ngài cảm ơn "Don Pacchiotto, Don
Bosio, cha Vola, Don Frivero", là những người đang tích cực
giúp đỡ ngài.
Nhân một cuộc dạo chơi trong tháng 8, ngài đã đi tới tận
Capriglio. Khi trở về băng ngang một rừng cây nhỏ, ngài bỗng
nghe một giọng nói rắn rỏi ra lệnh cho mình:
- "Hoặc túi tiền hoặc nộp mạng cho tao".
Hoảng hồn, ngài đáp:
- "Tôi là Don Bosco, tôi không có tiền".
Ngài nhìn chòng chọc người đàn ông đang bước ra khỏi bụi
rậm, tay vung cao một con dao găm, và đổi giọng, ngài nói
tiếp:
- "Cortèse, chính con là người muốn giết cha sao?"
Ngài đã nhận ra trong bộ râu ria tua tủa ấy một thanh niên đã
trở thành bạn thân của ngài tại các khám đường ở Torino.
Chính chàng trai cũng đã nhớ ra và chỉ muốn độn thổ cho rồi.
- "Don Bosco, cha hãy tha lỗi cho con! Con đúng là một tên
khốn kiếp".
Hắn kể lại bằng những tiếng nhát gừng một câu chuyện thương
tâm như vẫn thường thấy xảy ra. Ra khỏi tù, những người thân
ruột thịt không nhận cho hắn quay về với gia đình nữa. "Cả đến
mẹ đẻ của con cũng quay lưng lại với con. Họ bảo rằng con đã
làm điếm nhục gia phong". Về việc làm, nói đến cũng bằng

23.2 Page 222

▲back to top
không. Ngay khi được biết là hắn đã từng ngồi tù, người ta đã
đóng sập cửa lại ngay trước mũi hắn.
Trước khi đến Becchi, Don Bosco đã giải tội xong xuôi cho
hắn và đã bảo hắn: "Bây giờ, con hãy đến với cha". Ngài đã
giới thiệu hắn với những người thân của mình: "Tôi đã tình cờ
gặp lại anh bạn cũ này, tối nay, anh ấy sẽ dùng bữa với chúng
ta".
Sáng hôm sau, sau thánh lễ, ngài đưa cho hắn một lá thư gửi
gắm hắn cho một vị linh mục và vài người chủ tốt bụng ở
Torino. Ngài ôm hôn hắn.
Tháng 10 năm 1846, nhân những chuyến dạo chơi đơn độc của
mình, Don Bosco, đã một cách bình thản, lên kế hoạch cho
tương lai trước mắt. Chừng nào trở lại Torino, ngài sẽ đến ở
trong những căn phòng đã thuê được của Pinardi. Tại đó, ngài
sẽ mở rộng cửa để đón tiếp những kẻ tứ cố vô thân.
Địa điểm, tiếc thay, không thích hợp với một linh mục sống
đơn chiếc. Không xa nơi ấy, có một "ngôi nhà khả nghi": nhà
Bellezza. Với quán trọ Bà làm vườn, nơi những tên bợm nhậu
ngang nhiên hò hát đến mãi nửa đêm. Ngài cần phải ở chung
với một người nào đó khả dĩ giữ cho ngài khỏi bị miệng đời
gièm pha, dị nghị.
Ngài đã nghĩ đến thân mẫu. Nhưng biết nói sao với bà đây? Mẹ
Margarita nay đã năm mươi tám tuổi. Ở Becchi, bà là bà
hoàng. Làm sao mà dứt được bà ra khỏi ngôi nhà của bà, ra
khỏi lũ cháu nội dễ thương, ra khỏi những thói quen hàng
ngày? Có lẽ Don Bosco đã được khích lệ bởi các viễn ảnh về
một thời vụ nghiệt ngã có nguy cơ xảy đến với nông thôn. Mấy
vụ thu hoạch trong năm 1946 đều thất bát và người ta dự đoán
là trong năm 1947 tình hình sẽ còn tệ hại hơn.

23.3 Page 223

▲back to top
"Mẹ ơi, một tối nọ ngài đã thu hết can đảm mới nói nổi, sao mẹ
không đến ở với con ít lâu? Con đã thuê được 3 phòng ở
Valdocco và, sắp tới con cho bọn trẻ bị bỏ rơi đến ở đó. Mẹ đã
có lần bảo con là mẹ sẽ không bao giờ đặt chân lại nhà con nếu
con trở nên giàu có. Hiện thời thì con đang nghèo rớt mồng tơi
và nợ như chúa chổm. Hơn nữa còn là một nguy cơ đối với linh
mục nếu ở một mình trong khu phố ấy."
Bà già lộ vẻ đăm chiêu. Đây là một đề nghị mà bà không hề
mong đợi. Nhã nhặn, Don Bosco lại năn nỉ:
- "Làm mẹ của lũ con của con, bộ mẹ không thấy hứng thú tí
nào ư?"
- Nếu con tin rằng đó là thánh ý Chúa, bà thì thầm, mẹ sẽ đến.
Những kẻ tha hương tay không, túi rỗng
Ngày 3 tháng 11, thứ ba, những chiếc lá rơi theo lá mùa thu và
Don Bosco lên đường trở lại Torino.
Dưới tay, ngài kẹp chặt một cuốn sách lễ và quyển kinh nhật
tụng của mình. Cạnh ngài, Mẹ Margarita chậm rãi bước đi.
Trên tay, bà xách một giỏ nhỏ đựng vài bộ đồ và một ít của ăn
dọc đường.
Don Bosco đã qua thư từ thông báo các quyết định của mình
cho Don Borel, và "ông cha nhỏ" đã tốt bụng tới mức chuyển,
từ căn phòng tại Trú khu qua mấy gian phòng trong nhà
Pinardi, chút ít tài sản mà Don Bosco sở hữu.
Hai lữ khách cuốc bộ suốt chặng đường dài. Khi họ đến Rondo,
một linh mục thân quen của Don Bosco nhận ra ngài và lại gần
hai mẹ con chào họ. Cha ấy thấy cả hai đều mệt và phủ đầy bụi
đường.
- Cha trở về rồi sao, Don Bosco? Sức khoẻ của cha ra sao?

23.4 Page 224

▲back to top
Tôi khỏi bệnh rồi, cảm ơn cha. Tôi đưa mẹ tôi cùng đến đằng
ấy.
- Nhưng sao hai mẹ con lại đi bộ?
- Vì chúng tôi thiếu cái này.
Vừa mỉm cười, ngài vừa vê vê ngón trỏ và ngón cái.
- Hai mẹ con tính cư ngụ ở đâu?
- Ở đây, trong nhà Pinardi.
- Nhưng hai mẹ con làm sao mà sống khi chẳng có tiền nong gì
cả?
- Tôi cũng chẳng biết nữa, nhưng việc ấy đã có Chúa Quan
phòng lo.
- Cha thì lúc nào cũng thế, vị linh mục vừa nói vừa gục gặc cái
đầu.
Cha ấy móc túi ra một cái đồng hồ quả quýt; vào thời ấy đó
cũng còn là một món đồ quí và hiếm.
Cha biếu cho ngài.
"Tôi mong sao giàu có để giúp đỡ cha. Tôi chỉ làm những gì
nh có thể mà thôi".
Mẹ Margarita là người đầu tiên bước vào chỗ ở của mình: ba
gian trống trải và buồn thiu, với hai cái giường, hai chiếc ghế
và hai cái nồi. Bà mỉm cười nói với con trai:
"Ở Becchi, ngày nào mẹ cũng tốn bao công sức để sắp xếp mọi
thứ cho ngăn nắp, để đánh bóng các đồ gỗ, để chà rửa nồi
xoong. Ở đây mẹ sẽ yên thân, phè phỡn hơn nhiều".
Họ nghỉ ngơi rồi thư thả bắt tay vào việc. Đang khi mẹ
Margarita lo nấu đồ ăn, Don Bosco treo lên tường một cây

23.5 Page 225

▲back to top
Thánh giá, một ảnh Đức Mẹ, rồi ngài sắp xếp giường chiếu để
ngủ qua đêm. Sau đó, đồng thanh hợp giọng, hai mẹ con cùng
cất tiếng hát. Lời hát ca như sau:
"Thiên hạ, hãy coi chừng!
khi chúng ta đây cảm thấy
mình là những kẻ tha phương
túi rỗng và tay không..."
Một thằng nhỏ, Etienne Castagno, nghe được tiếng của họ và
tin tức đã chuyền từ miệng qua tai giữa bọn trẻ của khu
Valdocco.
"Don Bosco về rồi!"

23.6 Page 226

▲back to top
Chương 22
MỘT KHO THUỐC SÚNG SẴN SÀNG NỔ TUNG
Chúa Nhật sau, ngày 8-11-1846, đã là cả một lễ hội tưng bừng,
Don Bosco đã phải ngồi trên một cái ghế bành đặt giữa đồng
cỏ, với bọn trẻ vây quanh, và phải lắng nghe những tiếng ca và
những lời cầu chúc của chúng.
Những đứa trong bọn chúng đã đến gặp ngài tại xóm Becchi và
đã ép ngài phải trở về sớm hơn hạn định, bằng cách đặt ngài
vào cách lựa chọn tức cười này: “hoặc là cha trở lại Valdocco,
hoặc là tụi con sẽ rời nguyện xá lên đây”.
Don Cafasso đã chống đối một sự trở về quá sớm như vậy Don
Bosco những lời khuyên của các y sĩ. Ngài chỉ cần chuyển lại
cho cha ấy quan điểm của Đức Tổng Giám mục: “Ngài đã cho
phép tôi trở lại nguyện xá, với điều kiện là không được thuyết
giáo trong vòng hai năm”. Ngài liền tự thú ngay “Tôi đã không
vâng lời”.
Những phòng lớp sáng choang đầy các trẻ em
Mối bận tâm hàng đầu của Don Bosco là lo khôi phục phát
triển các lớp tối: “Tôi đã thuê thêm một căn phòng khác.
Chúng tôi dạy trong gian bếp, trong phòng ngủ, trong phòng
áo, trong gian hát lễ, trong đám học trò vẫn còn có những tên
tán tận lương tâm phá hư hết mọi thứ hoặc xào xáo mọi đồ đạc.
Sau mỗi tháng, tôi lại thuê thêm được hai phòng nữa”.
Các nhân chứng của thời kì này nhớ lại: “Quả là màn kịch khi
tối đến các phòng sáng choang, đầy những thiếu niên và thanh
niên, lúi húi viết bài trên các ghế băng, hoặc ngồi bệt xuống
đất, viết nguệch ngoạc những chữ lớn đại lên tập vở của mình”.

23.7 Page 227

▲back to top
Don Cafiano, Don Nisi, Don Trivero, Don Pachiotti đã trở lại
để giúp ngài. Những tin đồn về Don bosco có “những định
kiến” đã lịm dần trong thời gian ngài ngã bệnh và tĩnh dưỡng
lâu dài. Đúng là Don Bosco đã có một ý tưởng không thể lay
chuyển được, và ngài đã chứng tỏ rằng mình sẵn sàng chịu ho
ra máu để mà biến ý tưởng ấy thành hiện thực.
Giữa ngài và bà hầu tước Barolo, hiển nhiên vẫn còn một chút
không khí mờ sương. Thật dễ hiểu thôi, khi cả hai đã từng nói
cho nhau hay “Đấy xem đi, tôi có lý không?” Bà hầu tước đã
thấy là những cái bà đã lường trước đã thể hiện rồi: Don Bosco
đã suy sụp và suýt nữa thì chết, đợt nghỉ ngơi lâu dài của cha
có khác chi một kỳ dưỡng sau một trọng bệnh, và Nguyện Xá
tiếp tục tiến bước dưới sự dẫn dắt của Cha Borel. Nhưng ngay
cả Don Bosco cũng cảm thấy mình có lý khi không bỏ Nguyện
Xá dù mình có phải trả bất cứ giá nào đi nữa! Dẫu sao thì với
tình trạng sức khỏe này, Don Bosco không thể nào lấy lại công
việc của mình ở Nhà Thương Nhỏ của bà hầu tước. Do đó bản
hợp đồng giữa họ, coi như hết hạn trong tháng Tám, đã không
được tái lập lại. Don Bosco chỉ lâu lâu mới ghé lại đó để giảng
tĩnh tâm cho các trẻ nữ ốm đau. Bà hầu tước không còn phải trả
tiền thù lao cho ngài nữa, nhưng qua trung gian của Don Borel
và Don Cafasso, bà sẽ vẫn gửi đến cha những món quà hậu hĩ
“cho bọn trẻ của ngài cho mãi đến ngày bà tạ thế, năm 1864”.
Đức Giáo hoàng Mastai – Ferreti lấy danh hiệu “Piô IX”
Trong các tháng đầu của năm 1864, nhà báo De Boni viết về
Torino: “Tôi rất chán phải từ khu vực vuông này đến khu vực
vuông khác của một thành phố vuông, nơi mọi người nói với
giọng qui phục và mọi người đều đi đủng đỉnh. Tôi ghét tuyết
bắc cực chất thành đống cao như núi tại thành phố này, ghét
những đường phố thẳng trong khi các con người thì cong queo,
những người phe tự do cẩn trọng thì đi nghe bài giảng Chúa

23.8 Page 228

▲back to top
Nhật và đi lần hạt Mân côi dưới sự dìu dắt của Bá tước Balbo,
xin Thiên Chúa chúc lành cho ông bá tước.
Lời nói của ông De Boni quả chẳng có tý tính cách tiên tri gì
cả. Bởi lẽ thành phố Torino hiện giống như một kho thuốc súng
chỉ chờ nổ. Còn Bá tước Balbo thì là một người đại diện cho
một thứ chủ nghĩa tự do ôn hòa, nhưng trong vòng ít tháng sắp
tới nó sẽ làm rung chuyển nước Ý như là một vụ động đất.
Vào tháng Sáu năm 1845, vị Giám mục “không thành kiến”
của giáo phận Fmola là Hồng y Mastia Ferreti, đã được bầu
làm Giáo hoàng. Ngài lấy danh hiệu là “Piô IX”. Đó là một con
người đạo đức và giản dị. Đó không phải là một nhà chính trị
và ngài không ủng hộ các quan niệm về con người: chính vì lẽ
đó mà ngài đã mau chóng thực thi sự cải tổ, đã được trông đợi
từ bao năm nay trong Nước Giáo hoàng của ngài, và người ta
đã đổi ý nghĩa của những cải tổ đó thành “những cải tổ theo
kiểu tự do chủ nghĩa” với tất cả những gì là mập mờ ám muội
mà từ nay có thể gợi ra trong đầu óc người đời.
Mấy ngày sau khi đắc cử (ngày 17 tháng 7), bất chấp những lời
phản đối của nhiều vị Hồng y, ngài đã chấp thuận một cuộc
đình chiến rộng rãi về chính trị.
Nhiều tù nhân có tội chỉ vì tham gia các “phong trào tự do” đã
được phóng thích.
Để “am hiểu” các tù nhân, ngài thường đi vào trại tù ở Tòa lâu
đài Thánh Thiên Thần (di Catel Saint’ Angelo) một cách không
ai nhận ra ngài, để nói chuyện với họ, khiến cho các giám đốc
nhà tù hốt hoảng. Để “nghe ngóng được” những lời phàn nàn
của dân chúng, ngài đi thăm các nhà thương cũng bằng các
cách thức y như thế.
Suốt trong những tháng sau đó, ngài đã đặt một cái thắng lên
mọi sự lạm dụng quyền bính của cảnh sát và bày tỏ ý chí cứng

23.9 Page 229

▲back to top
rắn muốn thấy nền ngoại giao lấn chiếm của Áo tôn trọng hơn
nữa quyền độc lập của Tòa thánh.
Mùa xuân 1847, ngài đã chấp thuận một quyền tự do báo chí,
thiết lập một Consulte (Hội đồng) Quốc gia với sự tham gia của
các giáo dân đã được chỉ định bởi cơ sở (điều này khiến ta nghĩ
đến một nghị viện). Ngài cho phép thành lập một đội cảnh vệ
dân sự (dân quân tự vệ).
Trong bầu khí đầy kỳ vọng nhiệt thành được phát động bởi tác
phẩm của “Vị lãnh đạo tinh thần và luân lý của nước Ý” của
Gioberti, Đức Piô IX trong tương quan với phe tự do tương
ứng với vị Giáo hoàng “thuộc phe tự do mới”. Đối với các
người phái tự do, Đức Piô IX xem ra như vị Giáo hoàng thuộc
chủ nghĩa tự do mới của Ý mà người ta đã từ lâu rất mong đợi.
Người ta đề cao Đức Thánh Cha Mastai [tên gọi Đức Thánh
Cha Piô IX] như người thực hiện sự thống nhất và độc lập của
Nước Ý trong bầu khí tự do. Những kẻ nhiệt tình hết sức hưng
phấn. Bất luận ngài đi đâu, Đức Piô IX cũng không sao thoát
khỏi những cuộc mít tinh, diễu hành, những sự bầy tỏ lòng tôn
kính, những đám rước đuốc ủng hộ.
Không chỉ có phe tự do là “nhất trí” kiểu ấy với Đức Piô IX.
Những người thuộc phe xã hội chủ nghĩa và các đại biểu của
“cánh hữu dân chủ” cũng đòi hỏi phải có phép lạ ấy. Ngay cả
Metternich, vị tể tướng đầy quyền lực của Áo, hiến binh của
chính sách chuyên chế và chính sách bảo thủ, cũng la lên với
giọng thiểu não: “Tôi sẵn sàng chờ đợi mọi chuyện, trừ chuyện
một Giáo hoàng theo phe tự do”.
Đức Piô IX không phải là một Giáo hoàng theo phe tự do, tuy
vậy suốt gần hai năm trời ngài sẽ bị các biến cố và các tình
huống buộc phải đóng một vai trò rất dễ bị hiểu lầm.
Suốt mùa hè năm 1947, để phòng hờ những bất trắc đến từ vị
“Giáo hoàng theo phe tự do”, Metternich đã cho một đội quân

23.10 Page 230

▲back to top
tiên tiến của Áo chiếm đóng đô thị Ferrare của Giáo hoàng.
Phe tự do lý giải điều quân này như là sự đoạn tuyệt vĩnh viễn
giữa Tòa Thánh và nước Áo, là tia lửa của cuộc chiến tranh
giành độc lập. Carlo Alberto hiến quân đội của mình cho Đức
Giáo hoàng; từ châu Mỹ, Garibaldi đặt quân đoàn lính tình
nguyện của mình dưới quyền sử dụng của Đức Piô IX; từ
London, Mazzini viết cho ngài một lá thư với những lời lẽ bốc
lửa.
Thế là Đức Piô IX đã trở thành hiệu kỳ của nền tự do quốc gia.
Ngài đã chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện gây chiến tranh, nhưng
ngài đã bị lấn lướt bởi các biến cố, và bị lôi cuốn bởi các biến
cố. Cuộc chiến tranh giành độc lập, được biện minh nhân danh
Ngài, kể từ đó đã trở thành danh chính ngôn thuận nhờ danh
hiệu của ngài, từ nay đã dật dờ trong không gian.
Cuộc đụng độ của Don Bosco với “các linh mục yêu nước”
Sau La Mã, Torino là trung tâm của các cuộc biểu tình ủng hộ
Đức Piô IX và các hành vi “ủng hộ tự do” của ngài.
Đức Tổng Giám Mục Fransoni, một người bảo thủ cứng cỏi, rất
phân vân đứng trước sự phát triển của tình hình. Ngài có những
mối nghi ngờ mạnh mẽ về việc những người tự do lạm dụng
danh nghĩa của Đức Tân Giáo Hoàng. Các Đức Giám Mục
khác của Piemontê – như Fossano, Pinerolo, Biela – thì dứt
khoát và hăng say đứng về phía “cuộc hành trình tự do mới của
Hội Thánh”. Trong năm 1848, hầu hết tất cả các giám mục
Piemontê và Sarđênha đã viết những lá thư mục vụ yêu nước.
“Ngay cả Don Bosco – theo lời cha Stella viết – vào khoảng
năm 1848, cũng đã tham gia vào những niềm hy vọng chung
của Nước Ý dưới hình thức của một chủ nghĩa tự do mới kiểu
của ông Guelfo, mang dáng dấp của sự tôn trọng đối với Đức
Thánh Cha và với các triều vua chúa cai trị từ xưa tới lúc bấy
giờ.” Trong ấn bản thứ hai của cuốn Lịch Sử Hội Thánh xuất

24 Pages 231-240

▲back to top

24.1 Page 231

▲back to top
bản từ lúc khởi đầu của năm 1848, ngài gọi lý thuyết gia của
chủ nghĩa tân tự do kiểu ông Guelfo là “Ông Gioberti Vĩ Đại”.
“Nhưng đó không phải là một thứ tình cảm lâu bền nơi Don
Bosco”, bởi lẽ nó đã sớm biến mất khỏi các ấn bản sau đó.
“Thật sớm Don Bosco đã đụng độ với các linh mục yêu nước,
khiến cho giữa Don Bosco và các linh mục yêu nước như cha
Cocchi, cha Trivero, cha Ponte, có một luống cày sâu là lằn
ranh tách biệt đôi bên”.
Cuộc đụng độ này trở thành hiện thực kể từ khi bắt đầu lộ ra
rằng nhiều người theo chủ nghĩa tự do chỉ muốn mượn danh
Đức Giáo Hoàng để cổ súy các mục tiêu chính trị của họ, cách
riêng là khi bài nói chuyện vào ngày 29-4-1848 của đức Piô IX
đã vĩnh viễn gạt phăng tất cả mọi sự mập mờ của sự lạm dụng
này.
Một trận mưa gạch đá
Trong khi đó, bên cạnh “lịch sử lớn”, trong vùng đồng bằng
thấp trũng của khu Valdocco, vẫn diễn ra lịch sử khiêm tốn của
đời thường: sự mệt mỏi thầm kín vì lợi ích của bọn trẻ, cuộc
đấu tranh thầm lặng chống lại nợ nần.
Don Bosco đã tranh thủ được, tháng 12 năm 1846, sự đồng ý
của Pancrace Soave cho thuê toàn bộ các phòng trong nhà
Pinardi và thửa đất xung quanh (710 lires/năm). Ngài cho thuê
lại bức tường xung quanh đầy cỏ dùng làm cái sân chơi và cho
dựng ở hai đầu cổng xây và một cổng rào bằng song sắt. Nhờ
cách này, bọn “gian phi mặt dạn mày dày” vẫn thường kéo đến,
mỗi Chúa Nhật, đông đặc trong quán trọ, bà làm vườn và các
nhà quanh đó, sẽ hết còn len lỏi vào trong sân và gây rắc rối
cho bọn trẻ.
Một phần của cánh đồng cỏ (nơi mà nay là một tiệm bán các đồ
đạo), Don Bosco biến nó thành vườn trồng rau. Bọn trẻ gọi đó

24.2 Page 232

▲back to top
là “khu vườn của mẹ Margarita”. Trong số những kinh phí về
thuê bao và để cứu trợ các thanh thiếu niên, những đồng tiền
dành cho chợ búa bếp núc là khoản hết sức khiêm tốn. Và vốn
là một nông dân đảm đang, mẹ Margarita đã hết sức tiết kiệm
bằng cách trồng rau diếp và khoai tây.
Trên những đồng cỏ khắp chung quanh, những băng nhóm côn
đồ hội họp nhau mỗi Chúa Nhật. Chúng chơi ăn tiền, uống
rượu mua từng chai lớn ở bà làm vườn, chửi rửa, lăng mạ các
thanh thiếu niên nào đến nguyện xá. Don Bosco tiếp cận
chúng, với tất cả sự kiên nhẫn. Ngài chấp nhận ngồi với chúng
để đánh một ván bài. Nhờ đó dần dà ngài lôi kéo được vài đứa
trong bọn. Nhưng hơn một lần, đang khi ngài cắt nghĩa giáo lý
ở ngoài trời, bọn trẻ của ngài, dưới một trận mưa gạch đá, đã
phải chạy vào núp trong nhà nguyện.
Don Bosco thừa rõ là năm trăm thanh thiếu niên mà mình qui
tụ trong nguyện xá chẳng thấm tháp vào đâu so với những tên
du thủ du thực la cà đó đây khắp kinh thành, không có đức tin
và chẳng coi pháp luật ra gì, và thường khi cũng không có cả
bánh ăn nữa.
Vùng Borgo Vanchiglires, không mấy xa khu Valdocco, lúc
nhúc bọn cocche, tức băng du đãng từng khiến các lực lượng
cảnh sát thất điên bát đảo, sống nhờ “chôm chỉa” những bóp
đựng tiền và những giỏ đựng lương thực thực phẩm của những
người đi chợ và thường đụng độ nhau trong những trận đánh
khốc liệt và bi thảm kết liễu bằng những nhát dao chết người.
Khi đi ngang qua khu vực, Don Bosco đôi khi đã lao vào giữa
các “chiến binh” để can bọn chúng khỏi đánh lộn nhau. Có lần
ngài đã lãnh đủ một chiếc guốc gỗ ngay giữa mặt. “Không phải
nhờ đánh đấm”, người ta đã bảo ngài như vậy trong giấc mơ,
thế nhưng những giấc mơ cũng có những ngoại lệ chứ.
Một linh mục ăn trộm

24.3 Page 233

▲back to top
Một trong những chiến thuật được Don Bosco dùng để đưa các
trẻ em tốt đến nguyện xá, đó là bước vào cửa tiệm mà bọn trẻ
làm mướn trong đó, ngài đến bên ông chủ:
- Ông vui lòng giúp tôi một việc được chứ?
- Thưa cha được, nếu đó là điều tôi có thể làm được.
- Đó là điều ông dư sức làm được. Chúa Nhật này, ông hãy sai
mấy đứa nhỏ này đến nguyện xá ở Valdocco. Chúng sẽ có thể
học đôi chút giáo lý và trở thành những người tốt hơn.
- Qủa thật là chúng rất cần phải trở nên những người tốt hơn.
- Nếu vậy được rồi, cha sẽ đợi các con ở nguyện xá, Chúa Nhật
này. Chúng ta sẽ chơi với nhau và sẽ nô đùa thỏa thích.
Với một loại thanh thiếu niên khác, chiến thuật lại khác hẳn.
Trong lúc Don Borel lo nguyện xá, ngài đánh một vòng qua
các Quảng Trường và các đường phố vây quanh. Hàng đống
những thanh niên đang chơi cờ bạc ăn tiền trên các hè phố.
Đang khi các lá bài được truyền tay nhau, những đồng tiền chì
(đôi khi lên tới mười lăm, hai mươi lires) được xếp thành đống
ngay chính giữa, đặt trên một khăn mùi xoa.
Don Bosco quan sát kỹ tình thế, rồi loáng một cái, ngài vồ lấy
cái khăn mùi xoa và bỏ chạy. Bọn trẻ sửng sốt, nhảy dựng cả
lên và rượt theo ngài miệng la:
“Tiền! Trả lại tiền cho chúng tôi”
Chúng đã từng trải mùi đời, đã thấy đủ thứ chuyện, bọn trẻ
đáng thương ấy, ngoại trừ chuyện một linh mục mà lại đi ăn
trộm. Don Bosco vẫn tiếp tục chạy về phía nguyện xá, miệng
la:
“Ta sẽ trả lại, nếu mấy người bắt kịp ta! Chạy lẹ lên chứ!”

24.4 Page 234

▲back to top
Ngài vượt qua khỏi cổng nguyện xá, rồi cửa nhà nguyện với
bọn trẻ đi theo bén gót. Vào giờ đó, trên tòa giảng có Don
Carpano hoặc Don Borel đang giảng trước một cử tọa kín đặc
những thanh thiếu niên. Và màn kịch bắt đầu.
Don Bosco đóng một người bán hàng rong, giơ cao chiếc khăn
mùi xoa mà ngài vẫn cầm trong tay và la lên:
“Kẹo nu ga! Kẹo nu ga đây! Ai mua kẹo nu ga không?”
Vị linh mục trên tòa giảng giả bộ tức điên lên:
- Cút ngay, quân mất dạy! Đây có phải Quảng Trường đâu mà
mua với bán.
- Nhưng tôi cần bán kẹo nu ga mà ở đây lại có đông con nít
quá. Có ai muốn đấu giá không nào?
Cuộc đối thoại diễn ra bằng tiếng địa phương. Các thanh thiếu
niên cười đến quặn ruột, cúi gập cả người xuống, những kẻ mới
đến lắng nghe cuộc đấu khẩu ấy và chưng hửng; chúng đang
rơi vào nơi nào đấy?
Trong khi đó, những người đối thoại vẫn tiếp tục đối thoại, y
hệt như một màn tấu hài, với những câu hỏi thật tếu, những câu
đối đáp ý nhị, lái cuộc tranh luận sang chủ đề về các trò chơi ăn
tiền, về những câu chửi thề, về niềm hạnh phúc được sống
trong ơn nghĩa Chúa. Thế là những tên đã đến sau lưng Don
Bosco cũng bắt đầu cười thích thú và tỏ ra quan tâm đến vấn đề
đang được đặt ra.
Để kết thúc, người ta bắt đầu hát kinh cầu. Bọn chúng mon
men lại gần Don Bosco.
- Thế nào, tiền của tụi con, cha trả lại cho tụi con chứ?
- Chờ chút xíu, sau khi chầu Phép lành đã.

24.5 Page 235

▲back to top
Ra đến sân, ngài đưa tiền ra, bỏ thêm vào đó một bữa ăn lót dạ
và đòi chúng phải hứa là “kể từ nay, chúng sẽ đến đây chơi”.
Và nhiều đứa đã ở lại luôn.
Những lời ca và những tiếng la ó của bọn dân nhậu
Etienne Castagno, một thiếu niên sống vào thời đó, làm chứng:
“Don Bosco luôn luôn là người đứng đầu trong các cuộc chơi,
là linh hồn của giờ ra chơi. Tôi không biết ngài làm cách nào,
nhưng ngài luôn luôn có mặt ở tất cả mọi góc sân, ở giữa mỗi
nhóm. Bằng bản thân và bằng đôi mắt lanh lợi, ngài theo dõi tất
cả. Chúng tôi đầu tóc rối bù, đôi khi dơ dáy, trà trộn vào tất cả,
tính khí ngông nghênh. Và ngài lấy làm thích thú được ở bên
những đứa nghèo nhất trong bọn. Những đứa nhỏ nhất, ngài
thương chúng như thể ngài là mẹ đẻ của chúng vậy. Chúng tôi
thường có nhiều phen đánh lộn, đấm đá nhau tơi bời và ngài
luôn luôn phải can gián chúng tôi. Ngài vung cao tay như thể
tính quýnh, nhưng ngài chẳng bao giờ xuất chiêu cả. Ngài gạt
chúng tôi ra bằng cách nắm lấy cánh tay của chúng tôi”.
Giuse Buzzetti nhớ lại: “Tôi đã biết hàng trăm đứa đến nguyện
xá là những đứa trẻ không được giáo dục và cũng chẳng có
cảm tình gì với đạo giáo, nhưng chỉ sau ít lâu đã thay đổi cả tác
phong hạnh kiểm. Chúng gắn bó với nguyện xá của chúng tôi
đến nỗi chúng không muốn rời xa nữa và Chúa nhật nào cũng
vào tòa xưng tội và lên Bàn thánh rước lễ cả”.
Điều gây phiền hà nhất là trong mùa hè, đó là “Bà làm vườn”,
tức quán nhậu rất đông khách vãng lai của nhà Bellazza. Từ
ngôi nhà nguyện nhỏ, khi cần để ngỏ các cửa ra vào và các cửa
sổ, người ta nghe thấy những tiếng ca hát và những tiếng la ó
của bọn dân nhậu. Đôi khi những tiếng cãi cọ, chửi bới om sòm
át cả tiếng linh mục đang giảng. Don Bosco có lần đã buộc
lòng phải xuống khỏi tòa giảng. Ngài bỏ cả khăn Stolar và áo lễ

24.6 Page 236

▲back to top
xuống và vừa xồng xộc bước vào quán nhậu vừa hăm he dọa
dẫm là sẽ đi kêu cảnh sát.
Các giáo viên trẻ và những cộng sự viên người đời
Vấn đề các cộng sự viên ngày càng trở nên bức thiết. Don
Borel, Don Carpano và các linh mục khác thường mắc bận ở
những nơi khác vào ngày Chúa nhật. Biết tìm đâu ra người để
hộ trực, để dạy giáo lý và đặc biệt để dạy học các lớp tối.
Don Bosco nhớ lại là trong giấc mơ “những con chiên biến
thành những người chăn chiên”. Ngài bắt đầu tìm kiếm các
cộng sự viên trong số các trẻ em của mình và khởi công chuẩn
bị chúng. Ngài chọn những người trẻ khá nhất trong số những
đứa già đầu hơn cả và mở những lớp riêng để dạy chúng. “Đám
giáo viên nhỏ ấy, Don Lemoyne viết, buổi đầu chỉ có tám hoặc
mười em, đã là một chứng tá tuyệt hảo, và hơn nữa, một vài em
trong bọn chúng sau đó đã trở thành những linh mục tuyệt hảo.
Vài giáo dân sống đời phàm tục trong thành phố cũng đến tiếp
tay giúp ngài: một thợ kim hoàn, hai người bán đồ gia dụng
bằng kim khí, một người bán hóa phẩm, một tên mối lái, một
bác thợ mộc.
Đức Piô IX
Ngày 10-8-1849
Nhà Ái quốc Ý Ciceruacchio đang diễn thuyết ủng hộ Đức Piô
IX

24.7 Page 237

▲back to top

24.8 Page 238

▲back to top
Chương 23
“CON MỒ CÔI, QUÊ Ở VALSESIA”
Về mùa đông 1847-1847, Don Bosco nhớ lại một câu chuyện
thương tâm.
Một đứa trẻ mười bốn tuổi, đã từng lui tới nguyện xá một thời
gian, nghe cha nó (kẻ tối nào cũng “xỉu” đều đều) ra lệnh cho
nó không được đến với Don Bosco nữa. Thằng bé giả bộ vâng
lời, nhưng vẫn tiếp tục đến. Người đàn ông, làm nghề bán
hương liệu, bừng bừng nổi giận. Ông dọa sẽ bửa sọ thằng bé
trai ra làm đôi nếu nó còn dám cãi lệnh ông nữa.
Một tối Chúa nhật, khuya lắc khuya lơ, thằng bé từ nguyện xá
trở về và thấy ông bố đã say khướt, đang đợi nó với một cái
búa chẻ củi, tay vươn cao lưỡi tầm sét của thiên lôi, miệng la
lớn:
“Mày lại đến nhà Don Bosco nữa rồi!”
Thằng bé, hồn vía lên mây, vội co giò bỏ chạy. Người đàn ông
rượt theo gầm vang dội:
“Tao mà tóm được mày là tao giết mày chết luôn”
Cây dâu và sương mù
Bà mẹ cũng vậy, đã thấy hết, liền chạy theo chồng để mong
cướp vũ khí của kẻ say. Thằng bé, xả hết tốc lực của lứa tuổi
mười bốn, đã đến nguyện xá trước ông bố một quãng xa;
nhưng nó thấy cổng đã đóng. Quýnh lên nó đập cửa rầm rầm
rồi, kiệt sức mà lại không thấy ai ra mở cổng, nó liền trèo lên
một cây dâu lớn mọc gần đó. Cây không còn lá để che dấu nó,
cũng may tối hôm ấy sương mù dày đặc.

24.9 Page 239

▲back to top
Thở hổn hển, gã bợm xỉn đến nơi với lưỡi búa trong tay. Gã
đập rầm rầm vào cổng. Mẹ Margarita nãy giờ đứng bên cửa sổ
tình cờ thấy thằng bé leo lên cây, liền chạy ra mở cổng sau khi
đã nói nhỏ với Don Bosco mấy câu. Cánh cổng vừa hé mở thì
gã đàn ông phóng thẳng lên cầu thang, chạy vào cửa Don
Bosco và rống tướng lên, giọng đầy đe dọa:
- Con tao đâu rồi?
- Con ông đâu có ở đây.
- Có chứ, nó ở đây mà.
Gã mở tung cả các cửa ra vào lẫn cửa tủ:
- Tao mà tìm được nó tao sẽ giết chết tươi luôn.
- Thưa ông, Don Bosco can thiệp với tất cả vẻ cương nghị,
nguyện xá tôi xin nói với ông là nó không có ở đây. Mà cho dù
nó có ở đây đi nữa, thì nhà này là nhà của tôi ông không có
quyền vào đây. Ông có ra khỏi đây không, hay tôi phải kêu
cảnh sát tới?
- Cha khỏi cần nhọc công, chính tôi bây giờ sẽ đến gặp cảnh sát
và cha sẽ phải trả con cái của tôi lại cho tôi.
- Tốt lắm, vậy ta hãy cùng tới đó một lượt. Vừa nãy tôi có vài
chuyện tính kể cho mấy ông ấy nghe về lối cư xử của ông. Đây
quả là một cơ hội rất thuận lợi.
Gã bợm nhậu vốn có vài chuyện bưng bít, vội vàng chuồn êm
rút lẹ, miệng lẩm bẩm những lời hù dọa. Don Bosco cùng thân
mẫu đến bên gốc cây và khẽ cất tiếng gọi thằng bé. Không có
tiếng đáp lại. Ngài hơi lớn giọng gọi tiếp: “xuống đi, con.
Không còn ai nữa đâu”.
Vẫn không có gì. Ngài e còn chuyện rủi ro. Ngài dùng thang và
leo lên thấy thằng bé đang trợn trừng hai mắt. Ngài lay mạnh

24.10 Page 240

▲back to top
nó. Như vừa ra khỏi một cơn ác mộng, thằng bé chợt thét lên
và khua chân múa tay loạn xạ. Thiếu chút nữa thì cả hai đã té
xuống khỏi cây. Don Bosco vừa ra sức khống chế nó vừa thì
thầm:
“Không phải bố con đâu, mà là cha đấy, Don Bosco đây, đừng
sợ”.
Dần dần thằng bé dịu lại và bắt đầu khóc rấm rức.
Don Bosco đã đưa được nó xuống và ngài bước vào bếp. Mẹ
Margarita dọn cho nó một thức uống nóng và Don Bosco trải
một nệm rơm cho nó ngủ ngay trước bếp lửa. Hôm sau, để cứu
nó khỏi cơn giận của ông bố ngài gửi nó cho một ông chủ tốt
bụng ở địa phương kế bên. Một thời gian sau nó mới có thể trở
về nhà một cách an toàn.
Có lẽ chính vụ này đã làm rỉ máu một vết thương mà Don
Bosco đang mang trong tim ngài. Không một đứa nào, trong
bọn trẻ của ngài, tối đến, biết phải ngủ qua đêm ở đâu cả.
Chúng ngủ dưới các gầm cầu hoặc trong các tụ điểm dơ dáy rẻ
tiền. Từ ít lâu nay, ngài đang dự kiến đưa về nhà mình những
đứa bị hất hủi hơn cả.
Vụ thử nghiệm đầu tiên của ngài đã xẩy ra vào một tối tháng
Tư năm 1847. Ngôi nhà Pinardi, ở bên tay phải khi người ta
nhìn ngay mặt tiền, kết thúc bằng một kho chứa rơm rạ (hiện
nay là một lối đi dẫn ra sau). Tại đó, Don Bosco đã xếp đặt chỗ
ngủ cho khoảng năm sáu đứa nhỏ tuổi nhất. Đúng là một vụ
phá sản. Sáng hôm sau các khách trọ đã biến mất, ôm theo tất
cả mùng mền mà mẹ Margarita đã cho chúng mượn.
Don Bosco lặp lại thí nghiệm mấy ngày sau và còn tệ hại hơn
thế nữa: chúng còn mang theo cả rơm rạ trong kho nữa.
Nhưng ngài vẫn không sờn lòng nản chí.

25 Pages 241-250

▲back to top

25.1 Page 241

▲back to top
Một thằng bé ướt sũng và lạnh cóng
Một tối tháng năm, trời mưa như trút nước. Don Bosco và mẹ
ngài vừa dùng xong bữa tối thì nghe có tiếng gõ cửa (Chúng tôi
tiếp tục bài tường thuật bằng những trang do chính tay Don
Bosco ghi lại): Đó là một thằng bé ướt nhẹp và lạnh cóng, trạc
mười lăm tuổi.
- Con mồ côi cả cha lẫn mẹ. Con từ thung lũng Sesia đến. Con
là thợ hồ, nhưng con chưa tìm được chỗ làm. Con đang lạnh và
chẳng biết phải đi đâu ở…
- Vào đi, Don Bosco bảo nó. Con hãy lại gần bếp lửa.
Ướt sũng thế này, coi chừng con bệnh đấy.
Mẹ Margarita dọn ra cho nó một ít đồ ăn. Sau đó bà bảo nó:
- Bây giờ con tính đi đâu nào?
- Con cũng không biết nữa. Con có ba lires lúc mới đến Torino,
nhưng con đã xài hết trơn rồi.
Lặng lẽ, nó bắt đầu khóc.
- Bà làm ơn, đừng đuổi con đi.
Mẹ Margarita nghĩ đến những cái mền đã chắp cánh bay xa.
- Chúng ta có thể giữ con lại, nhưng đâu có gì bảo đảm là con
sẽ không ăn cắp nồi xoong của chúng ta?
- Ồ, không đâu, thưa bà! Con nghèo thật, nhưng con không đời
nào chôm chỉa cả.
Don Bosco đã đi ra ngoài trời mưa để kiếm vài cục gạch. Ngài
đem về và làm thành bốn cái cột mà trên đó ngài đặt mấy cành
cây. Rồi ngài đến lôi tấm nệm ra khỏi giường mình và trải lên
trên.

25.2 Page 242

▲back to top
- Con sẽ ngủ ở đây, con ạ. Và con sẽ ở lại bao lâu con còn cần.
Don Bosco sẽ không bao giờ đuổi con đâu.
“Mẹ tôi rủ nó đọc kinh”.
- Con không biết đáp. Nó đáp.
- Con sẽ đọc cùng lúc với chúng ta, bà bảo nó. Và đã xẩy ra
như vậy rồi bà giảng cho nó một bài giảng ngắn gọn về sự cần
thiết phải lao động, về lòng trung kiên và về tôn giáo.
Các tu sĩ Salêdiêng đã nhìn thấy một cách thân thương trong
bài giảng ngắn gọn của mẹ Margarita “lời chúc ngủ ngon” đầu
tiên. Đó là “lời huấn từ tối” vẫn được các bề trên ngỏ với các
học sinh trong các nhà Salêdiêng. Don Bosco sẽ coi tập tục này
như “chìa khóa của luân lý, của tiến bộ và của thành công”.
Tuy nhiên, mẹ Margarita không mấy tin chắc ở tính hiệu quả
của những lời giảng của mình, do đó, Don Bosco kết luận: “Để
mọi thứ khỏi lộn xộn, gian bếp sẽ được khóa kỹ và chỉ mở lại
vào sáng hôm sau”.
Đó là đứa bé mồ côi đầu tiên đã vào nhà của Don Bosco. Đến
cuối năm chúng sẽ lên tới bảy đứa. Chúng sẽ trở thành hàng
ngàn đứa.
Đứa thứ ba là một thằng bé mười hai tuổi, “điều kiện sống khá
giả”. Don Bosco gặp nó trên Đại Lộ Thánh Maxime (nay đã trở
thành đại lộ Nữ Hoàng Margherita). Nó đã gục đầu vào một
cây dù mà khóc. Nó không còn cha. Mẹ nó đã mất năm ngoái
và người chủ nhà đã tống nó ra khỏi cửa, đồng thời đã tịch biên
toàn bộ đồ đạc để bù vào khoảng tiền thuê nhà đã không được
thanh toán đủ số. Don Bosco bàn giao nó cho mẹ Margarita,
thằng nhóc thợ hồ đến từ Caronno Ghiringhelli. Chính Don
Bosco đã đích thân rủ nó đến. Một tối Chúa nhật, trong lúc
đang tạm biệt những đứa khác, ngài đã nắm tay nó giữ lại.

25.3 Page 243

▲back to top
- Con có muốn đến sống tại nhà của cha không?
- Rất sẵn lòng.
- Nếu vậy, cha sẽ bàn với anh Carlo của con.
Người anh trai, đã lui tới nguyện xá suốt sáu năm nay, bày tỏ
sự đồng ý. Giuse, 15 tuổi, vẫn tiếp tục hành nghề thợ hồ trong
thành phố, nhưng ngôi nhà của mẹ Margarita đã biến thành nhà
của nó.
Chú bé thợ cạo run như tầu lá
Rồi đến thằng Carlo Gastini, một hôm, vào năm 1848, Don
Bosco vào một tiệm hớt tóc. Một thằng bé lại gần ngài để phết
xà bông cạo râu.
- Con tên chi? Con bao nhiêu tuổi?
- Carlino. Con mười một tuổi.
- Carlino yêu quý, con hãy phết xà bông nổi thật nhiều bọt cho
cha. Còn bố con, ông mạnh khỏe chứ?
- Bố con chết rồi. Con chỉ còn có mẹ thôi.
- Ôi! Tội nghiệp cho con, thật là bất hạnh.
Thằng bé đã phết xà bông xong.
“Được rồi, tới luôn đi. Can đảm lên. Con hãy cầm lấy dao cạo
và hãy cạo râu cho cha đi”.
Ông chủ hoảng hồn, vội vàng can thiệp:
- Xin can cha, cha ơi! Thằng bé đâu có biết cạo. Nó chỉ làm
mỗi việc phết xà bông thôi ạ.

25.4 Page 244

▲back to top
- Nhưng đàng nào thì cũng có ngày nó phải bắt tay vào việc
chứ, phải không? Vậy thì, cứ để nó ra nghề luôn với tôi cũng
tốt chứ có sao đâu. Làm tới đi, Carlino!
Carlino vừa cạo râu vừa run bần bật như tàu lá. Khi nó bắt đầu
xoay tròn lưỡi dao cạo quanh cằm, mồ hôi nó rịn ra như tắm.
Mấy mảng da bị trầy tróc, vài vết rạch ngọt xớt, nhưng nó làm
cũng tạm ổn.
“Cừ lắm, Carlino à! Don Bosco mỉm cười. Và giờ đây, chúng
ta đã là bạn của nhau, cha muốn là con hãy thỉnh thoảng ghé
thăm cha một lần”.
Carlino bắt đầu lui tới nguyện xá và trở nên một người bạn
thân của Don Bosco.
Mùa hè năm ấy, Don Bosco thấy nó sụt sùi nước mắt nước mũi
trong tiệm hớt tóc.
- Có chuyện gì xẩy ra với con vậy?
- Mẹ con đã chết và chủ nhà đã đuổi con ra khỏi nhà. Anh hai
của con thì đang đi lính. Vậy cha bảo con phải đi đâu bây giờ?
- Con hãy đến với cha.
Trong lúc họ đi xuống Valdocco, Carlino nghe thấy câu này,
mà sau đó rất nhiều thanh thiếu niên sẽ được nghe: “Con thấy
chứ, cha là một linh mục nghèo. Nhưng dẫu cha chỉ còn một
miếng bánh, cha cũng sẽ chia xẻ với con miếng bánh ấy”.
Mẹ Margarita dọn thêm một cái giường khác.
Carlo đã ở lại nguyện xá hơn năm chục năm. Với bản tính vui
tươi, linh hoạt, nó sẽ trở thành người giới thiệu kỳ tài của mọi
lễ hội. Những màn tấu hài của nó khiến mọi người đều tức
cười, nhưng mỗi khi nói đến Don Bosco, nó lại khóc như một
đứa con nít bé bỏng. Nó quen nói: “Hồi ấy, ngài rất thương

25.5 Page 245

▲back to top
tôi”. Nó hay hát mãi một điệp ca mà riết rồi mọi người đều đã
thuộc lòng:
“Tôi phải sống
bảy mươi tuổi
đó là điều mà bố Gioan
đã nói với tôi”
Đó là một trong vô số những “lời tiên tri” mà Don Bosco, nửa
đùa nửa thật, đã nói với các con cái của ngài.
Carlo đã chết ngày 29-1-1902, hưởng thọ bảy mươi tuổi và một
ngày.
Cho những trẻ em đầu tiên đã sống tại nhà ngài, Don Bosco đã
biến hai căn phòng chung vách thành một phòng ngủ tập thể:
tám giường nằm, một cây Thánh giá, một ảnh Đức Mẹ, một
tấm bìa cứng với mấy chữ: “Chúa thấy con”.
Sáng sớm, Don Bosco làm lễ, còn bọn trẻ thì vừa dự lễ vừa đọc
kinh sáng với lần hạt mân côi. Rồi, một ổ bành nhỏ nhét trong
túi, chúng lên đường đến sở làm ở trong thành phố, chúng quay
về để ăn trưa và ăn tối. Món xúp “Minestra” luôn luôn đầy chất
lượng. Món chủ lực “ăn lấy chắc bụng” phụ thuộc vào cây nhà
lá vườn của “mẹ” và vào những đồng lire trong hầu bao của
Don Bosco.
Những đồng lire bắt đầu đặt ra cho ngài những vấn đề thê thảm
ngay từ những tháng đầu tiên ấy cho mãi đến ngày ngài nhắm
mắt xuôi tay. Nữ cộng sự viên đầu tiên của ngài không phải là
một bà bá tước, mà chính là thân mẫu của ngài. Người đàn bà
nhà quê ấy đã cho gửi đến, từ xóm Becchi, cái rương đựng toàn
bộ những thứ dùng trong dịp cưới xin của bà: nhẫn, bông tai,
dây chuyền đã được bà nâng niu bảo quản mãi tới giờ phút ấy.
Bà đã chẳng bao giờ mang chúng vào mình nữa ngày chồng bà

25.6 Page 246

▲back to top
về chầu Chúa. Bà đã đem bán tất cả để nuôi sống những đứa trẻ
đầu tiên.
Cú đánh đầu của Đức Tổng Giám Mục
Bản phác ấy của nhà Salêdiêng đầu tiên đã được Don Bosco
gọi là “cơ sở phụ của nguyện xá Thánh Phanxicô de Salê”.
Một tháng sau, ngày 21-6-1847, ngày lễ kính Thánh Lu-
y Gonzaga lần đầu, đã được cử hành một cách trọng thể. Don
Bosco sẽ luôn luôn giới thiệu vị thánh trẻ này như mẫu gương
của đức trong sạch. Đức Tổng Giám mục đã đến ban phép
Thêm sức cho những đứa chưa lãnh nhận Bí tích ấy.
“Nhân dịp này, Don Bosco nhớ lại, Đức Tổng Giám mục đã
được người ta đặt lên đầu chiếc mũ đại trào, lại không còn nhớ
là mình không phải đang ở trong nhà thờ chính tòa. Ngài bất
chợt ngẩng đầu lên và chiếc mũ đụng nhằm la-phông của nhà
nguyện. Ai nấy đều phì cười, mà chính ngài là người cười
trước tiên. Đức Cha Franzoni thì thầm: “Cần phải làm vinh dự
cho bọn trẻ của Don Bosco và để đầu trần mà giảng cho
chúng”.
Tháng chín, Don Bosco mua pho tượng Đức Mẹ đầu tiên, nhỏ
xíu, với giá hai mươi bảy lires. Pho tượng ấy, ngày nay vẫn còn
ở đó, trong nhà nguyện Pinardi. Ai vào đây sẽ gặp thấy nó
trong khoảng tranh tối tranh sáng. Phía bên phải, bọn trẻ rước
kiệu tượng ra các vùng phụ cận mỗi khi người ta mừng những
ngày lễ lớn kính Đức Mẹ. “Vùng phụ cận”, đó là mấy ngôi
nhà, quán nhậu bình dân bà làm vườn với những khách hàng
quen thuộc là bọn bợm nhậu ồn ào, hai dòng suối nhỏ để tưới
mát cho những thửa ruộng và những khi vườn, một con hẻm
hai bên mọc toàn những cây dâu (đường bà làm vườn) hồi ấy
hơi chếch ngang qua mảnh sân mà nay nằm dọc theo Vương
cung Thánh đường Đức Mẹ Phù hộ.

25.7 Page 247

▲back to top
Phù hiệu ba màu đeo trên ngực [cờ Ý Thống Nhất] trong thánh
lễ đại triều
Các lực lượng của phe tự do, ròng rã nhiều tháng trong năm
1847, đã không ngừng gây sức ép trên Carlo Alberto để mong
ông này mở đường cho một

25.8 Page 248

▲back to top
Chương trình cải tổ. Nhưng mà vua vẫn ngó chừng nước Áo và
muốn tiếp tục giữ quyền kiểm soát. Ông tiến lên một bước, rồi
lùi lại một bước, lưỡng lự hơn bao giờ hết.
Những cuộc biểu tình của quần chúng với những tiếng hô “vạn
tuế Đức Piô IX” những ngày sau đó, đều bị cảnh sát cấm. Nhà
vua cho biết là ông “đang nghĩ đến những sự cải tổ, nhưng ông
muốn rằng nhân dân phải ở yên”.
Trong tháng Chín, nhạc trưởng Novara (làm việc tại đường
Rosa Rossa số 10, hiện nay là đường XX Settembre (Tháng 9
số nhà 68) phổ nhạc cho một bài thi ca được sáng tác tại
Genova và được gửi đến đây. Đó không phải là một tuyệt tác
phẩm, nhưng là một bài ca có ít dòng nhạc, với đề tài là
“Fratelli d’ Italires” (Hỡi Các Anh Em Công Dân Ý), và nó đã
trở thành bài quốc ca của nền Phục Hưng Ý.
Ngày 1 tháng Mười. Vào ban chiều, tại vườn Ripari, một đám
đông dân Torino tụ họp lại vỗ tay mừng Đức Thánh Cha và
Đức Vua. Khi họ quay về nhà, thì bị giải tán một cách dữ dằn
bởi cảnh sát. Đó là một lệnh của nhà Vua.
Cũng trong tháng đó, Vua Carlo Alberto sa thải bá tước Solaro
della Margarita, người đã giữ chức bộ trưởng ngoại giao từ 12
năm qua và là hiện thân cho nền chính trị bảo thủ và thân Áo.
Những cuộc biểu tình của dân chúng hô vang “Hoan hô Đức
Piô IX”, trong những ngày kế tiếp, đã bị cảnh sát giải tán. Đức
Vua cho người ta hiểu rằng “ông đang nghĩ đến những cải cách
lớn, nhưng muốn dân chúng giữ yên tĩnh”.
Ngày 29 tháng Mười. Một dự luật được đệ trình nhằm trao cho
các đô thị hay thành phố tự trị nhiều quyền tự do quản trị hơn.
Các Hội Đồng được bầu từ cơ sở. Tuy nhiên các cử tri không
phải là toàn dân, mà chỉ bao gồm những người chủ đất đã trả
thuế, các giáo viên và những người nắm những chức vụ công

25.9 Page 249

▲back to top
cộng mà thôi.. Tổng số các cử tri chỉ là 2% dân chúng. Đàng
khác quyền tự do báo chí cũng được
Tháng mười một, Carlo Alberto, Công tước Leopoldo di
Toscane và Đức Piô IX cùng ký những văn kiện dự bị cho
“Liên minh Ý Đại Lợi”. Nghĩa là, cho việc hợp nhất về thuế
quan giữa ba quốc gia. Đây có vẻ là một quy trình rõ nét hướng
về “Liên minh các quốc gia thuộc Ý” đã được tiên đoán bởi
Gioberti. Torino tung hô nhà vua với tất cả sự hồ hởi.
Ngọn lửa ấm trong phòng áo
Trong tháng mười hai ấy, Don Bosco đã không để mình bị tê
liệt bởi các biến cố lớn. Ngài vẫn tiếp tục công việc của mình
với lòng khiêm hạ. Bọn trẻ của nguyện xá này đã lên đến nhiều
trăm, Don Lemoyno nói là tới tám trăm đứa. Chúng đến cả từ
những khu phố rất xa. Don Bosco, Don Borel, Don Carpano
thăm dò lẫn nhau và đều thống nhất ý kiến. Cần phải mở thêm
một nguyện xá thứ hai ở phía nam của thành phố. Đại lộ mà
nay được gọi là “Corso Vittorio” hồi ấy nằm kề bên những căn
nhà lụp xụp, nơi thường trú của các bà thợ giặt. Những tấm vải
thêu hoa trải dài dưới nắng và gió mang lại một dáng dấp của
sinh hoạt nông thôn cho vùng ven này của kinh thành Torino,
nơi được gọi là “Porta Nuova” Cổng Mới. Các nông dân “khá
giả” đến đó dạo chơi vào mỗi chiều Chúa nhật và những băng
nhóm con nít vô công rỗi nghề thường chơi đánh trận giả ở đó.
Bà Vaglienti đã cho Don Bosco thuê, với sự đồng ý của Đức
Tổng Giám mục, một ngôi nhà nhỏ, một kho chứa đồ làm vườn
và một đồng cỏ nhỏ “gần cây cầu sắt” với giá 450 lires/năm.
Rồi ngài báo tin cho đám con cái của mình bằng những lời sau:
“Các bạn, khi lũ ong trở nên quá đông trong một tổ ong, một
phần trong bọn chúng sẽ đi nơi khác ở. Chúng ta sẽ bắt chước
chúng. Chúng ta sẽ mở một nguyện xá thứ hai. Những ai thuộc
vùng phía nam thành phố sẽ không còn phải đi xa nữa. Bắt đầu

25.10 Page 250

▲back to top
từ lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm, họ sẽ có thể đến nguyện xá thánh Lu-
y ở Porta Nuova, gần cây cầu sắt”.
Don Borel làm phép nguyện xá mới ngày 8-12-1847. Don
Carpano trở thành giám đốc của nguyện xá này trong mùa đông
cực kỳ nghiệt ngã ấy. Ngài đi bộ đến đó, với một bó củi giấu
dưới vạt áo măng tô, để đốt lửa trong phòng áo và sưởi ấm với
những đứa đến trước tiên.
Người Ý hăm hở ra mặt trận trong cuộc chiến tranh
vì nền độc lập và thống nhất nước Ý

26 Pages 251-260

▲back to top

26.1 Page 251

▲back to top
Chương 24
CƠN SỐT ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT NĂM 1848
Kỷ niệm
150 năm
Nước Ý
Thống Nhất
Năm 1848, các nước châu Âu đều nổ tung như những kho đạn,
những ngọn lửa của cách mạng đặc biệt bùng lên tại các thành
phố: Paris (ngày 23-24 tháng hai), Thủ đô Vienna (ngày 13
tháng ba), Berlin (ngày 15 tháng ba), Budapest (15 tháng ba),
Milan (18 tháng ba).
Tại các chốt phòng thủ trong các đô thị, người ta có thể theo
dõi những cuộc chiến tranh và những trận đánh, trong vòng hai
tháng, cả châu Âu đền chìm trong khói lửa.
Đây đã là cả một vụ nổ toàn diện đến nỗi, ngày 3 tháng Tư, Sa
hoàng Nicolas của Nga, đã phải bàng hoàng tự hỏi: “có gì còn
đứng vững trên toàn cõi châu Âu này nữa!” và bất kỳ một vụ
đảo lộn hỗn loạn nào bất cứ cái gì đều sẽ được gọi, kể từ thời
điểm ấy, theo ngôn ngữ thông dụng là: “một vụ 48”.

26.2 Page 252

▲back to top
Như thường lệ, chúng tôi không có ý định vẽ lại đây bức tranh
đầy đủ của lịch sử nước Ý và của châu Âu, mà sẽ chỉ nêu ra
những biến cố chính đã có một ảnh hưởng sâu đậm trên các sự
kiện trong cuộc sống của Don Bosco, đặc biệt là những biến cố
xảy ra ở Torino và tại xứ Piemonte, là những gì đã đặt điều
kiện cho đường lối ứng xử và cho các sự chọn lựa của ngài.
Các phe tự do, ái quốc, thợ thuyền sát cánh nhau trong các
chiến tuyến phòng thủ
Ta không thể nào hiểu được trận động đất năm 1848 nếu ta
không ghi nhớ trong đầu mình ba nhân tố chủ lực giao thoa với
nhau: các trào lưu của phe tự do đấu tranh để thiết đặt những
cơ cấu hiến chế và nghị viện thay cho chính sách chuyên chế;
khát vọng của các quốc gia cá thể nhắm vào nền độc lập chống
lại đế quốc Áo; các phong trào thợ thuyền đấu tranh cho sự
công bình rộng lớn hơn về mặt xã hội.
Để diễn tả điều này một cách văn hoa bóng bẩy: trên các chốt
phòng thủ tại các quốc gia khác nhau ở châu Âu, cùng sát cánh
chiến đấu bên nhau, người theo phe tự do muốn có một biện
pháp, người ái quốc đòi hỏi nền độc lập cho Tổ quốc mình
thoát khỏi sự lệ thuộc nước ngoài, người công nhân đánh nhau
với người chủ là kẻ bắt họ phải lao động quần quật từ mười hai
đến mười bốn giờ mỗi ngày.
Phong trào thợ thuyền đấu tranh đặc biệt là ở Paris. Với những
chốt phòng thủ ngày 24 tháng 2 tại các khu phố phía đông, nó
đã mở đường cho vụ 1848. Đó là một thắng lợi hiển hách. Chế
độ quân chủ của Vua Lu-y Philipphê bị lật đổ, người ta thấy
giới trưởng giả và thợ thuyền bắt tay thân thiện với nhau chung
quanh thân cây tự do, được làm phép bởi các linh mục, quyền
lợi trong lao động được công bố, ngày làm việc giảm xuống
còn mười giờ, người ta đã mở những “xưởng thợ xã hội”.

26.3 Page 253

▲back to top
Nhưng bốn tháng sau (tiếp theo những sai lầm nghiêm trọng
của các thợ thuyền và sự bất khoan nhượng của giới trưởng
giả) đã nảy sinh một sự thoái hóa cũng chớp nhoáng không
kém. Paris, nơi có tập trung tới 140.000 thợ thuyền, đã bị tấn
công bởi tướng Cavignac suốt bốn ngày đấu tranh hung hãn (từ
23-26 tháng 6). Sự thoái hóa khủng khiếp, ngày làm việc trở lại
mười hai giờ.
Sự thoái hóa này sẽ dẫn thợ thuyền tới chỗ bỏ rơi những kẻ
theo thuyết “xã hội chủ nghĩa nhân bản” và chấp nhận thuyết
Mác-xit, cứng rắn hơn, tàn nhẫn hơn (Marx đã viết cuốn Tuyên
Ngôn Cộng Sản vào tháng 1 năm 1848).
Bên ý, phong trào thợ thuyền chỉ có các chiến sĩ trên các chốt
phòng thủ ở Milan. Toàn bộ vụ 1848 của Ý, ngược lại, đã bị
khống chế bởi những kẻ theo phe tự do với yêu sách: những
quốc vương chuyên chế, một hiến pháp và, mặc cho các nhà ái
quốc xách động cuộc chiến tranh giành độc lập chống lại nước
Áo. Nước Áo chiếm đóng, về mặt lãnh thổ, hai xứ Lombardia
và Veneto và áp đặt quyền giám hộ gắt gao của mình trên
nhiều quốc gia khác nữa.
Năm 1848 chia thành ba giai đoạn biến động: Việc ban hành
Hiến pháp, những cuộc nổi dậy của dân chúng chống lại quân
Áo, cuộc chiến tranh giành độc lập đầu tiên dưới sự dẫn dắt của
Vua Carlo Alberto
Hiếp pháp sẽ được gọi là “Pháp chế”
Ở Torino, năm 1848 khởi sự với tư tưởng về chiến tranh mà
người ta cảm thấy đang sắp bùng nổ. Mọi người đều nói về
chính trị, những chỉ trích, những phương án, những tuyên
ngôn. Một sự kiện mới mẻ nữa chính là các tờ báo chính trị
“xuất bản tự do”, càng ngày càng tăng lên gấp bội do kết quả
của luật tự do báo chí, và thi thố một nhiệm vụ hướng dẫn quan
điểm của quần chúng.

26.4 Page 254

▲back to top
Giám đốc trẻ của tờ báo Phục Hưng (ra ngày 15-12-1848)
chính là Camillo Benso di Cavour, mũi nhọn sinh động của
những người phe tự do. Ngày 1 tháng Giêng xuất hiện tờ
báo Hòa Giải, thuộc phe Dân chủ và Nhân dân Cánh Tả, do
Valerio dẫn dắt. Ngày 26 tháng Giêng khai mạc các đợt
báo Quan Điểm của ông Durando, trong tháng Sáu xuất hiện
tờ Gazzetta del Popolo (Báo Tin Nhân dân), rất mãnh liệt và
tung tin rối, trong tháng Bảy tờ Hòa giải do kinh sĩ Gastaldi,
giám mục tương lai cuả Torino, điều hành, và tờ Hài Hòa của
Gustavo Cavour, em của Camillo Cavour, có thiên hướng Công
giáo.
Ngày 30 tháng 1, tin tức loan báo là ở Napoli, vua Ferdinand
đã nhượng bộ Hiến pháp và tại Milan thiên hạ đang tẩy chay
quân Áo. “Thập nhân đoàn” của Torino đến gặp Carlo Alberto
và đề nghị ông ban hành Hiến pháp. Thập nhân đoàn là một
kiểu hội đồng toàn những viên chức cao cấp đảm nhận vai trò
làm trung gian giữa nhân dân và chính quyền trung ương (chú
thích của dịch giả).
Ngày 7 tháng 2, Carlo Alberto họp Hội đồng bất thường của
Hoàng gia và tuyên bố sẵn sàng cứu xét một dự thảo Hiếp pháp
(được gọi là “Pháp chế”) trong đó tôn giáo và các chức vị cao
của chế độ quân chủ phải được tôn trọng. Nhưng ông kêu gọi
Thập Nhân Đoàn gìn giữ cho các Quảng Trường vắng bóng
đám đông: ông sẽ không chấp nhận những sự áp đặt.
Ngày 10 tháng Hai, Đức Piô IX nói cho một đám đồn rất sôi
động. Ngài xin mọi người “đừng đòi hỏi một sự cải tổ mà ngài
không thể nào ban cho được. Và ngài kết luận: Anh em hãy
chúc tụng Thiên Chúa vĩ đại, Nước Ý, và hãy ý thức về hồng
ân Đức Tin vô cùng quí báu của anh em”. Các thủ lãnh của
công luận, kể từ nay đã quyết định sử dụng Đức Piô IX như là
phương tiện để họ đánh lại nước Áo, đã quên ráo “những cuộc
cải cách không thể ban được” và “hồng ân đức tin”, và tái

26.5 Page 255

▲back to top
truyền lan trong khắp nước Ý một lời duy nhất của ngài là “Lạy
Thiên Chúa, xin hãy chúc lành cho Nước Ý”.
Lời kêu cầu đó đã trở thành lá cờ giải phóng và tiếng còi xung
trận. Đức Piô IX hết sức nỗ lực để làm sáng tỏ vấn đề, nhưng
thất bại. Có lẽ chính tại điểm này mà Don Bosco bắt đầu nghi
ngờ phong trào tân tự do theo kiểu của ông Guelfo và tự tách
mình ra khỏi những người phe tự do.
Trong những ngày sau đó có tin rằng Hiến Pháp đã được nhà
vua ký tại Firenze (17 tháng Hai) và cũng có tin về cuộc cách
mạng tại Paris (23 tháng Hai).
Ngày 27, người ta quyết định tổ chức một buổi lễ lớn “Lễ Tạ
Ơn vì bản Hiếp Pháp mới”. Quảng Trường Vittorio mênh
mông sẽ được các phái đoàn tề tụ về từ mọi phần đất Piemonte,
Liguria, Sardegna, Savoia. Tất cả các khố tổ chức của Torino
đều được kêu mời tham dự đông đủ. Chính Bá tước Roberto D’
Azeglio cũng xuống Valdocco, mời Don Bosco cùng tất cả các
học sinh của Don Bosco tới tham dự.
Don Bosco và vị Hầu tước Roberto D’ Azeglio mặt đối mặt
Trong Hồi Ký Nguyện Xá, Don Bosco tái lập lại cuộc đối thoại
giữa ngài với hầu tước này. Có lẽ đây không phải là nguyên
văn từng lời của mỗi bên. Nhưng chúng ta tin rằng đây là một
cuộc đối thoại cực kỳ quan trọng, bởi vì Don Bosco (sau biết
bao nhiêu năm suy nghĩ trước khi ghi lại) đã cho chúng ta hiểu
đâu là thái độ của ngài đối với chính trị. Do đó chúng ta đan cử
ra ở đây những phần chính của nó.
“Một chỗ đã dành cho chúng ta tại Quảng Trường Vittorio, bên
cạnh tất cả các tổ chức dưới bất cứ một danh hiệu, mục đích và
điều kiện nào. Vậy phải làm gì bây giờ? Từ chối có nghĩa là
mình tự tuyên bố mình là kẻ thù của Nước Ý; nghe theo, có

26.6 Page 256

▲back to top
nghĩa là chấp nhận những nguyên tắc mà tôi cho là có những
hậu quả tai hại.
Ngài d’ Agelio lên tiếng:
Hãy để cho thành phố biết là công cuộc của cha không
đi ngược lại với những công cuộc hiện đại. Điều ấy sẽ
có lợi cho cha: các quà tặng sẽ tăng lên; Tòa Hành
chánh và chính tôi đây sẽ rộng rãi ủng hộ cha.
Thưa ngài Hầu tước, hệ thống hành động kiên vững của
tôi là đứng ngoài mọi sự có liên quan tới chính trị.
Không bao giờ ủng hộ, mà cũng không bao giờ chống
đối.
Vậy cha muốn gì?
Thực hiện một chút ít lợi ích mà tôi có thể cho các trẻ bị
bỏ rơi, trong khi tận dụng tất cả mọi phương tiện để
giúp chúng trở nên các Kitô hữu tốt trước mặt tôn giáo,
và các công dân lương thiện trước mặt xã hội dân sự.
Cha lầm rồi. Nếu cha cứ kiên định trong nguyên tắc
này, cha sẽ bị tất cả mọi người bỏ rơi.”
Don Bosco lại tin chắc hoàn toàn ngược lại thế: ngài sẽ bị bỏ
rơi bởi mọi người nếu ngài dây mình vào chính trị, cách riêng
nếu ngài tỏ ra đồng chia sẻ những thái độ của các người phe tự
do. Thế rồi ngài tiếp tục lên tiếng một cách ương ngạnh:
Xin ngài hãy mời tôi tới tham dự vào một chuyện gì đó
nơi mà một linh mục có thể thực thi đức bác ái, và ngài

26.7 Page 257

▲back to top
sẽ thấy tôi sẵn sàng và mau mắn hy sinh đến cả mạng
sống và của cải. Nhưng tôi muốn bây giờ và mãi mãi
đứng ngoài chính trị”.
Những băng nhóm chống giáo sĩ tràn ra khắp nơi
Đoàn diễu hành tới Quảng Trường Vittorio thật là ấn tượng:
50,000 người diễu hành trên các con đường trước đức vua cưỡi
ngựa. Đức Tổng Giám Mục từ chối cử hành Thánh Lễ và hát
“Te Deum” [Bài ca Tạ Ơn Thiên Chúa] tại Nhà Thờ Chính Tòa
kính Đức Mẹ Vĩ Đại. Ngài chỉ cho phép Chầu Phép Lành.
Các thầy chủng sinh đã trái lệnh Đức Tổng Giám Mục, tham
gia đoàn diễu hành với cờ Ba Mầu Ý. Ngay lập tức, để đáp trả,
chủng viện đã bị đóng cửa.
Những quyết định này giống như giọt nước tràn ly tạo nên làn
sóng chống giáo sĩ.
Chiều ngày 2 tháng Ba, những băng nhóm du côn tấn công hai
nhà dòng Tên gần nhà thờ Các Tử Đạo và nhà thờ Cát-minh,
đập bể kính và phá vỡ các cửa ra vào.
Ngày hôm sau, cùng những thủ đoạn trên đến bao vây và đe
dọa nhà các sơ “Các Bà kính Thánh Tâm Chúa”. Hầu như liên
tục 7 ngày, họ bao vây nhà dòng, trong khi các lính canh thì
vắng mặt.
Trong những ngày liền sau đó, các cha dòng tên và các nữ tu
Thánh Tâm Chúa đều rời thành phố.
Các băng nhóm chống giáo sĩ tiếp tục la hét, đập phá. Dưới các
cửa sổ của Học viện Giáo sĩ, chúng la hét: “Don Guala phải
chết!”. Chúng nỗ lực tấn công dinh Hầu tước Barolo bởi vì có
tin đồn là bà chưa chấp các cha Dòng Tên.

26.8 Page 258

▲back to top
Ngày 4 tháng 3, trước sự hiện diện của Hội đồng Hoàng gia,
Carlo Alberto ký Pháp chế. Quyền hành tuyệt đối của nhà vua
đã bị triệt tiêu, chế độ nghị viện bắt đầu.
Liên tiếp trong nhiều ngày, những tin tức quan trọng được
truyền tới: Thủ đô Vienna đã nổi dậy và hoàng đế đã sa
thải Metternich, Bộ trưởng Quốc gia Áo (ngày 13 tháng 3).
Đức Piô IX đã chấp nhận Hiến pháp. Các cuộc cách mạng ở
Berlin và ở Budapest nổ ra ngày 15 tháng Ba. Trong số những
tin tức vang dội hơn cả: Thành phố Venezia đã nổi lên chống
lại quân Áo (ngày 17 tháng 3), Milan đã bắt đầu cuộc khởi
nghĩa chống lại các toán quân Áo do Radetski chỉ huy (ngày 18
tháng 3).
Ngày 19 tháng 3, bá tước Arese, người mang những tin tức và
các đề nghị, đã đến Milan. Tại “Ban Trung ương” của phe cách
mạng hiện có một cao trào cộng hòa rất mạnh đối nghịch với
Carlo Alberto, nhưng cao trào của Gabio Casati, người bạn của
xứ Piemonte, đã chiếm được lợi thế. Ông yêu cầu sự chi viện
về mặt quân sự của Carlo Alberto.
Hội đồng bộ trưởng với nhà vua cùng cứu xét tình hình. Làm gì
đây? Người ta quyết định trước hết gửi các toán quân ra vùng
biên giới để phòng chống những vụ xâm nhập khả dĩ xẩy ra của
quân Áo. Một biệt đội quân cấm vệ lên đường đến Ticino.
Tại Milan, trong khi đó, người ta vẫn tiếp tục đánh nhau. Ngày
20, tướng Radetski, tổng chỉ huy các đội quân hoàng gia, đề
nghị một cuộc ngưng chiến: đề nghị bị bác. Ngày 22, Cổng
Tosa bị chinh phục bởi những người của Luciano Manara.
Quân Áo bỏ Milan.
Quân Áo cũng bị đuổi khỏi Venise. Daniel Manin, được phóng
thích khỏi các khám đường, đã được tung hô làm Tổng thống
của nước cộng hòa Thánh Marcô.

26.9 Page 259

▲back to top
Quần chúng, trên các đường phố Torino, reo hò vang dội:
“Chiến tranh! Chiến tranh!”.
Ngày 25 tháng 3, chiều tối, các đại biểu của Milan chiến thắng
đã tới nơi. Họ yêu cầu một sự can thiệp tức khắc của quân đội
trước khi quân Áo trở lại tấn công thành phố. Họ ra hai điều
kiện: chấp nhận “ba màu cờ Ý” thay cho màu cờ xanh của
Savoia, và sự triển khai việc kéo quân đội Piemonte vào Milan
sau khi chiến thắng.
Chiến tranh chống lại nước Áo
Hội đồng bộ trưởng quyết định phát động chiến tranh. Carlo
Alberto bày tỏ sự nhất trí. Chiến tranh được tuyên bố với Áo.
Nhà vua xuất hiện trên bao lơn của hoàng cung ở quảng trường
Castello và, tay phất lá cờ ba màu, ông chào quần chúng đang
hò la: “Chiến tranh chống lại nước Áo!”
Trong đêm, Carlo Alberto cùng con trai lên đường ra tiền tuyến
dẫn đầu 60.000 người. Một quần chúng đông đặc chen chúc
trên đường Pô và quảng trường Vittorio để chào mừng ông.
Thật giống với một lễ hội tưng bừng.
Nhưng chiến tranh lại là chuyện khác. Trong những ngày tiếp
sau đó, tất cả các liên đội đều rời khỏi Torino. Bao nhiêu ngựa
đều bị trưng dụng cả cho pháo binh và những đoàn tàu cho việc
chuyên chở các khí tài.
Thành phố, không còn cảnh “ngựa xe như nước, áo quần như
nêm”, chìm trong một cảnh tĩnh mịch dị thường với một luồng
sợ hãi xuyên suốt.
Những trận đánh thật và những trận đánh giả ở Valdocco
Cả đến lũ con nít cũng hít thở bầu khí chiến tranh. Trên những
đồng cỏ vây quanh khu Valdocco, những tên “anh chị” của các
vùng Vanchiglires, Borgo Dora, Porta Susa đang lao vào những

26.10 Page 260

▲back to top
trận đánh đích thực. Đây không phải là những trò đùa. Bọn trẻ
võ trang bằng gậy, bằng dao bằng đá, đã giáng cho nhau những
đòn chí mạng. Don Bosco thường phải ra khỏi nhà để đi kêu
cảnh sát ngõ hầu cùng họ lao vào giữa những tên hăng máu
hơn cả.
Một hôm, không xa ngài, ngài thấy một đứa trẻ mười lăm tuổi
thọc sâu mũi dao của nó vào bụng đối thủ. Người ta hối hả đưa
nạn nhân đến bệnh viện và thằng bé đã chết trong lúc miệng
còn ấp úng: “Mày sẽ bị tao báo oán”.
Don Bosco xót xa nhớ lại: “Những vụ khiêu khích ấy chẳng
bao giờ chịu ngưng. Đôi khi, có những nhóm họp nhau lại để
ném đá vào “nhà của ông cha xứ”. Đá rớt như mưa trên mái
ngói, vào lúc các khung cửa sổ khiến Giuse Buzzetti và những
đứa khác sợ run lên.
Để lôi cuốn bọn trẻ vào nguyện xá, Don Bosco đã lợi dụng bầu
khí chiến tranh để bịa ra một số trò chơi mới. Một trong số các
bạn thân của ngài, tên Giuse Brosio, đã có hồi làm cảnh sát. Để
đến Valdocco, Ông đã khoác lên mình bộ quân phục oai phong,
gây niềm hưng phấn và nể trọng suốt mấy tháng dài. Don
Bosco khuyến cáo ông nên dùng ngay bọn trẻ để thành lập một
liên đới thu nhỏ, đồng thời dạy cho chúng những thao tác và
những chuyển động trong lúc giao chiến.
Brosio chấp nhận. Ông xin được chính quyền hai trăm khẩu
súng dài, kiểu cổ lỗ sỉ, với nòng súng được thay bằng một cây
gậy. Ông thổi kèn clairon và bắt đầu các bài học bước đều
bước, quay phải, quay trái, tấn công bằng lưỡi lê, rút lui, xuất
kích. “Liên đội” trình diễn những màn được tán thưởng nồng
nhiệt và đảm trách việc giữ trật tự ngay trong nhà thờ.
Một chiều Chúa nhật, đang khi quần chúng bị cuốn hút bởi
tiếng kèn clairon, đang say mê theo dõi các thao tác thì tai họa
xảy đến nhân một vụ phản công. Quân bại trận, tan hàng rã

27 Pages 261-270

▲back to top

27.1 Page 261

▲back to top
ngũ, bị truy lùng bởi những kẻ chiến thắng hung hãn, đã vào
trốn trong vườn của mẹ Margarita, chà đạp nát rau diếp nào
hành, ngô, nào cà tô mát.
Bà “mẹ” chứng kiến cảnh tan hoang mà lòng quặng đau từng
khúc ruột.
Varda, varda Giôannin la ca I’an fait, bà thì thầm với đứa con
trai đang đứng gần mình, à I’an gues tame tut (“Coi kìa, Gioan,
hãy coi chúng gây ra cho mẹ như thế đó, chúng đã phá tan
hoang hết của mẹ rồi”).
“Hãy để tôi quay về nhà mình”
Có lẽ chuyện xảy ra ngay chiều hôm sau đã khiến mẹ
Margarita mất hết kiên nhẫn. Bọn trẻ đã đi ngủ, còn bà thì như
thường lệ, thấy mình đứng trước một đống quần áo phải mạng
vá, chúng đã bỏ dưới chân giường cho bà nào áo sơ mi rách,
nào quần tây xút chỉ, nào những chiếc vớ lủng lỗ. Và bà phải
vá lại dưới ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn dầu bởi lẽ sáng mai
bọn chúng chỉ có bấy nhiêu đó để mặc. Don Bosco ngồi bên
mẹ, đặt những miếng vá lên các cùi chỏ áo veston và gò lại
những chiếc giày móp méo.
- Gioan à, bà bỗng phều phào, mẹ mệt quá đi thôi. Con hãy để
mẹ quay về Becchi cho rồi. Mẹ phải làm việc đầu tắt mặt tối,
mẹ là một bà lão hom hem mà bọn nhóc ấy lại phá hư hết của
mẹ. Mẹ chịu hết nổi rồi.
Don Bosco không còn lòng dạ nào mà kể một chuyện giễu để
giúp mẹ khuây khỏa. Ngài không nói dù chỉ một lời, không
một lời lẽ nào có thể an ủi nổi người đàn bà đáng thương ấy.
Ngài chỉ phác một cử động, ngài đưa tay chỉ cây Thánh giá treo
trên tường. Và bà mẹ quê đã hiểu. Bà lại nghiêng nghiêng mái
đầu bạc phơ trên những chiếc vớ lủng lỗ, trên những cái áo sơ
mi rách tả tơi và lại tiếp tục khâu vá.

27.2 Page 262

▲back to top
Bà sẽ không bao giờ còn nói đến chuyện quay về nhà mình
nữa. Bà sẽ qua những năm tháng tàn tạ của đời mình giữa bọn
trẻ ấy tay phá phách và mất dạy nhưng lại rất cần có một người
mẹ. Bà sẽ chỉ cam phận ngước mắt thường hơn về cây Thánh
giá, ngỏ hầu lấy lại can đảm, bà già đáng thương đã quá mỏi
mệt ấy.
Cuộc chiến tranh tại ý tại xứ Lombardia
Ngày 26 tháng ba, theo những nguồn tin đang đổ về, thì dường
như các giấc mơ của phái ủng hộ Giáo hoàng đang biến thành
hiện thực một cách chớp nhoáng. Để tán trị quân đội của Carlo
Alberto trong “cuộc giải phóng nước Ý”, từ các quốc gia thuộc
Nước Đức Giáo hoàng, đã xuất phát 17.000 quân sĩ cùng với
tướng Durando; từ xứ Toscano, 7.000 quân tình nguyện cùng
với Montanelli; hai xứ Parme và Modane, bằng những cuộc
trưng cầu dân ý, tuyên bố muốn sáp nhập và xứ Piemonte.
Ngày 6 tháng Tư, bị cuốn hút bởi hưng phấn tập thể, Ferdinand
xứ Napoli tuyên chiến với nước Áo và giao một đoàn quân
viễn chinh gồm 16.000 người cho đại tướng Gugliemo Pepe.
Cuộc chiến tranh diễn ra tại xứ Lombardia là một “cuộc chiến
tranh Ý”.
Tin mừng tới tấp bay về Torino. Quân đội giành được những
thắng lợi đầu tiên ở Mozanbano và Goita (ngày 8-9 tháng Tư),
Garibaldi đã khởi hành từ châu Mỹ với “quân đoàn Ý” của
ông (ngày 15 tháng Tư).
Nhưng một gáo nước lạnh sắp dội xuống trên những niềm hưng
phấn và những cơn giận của dân Ý.

27.3 Page 263

▲back to top
Chương 25
HY VỌNG SỤP ĐỔ
Ngày 27-4-1848, bá tước Rignon, do Carlo Alberto cử đi đã tới
La Mã. Ông xin Đức Piô IX một sự ủng hộ cả về vật chất lẫn
tinh thần cho cuộc chiến tranh. Đức Giáo hoàng trả lời rằng sự
ủng hộ về vật chất ngài đã cung cấp cho ông ta rồi khi gửi
Durando và 17.000 quân sĩ đến trên sông Pô. Còn sự ủng hộ về
tinh thần, ngài cần phải nghĩ kỹ: “Giả như tôi vẫn còn có thể ký
tên Mastai, tôi sẽ cầm lấy bút và chỉ sau vài phút là việc ấy sẽ
xong xuôi, bởi lẽ tôi cũng là người Ý. Thế nhưng, hiện nay tôi
phải ký là Piô IX, mà vị thủ lãnh của Hội thánh phải là thừa tác
viên của hòa bình chứ không phải của chiến tranh”.
Ngài suy nghĩ suốt hai ngày. Hai ngày đã được đặt dưới kính
hiển vi của các sử gia, mà kết quả chẳng được bao nhiêu. Hình
như trong bốn mươi tám tiếng đồng hồ ấy, những mối quan hệ
với Áo và với Đức đã dựa vào các khối Công giáo đang nổi
loạn chống lại Tòa thánh: có hiểm họa ly giáo.
Chấm dứt sự hiểu lầm
Ngày 29 tháng Tư, trong một diễn văn đọc trước các Hồng y,
Đức Piô IX tuyên bố là những sự cải tổ của ngài đã được khơi
dậy không phải bởi những động cơ “tự do chủ nghĩa” mà là bởi
những tình cảm nhân bản và Kitô giáo. Giải pháp một cuộc
“chiến tranh chống lại dân Đức” khiến ngài hết sức bối rối.
Ngài xin với Chúa, không phải chiến tranh mà là sự hòa hợp và
nền hòa bình. Ngài cũng tuyên bố là mình không thể sẽ trở
thành “tổng thống của một nước cộng hòa được lập nên bởi các
dân tộc gốc Ý”.
Bằng những lời trên, Đức Piô IX đã đặt dấu chấm dứt sự hiểu
lầm chính trị, được đẩy đi quá xa bởi những lời công bố to
miệng của phe tự do đã muốn sử dụng Ngài làm bung xung, và

27.4 Page 264

▲back to top
cũng bởi những nỗi do dự riêng của cá nhân ngài. Dù những lời
trên chỉ nhằm khước từ quyền lãnh đạo một “nước cộng hòa”
chứ không phải một “liên minh các nước theo chế độ quân
chủ”, nhưng những lời ấy cũng đã đánh một đòn chí tử vào
giấc mơ của phái chủ trương một quốc gia theo giấc mơ của
những người thuộc phe tân tự do.
Ngay sau đó, Đức Piô IX liền gửi một thư cho Đức Vua. Ngài
đề nghị cho các miền của Ý được liên kết với nhau một cách an
hòa thành một quốc gia duy nhất. Đây là một hoạt động phù
hợp với thiện chí hiếu hòa của ngài, nhưng mắc thiếu sót do sự
quá chân chất ngây thơ của ngài. Nó chẳng đi đến đâu.
Ngọn lửa bùng sáng như một ánh chớp, nhưng cũng ngay lập
tức tắt ngụm. Những hỗn loạn nghiêm trọng đã diễn ra trên sân
khấu chiến tranh tại các thủ đô khác nhau của Ý. Liopoldo của
xứ Toscane và Ferdinand của Napoli đã triệu hồi các đoàn quân
của mình về nước. Quốc vương xứ Napoli còn đi xa hơn: bằng
một cuộc chính biến đã gây nên những đối đầu nghiêm trọng
giữa những người biểu tình và cơ quan công lực, ông đã giải
tán nghị viện (ngày 15 tháng 5).
Ngày 30 tháng 5 là ngày rạng rỡ cuối cùng đối với Torino. Dân
chúng Torino đón nhận tin vui về chiến thắng ở Goito và tin
đầu hàng của quân Áo ở Peschiera, đánh dấu cuộc chiến thắng
quân Áo của Vua Carlo Alberto. Phố xá được trang hoàng lộng
lẫy, các khung cửa sổ sáng choang, người ta reo hò: “Vạn tuế
Carlo Alberto, vua nước Ý!”
Nhưng ngay sau đó lại diễn ra những ngày cay đắng. Radetski,
tướng Nước Áo, lại chiếm được Vicenze, chiếm đóng Padona,
Treviso và Mestre.
Chiến tranh bắt đầu đè nặng lên cuộc sống ở Torino. Các
thương vụ giậm chân tại chỗ, không có tiền bạc lưu thông,
nhiều hiệu buôn đóng cửa, những kẻ thất nghiệp rất đông.

27.5 Page 265

▲back to top
Những người thợ giày và thợ may đều đình công vì thu nhập
quá thấp.
Gà-men và “khẩu phần” tại nguyện xá
Trong bầu không khí nghèo khổ rộng khắp ấy, tại Nguyện xá ở
Valdocco, người ta cũng phải thắt lưng buộc bụng. Khi các lao
động nhỏ sống với Don Bosco trở về vào giữa trưa, chúng đến
trình diện tại nhà bếp với các gà men cá nhân để nhận lấy
“khẩu phần” của mình. Cái nồi đang sôi trên bếp lửa chứa đựng
gạo và khoai tây, bột nhồi và đậu haricol, hoặc một hỗn hợp bổ
dưỡng được khuyến cáo nên dùng trong thời chiến: hạt dẻ phơi
khô nấu chung với bột ngô.
Don Bosco phân phối món súp được ngài cho thêm gia vị là
những câu nói đùa: “Hãy làm vinh dự cho ông đầu bếp”,
“Muốn lớn thì hãy ăn cho nhiều”, “Cha muốn cho con một cục
thịt quá, tiếc thay cha lại không có. Nếu có ngày nào đó chúng
ta kiếm được một con bò vô chủ, chúng ta sẻ tổ chức một lễ lớn
với một buổi đại tiệc”.
Món ăn tráng miệng thường là một trái táo tây. Không phải
một trái táo cho từng người một, mà là một trái táo cho “một”
người. Don Bosco tung trái táo lên và ai nhanh tay bắt được thì
sẽ được ăn, trước sự nhịn thèm của mọi người khác.
Quầy rượu, cho tất cả những ai muốn uống, đó là vòi giếng
bơm “chảy ra nước vừa rất nhiều, vừa rất mát và rất trong
lành”.
Trên bàn, trong giờ ăn, một con gà mái của mẹ Margarita vừa
nhảy vừa kêu cục tác, để mổ phần vụn bánh của nó.
Bánh mì, đó là hạnh phúc của người nghèo. Chiều tối, Don
Bosco cho mỗi đứa năm xu để nó tự mua lấy bánh. Lý do: khẩu
vị là một chuyện, sức khỏe lại là một chuyện khác. Ai có một
bao tử tốt và không kén ăn, kẻ ấy sẽ mua loại bánh qui của lính,

27.6 Page 266

▲back to top
người ta sẽ bán cho nó một khẩu phần dồi dào. Những đứa
khác khoái loại bánh mì bình thường hơn làm bằng bột cứng
hoặc bột mềm.
Sau bữa ăn trưa và bữa ăn tối vốn là “bản sao” của bữa ăn trưa,
ai nấy đều tự động rửa lấy gà men cá nhân và đút muỗng của
mình vào túi.
Ai háu đói có thể đi, trước giờ ăn, ra khu vườn của mẹ
Margarita để hái lấy một ít rau diếp, với dầu ăn và giấm mua
được bằng tiền dành dụm của mình, sẽ tự làm lấy một món rau
trộn.
Thời buổi rất khó khăn, mỗi đứa trẻ đều phải tính gần như từng
xu để khỏi thiếu hụt thứ gì đó. Nghệ thuật gỡ gạc rất là phổ
biến. Một đứa đã tìm cách bán được cái nệm rơm của mình với
giá bốn mươi xu (trừ khi Don Bosco ngăn chặn nó kịp thời).
Cũng nhằm cứu những đồng xu hiếm hoi khỏi chạy qua túi của
ông thợ hớt tóc, chính mẹ Margarita là người xung phong làm
“dịch vụ hớt tóc miễn phí” cho bọn trẻ. “Việc hớt tóc bằng kéo
khiến mái tóc của tôi gợn lên đầy nhưng bậc thang nhấp nhô,
bác sĩ Fedorico Cyna nhớ lại. Tôi cất tiếng than phiền thì người
đàn bà thánh thiện ấy đáp lại: “Nhưng bậc thang ấy sẽ dẫn con
lên Thiên đàng đấy con ạ”.
Nỗi buồn lớn của Don Bosco là không thể cho bọn trẻ của ngài
được ăn no (cho dù ngài đã tìm ra những lời lẽ khôi hài, mua
vui để an ủi chúng. Nhưng đối với Don Bosco, còn một nỗi khổ
khác lớn hơn thế trong những tháng sắp tới!
Lòng trung thành với Đức Thánh Cha và cái giá phải trả
Sau bài diễn văn của Đức Thánh Cha Piô IX, thì như cha Pietro
Stella nhận xét “chắc chắn không thiếu những thời điểm căng
thẳng kinh nghiệm giữa các linh mục đang ở tuyến đầu trong
công cuộc phục vụ giới trẻ: một bên là cha Cocchi và cha

27.7 Page 267

▲back to top
Ponte, và bên kia là Don Bosco. Nhưng nơi tất cả các vị đó đều
có một cảm thức chung về thời điểm tế nhị mà Hội Thánh
Torino đang phải trải qua. Cách riêng trong thời điểm đó các
linh mục yêu nước cảm thấy rằng để thành công về mặt tôn
giáo, thì nhất thiết cần phải đi theo “dân tộc” trong những khát
vọng thống nhất của họ”.
Don Bosco ngược lại cho rằng điều cần thiết trên hết là phải
trung thành với Đức Thánh Cha. (Ngài nói với các học sinh của
ngài đang hô lên “Hoan hô Đức Piô IX” rằng các con hãy hoan
hô cách mạnh mẽ “Hoan Hô Đức Thánh Cha!”). Và ngài càng
ngày càng cảm thấy mối e ngại đối với các hoạt động của
những người phái tự do.
Ngày nay, sau hơn một thế kỷ cách xa với thời đó, chúng ta
biết từ các sử gia rằng sự thống nhất Nước Ý đã là một cuộc
chinh phục vĩ đại, nhưng nó đã được thực hiện không phải
trong một cách thức tốt nhất. Cuộc Phục Hưng chế độ vua chúa
làm một hiện tượng của giới trưởng giả và của các tầng lớp bậc
trung. Dân chúng chỉ tham dự tại một số thành phố thôi. Phần
đa các tầng lớp nông dân tạo thành 70% dân số thời đó, thì đều
xa lạ, nếu không nói thẳng là chống đối chuyện đó.
Don Bosco là một nông dân, và ngài cảm thấy tự bản năng đã
có nỗi khó chịu đối với những phong trào được dẫn dắt bởi các
luật sư và các chính trị gia mưu mô, trong đó “dân chúng đích
thực” chỉ được kêu gọi lại để góp máu mình vào các mặt trận.
Chiến tranh đối với ngài chính là hình phạt của Thiên Chúa và
là sự phá sản cho dân nghèo không hơn không kém.
Có lẽ khi nhìn vấn đề như vậy, Don Bosco chứng tỏ cho thấy
ngài có những giới hạn. Nhưng nó cũng chứng tỏ là ngài biết
nhìn xa trông rộng. Cách riêng trong việc định hướng cho công
cuộc mới phát sinh của ngài, ngài đã chọn con đường (trung
thành với Đức Thánh Cha, không có bất cứ những mối liên kết

27.8 Page 268

▲back to top
nào với các đảng phái): nó cho phép Nguyện Xá khiêm nhượng
của ngài được biến chuyển thành một Tu Hội có tính cách toàn
cầu. Việc kiến tạo lịch sử dựa trên những cái “nếu” quả giống
như một cuộc chơi xổ số, nhất là chúng ta xác tín rằng nếu Don
Bosco đã xuống đường với các học sinh của ngài trong khi vẫy
những lá cờ ba màu của Nước Ý, thì ngày hôm nay có lẽ chúng
ta sẽ nói về ngài như là một vị phó xứ tốt lành của một giáo xứ
vùng ngoại ô Torino mà thôi.
Việc dấn thân trong sự trung thành với Đức Thánh Cha đã
luôn luôn mang đến cho Don Bosco nhiều sự khốn khổ. Hai vị
linh mục làm việc trong Nguyện Xá thánh Lu-y, bất chấp lệnh
cấm của ngài, đã mang các thanh thiếu niên vẫy cờ và đeo huy
hiệu tới các cuộc biểu tình chính trị, và đã biến các bài giảng
của họ thành diễn đàn chính trị nhiệt nồng. Don Bosco đã buộc
phải cãi nhau với họ.
Tại Valdocco sự việc còn tệ hơn. Một vị trợ giúp Don Bosco đã
làm một bài giảng trong đó “sự tự do, việc giải phóng, nền độc
lập” vang lên trong suốt bài diễn văn. “Cha ở trong phòng áo –
Don Bosco đã viết lại - thật sự sốt ruột lo sao kết thúc được sự
rối trật tự này. Nhưng vị giảng thuyết, vừa khi kết thúc giờ
chầu Thánh Thể, đã mời các linh mục và các thanh thiếu niên
qui tụ lại quanh ông ta dương cổ gào lên các bài quốc ca, và
làm cho cả đám trẻ hung hăng vẫy cờ, rồi lên đường diễu hành
quanh ngọn đồi các cha Capuxinô. Tất cả chúng hứa là sẽ
không đến Nguyện Xá trừ phi chúng đã nhận được các huy
hiệu của tổ quốc”
Trong suốt mấy Chúa Nhật, Nguyện Xá Valdocco hầu như
trống vắng, như cha Lemoyne viết lại. Từ 500 em, con số rút
xuống còn có 100 em.
“Không có một linh mục nào muốn trở lại nữa. Ngược lại, các
trẻ con thì đến xin lỗi, và hứa sẽ vâng phục và tuân hành kỷ

27.9 Page 269

▲back to top
luật. Nhưng còn cha thì chỉ còn một mình – Don Bosco đã viết
lên như thế với sự cay đắng. Với hầu như là 500 em, mà chỉ
còn có một vị trợ giúp duy nhất là nhà thần học Borel. Cha
không còn biết nữa, với nhịp độ công việc tối mặt, làm sao cha
còn có thể chịu đựng được”. Cha Lemoyne đã ghi nhận là các
bạn trẻ lớn nhất đã không trở lại nữa, và kể giờ phút đó tuổi
trung bình của các trẻ thấp hơn xưa nhiều.
Những tin tức bi thảm
Hai quý sau của năm 1948 đã chứng kiến hàng chuỗi những tin
tức bi thảm. Tháng 6, những cuộc nổi dạy ở Praha và ở Paris đã
bị nghiền nát bởi những loạt đại bác. Từ ngày 23 đến 26 tháng
7, trên các vùng cao ở Custoza đã xẩy ra cú sốc dứt điểm giữa
quân Áo và quân Piemonte. Vụ thảm bại của Carlo Alberto
nghiêm trọng tới mức người ta đã không sao tổ chức nổi cuộc
phòng thủ Milan.
Nguồn tin về đến Torino hôm 29 tháng 7, gây nên những cảnh
hỗn loạn nghiêm trọng. Nhà cửa của giới quý tộc và của các
linh mục được đặc biệt bị coi là những cái bia của sự bắn phá.
Ngày 6 tháng 8, Gioberti chạy đến tổng thành dinh của nhà
vua, can gián ông đừng ký hiệp định đình chiến, nhưng Carlo
Alberto, tin chắc là quân đội không còn khả năng chiến đấu
nữa, đã ra lệnh cho đại tướng Salasco ký thay vào ngày 9 tháng
8. Đó là nhìn nhận sự bại trận, là dấu chấm hết cho mọi hy
vọng.
Tại Torino, các nhà chính trị tức lồng lộn trước sự thiếu khả
năng của các nhà lãnh đạo và trước những âm mưu của các linh
mục. Họ lạnh lùng tiến hành những cuộc điều tra tại nghị viện
nhằm trừng trị những kẻ có tội. Thủ đô sôi sục. “Nhất thiết phải
áp dụng những biện pháp mạnh, Francesio Cognasso viết, thay
đổi chính phủ, cấm buôn bán ngoài phố, cấm yết thị những

27.10 Page 270

▲back to top
cuộc biểu tình chính trị, cấm tụ họp trên Quảng Trường để bàn
luận”.
Súng nổ tại nhà Pinardi
Về thời điểm này, Don Bosco đã viết: “Người ta cho là đáng
đời, bất cứ lời lăng mạ nào nhắm vào các linh mục và tôn giáo.
Bản thân tôi cũng đã bị tấn công nhiều lần, trong nhà cũng như
ngoài đường phố. Một hôm, đang khi tôi dạy giáo lý, một viên
đạn súng hỏa mai (loại súng cổ lỗ sĩ) đã từ cửa sổ bay vào,
xuyên thủng ngay nách chiếc áo chùng thâm của tôi và làm bể
một mảng lớn trên vách tường”. Lúc ấy ngài đang ở trong nhà
nguyện Pinardi và bọn trẻ đã hoảng hồn về phát súng bất ngờ
ấy. Don Bosco khá điêu đứng vì viên đạn đã bắn hụt ngài chỉ
trong vài ba ly đã phải trấn an chúng bằng đôi câu khôi hài:
“Đây là một trò đùa có phần hơi quá lố. Tội nghiệp cho cái áo
dòng của cha, cha chỉ có mỗi cái này là bảnh hơn cả. Nhưng
Đức Mẹ vẫn còn thương chúng ta”.
Một đứa đã nạy đầu đạn ghim trong vách ra, đó là một viên đạn
bằng sắt coi rất thô kệch.
“Một lần khác, đang khi tôi đứng giữa một đám trẻ hết sức
đông đảo, một kẻ lạ mặt đã tấn công tôi ngay giữa thanh thiên
bạch nhật. Và chỉ nhờ phép lạ mà, vắt giò lên cổ, tôi đã chạy
được tới phòng riêng của mình và đóng sập cửa lại để trốn
trong đó. Chính cha Borel cũng đã may mắn thoát chết vì một
phát súng lục”.
Rất nhiều nhật báo đua nhau gieo rắc sự thù nhắm vào các linh
mục. Những tựa đề cũng không buông tha Don Bosco: “Cách
mạng bị lật tẩy ở Valdocco và những kẻ thù của tổ quốc”
Làm việc nhằm đào tạo một lớp linh mục khác

28 Pages 271-280

▲back to top

28.1 Page 271

▲back to top
Phong trào chống giáo sĩ điên cuồng này không chỉ làm đau
lòng Don Bosco, nó còn khiến cho ngài suy nghĩ. Ngài viết:
“Một tinh thần ghen ghét chống lại các Dòng Tu lớn và các
dòng tu mới, nói chung chống lại hàng giáo sĩ và toàn thể
quyền bính của Hội thánh. Tiếng kêu giận dữ và khinh chê đối
với tôn giáo làm cho giới trẻ xa lìa luân lý, lòng đạo đức, và do
đó không mặn mà với ơn gọi tham gia hàng giáo sĩ”.
Chính tại đây Don bosco nhận ra mối nguy hiểm to lớn nhất:
Đó là sự giảm sút các ơn gọi linh mục. Thay vì cứ để thời gian
trôi qua trong sự rên rỉ, than phiền nào là thời gian đen tối quá,
Don Bosco đặt lại vấn đề cách minh bạch: “Tôi có thể làm
được gì để giúp cho các ơn gọi?”.
Ngài thấy hầu như dân chúng chống lại các linh mục không
phải là vì các linh mục không tham gia vào cuộc chiến tranh
giành lại nền độc lập cho Nước Ý, mà là bởi vì phần đa giới
giáo sĩ “không thuộc về dân chúng”. Các ơn gọi đến từ các gia
đình quí tộc và quá lắm là giới trung lưu mà thôi. Những vai
chính của thời đại mới đang khai sinh (ở bên kia của thời kỳ
phục hưng chế độ vua chúa) chính là giới thợ thuyền.
Nếu đây là nguyên nhân, thì giải pháp cho vấn đề phải là hoàn
toàn khác với việc tham gia vào cuộc chiến tranh tại Novara
vốn đã đưa đến thất bại (như cha Cocchi đã thử làm).
Don Bosco viết: “Trong những thời buổi này, Thiên Chúa đã
cho biết rõ ràng là sẽ có một tầng lớp chiến sĩ mới cho Hội
Thánh mà Ngài muốn tuyển chọn: họ sẽ không đến từ các gia
đình khá giả. Những người ăn uống với cuốc xẻng và đe búa sẽ
phải là những người được tuyển chọn để nắm lấy những địa vị
trong các hàng ngũ đang hướng bản thân họ đến cuộc đời giáo
sĩ”. Đấy chính là hàng giáo sĩ vô sản.
Với các phương tiện khiêm nhường mà ngài hiện có, Don
Bosco đã lập tức bắt tay vào công việc theo đường nét này.

28.2 Page 272

▲back to top
Trong số hằng trăm thanh thiếu niên đến với Nguyện Xá, ngài
đã chọn lựa 13 em, và mời chúng tham gia một khóa tĩnh tâm
hay linh thao. Các trẻ em ấy được Don Bosco nuôi trong nhà
mình suốt ngày. Chỉ có vào ban chiều “vì không có đủ giường
chiếu cho tất cả các em này, nên một phần trong số các em trở
lại gia đình để nghỉ ngơi”.
Vào những ngày đó, Don Bosco dấn thân “học hỏi, tìm hiểu,
chọn lựa một vài em” mà ngài thấy có hy vọng ơn gọi. “Sự
bình lặng của những ngày ấy – như cha Lemoyne ghi nhận –
quả tương phản với sự quấy động mãnh liệt đang ngự trị ở
thành phố Torino”.
Trong số 13 em này, vào năm tới, ngài sẽ chọn 4 em tốt hơn cả,
và cứ thế ngài tiếp tục cuộc thử nghiệm.
“Như thế - Don Bosco viết – Nguyện Xá khiêm cung của
chúng ta ngày được củng cố, trong khi xuất hiện những biến cố
nghiêm trọng đang làm thay đổi bộ mặt chính trị của Nước Ý
và có lẽ của cả thế giới”.
Những tin buồn đến từ La Mã
Ngày 18 tháng Tám, tại Torino, các trung đoàn bại trận đầu
tiên trở về. Bầu khí hẳn nhiên không tưng bừng gì, nhưng dân
chúng đón tiếp những chiến sĩ mệt nhọc và đầy bụi đó với thiện
cảm.
Ngày 15 tháng 9, nhà vua trở lại Torino. Tiếp đón lạnh lùng và
chán nản. Có những tiếng đồn kỳ quặc chuyển khắp thành phố:
các toán quân Pháp sắp tới nơi, với sự giúp đỡ của họ chúng ta
sẽ tiến hành cuộc chiến tranh. Nhà vua sắp thoái vị, cách mạng
sắp bùng nổ.
Tháng 11, Vua Carlo Alberto bổ nhiệm tướng Perrone, người
đã bị án treo cổ vào năm 1821 xưa, làm Thủ tướng. “Một người
bị án tử hình khác” vào năm 1834, ông Giuseppe Garibaldi,

28.3 Page 273

▲back to top
đang tiến hành những hoạt động riêng tư chống lại quân Áo tại
Vùng Lago Maggiore [Hồ lớn]. Những náo loạn tiếp tục tại
nghị viện (nơi cánh tả muốn tái thực hiện cuộc chiến) và tại
thành phố. “Các binh lính Genova của lữ đoàn Savoia vào ban
tối rời bỏ các doanh trại và đến hô vang tại Quảng Trường
Castello: Hoan hô Đức Vua! Hoan hô Nước Cộng Hòa! Hoan
hô hòa bình! Hoan hô chiến tranh! Chúng tôi bị nhốt trong
những trại lính tồi tệ! Chúng tôi bị cho ăn đói”.
Vào trung tuần tháng 11, những hung tin đã đến từ La Mã.
Pellegrino Rossi, vị thủ tướng ôn hòa của Đức Piô IX đã bị
quần chúng ám sát, “Quần chúng” buộc Đức Giáo hoàng phải
triệu tập một Hạ viện Lập hiến và tham gia vào cuộc đấu tranh
chống lại quân Áo.
Một quần chúng quá khích đi diễn hành khắp phố xá của
Torino, miệng la: “Đả đảo Piô IX! Đả đảo bọn bộ trưởng thoái
hóa! Hoan hô người đã hạ sát Pellegrino Rossi! Chiến tranh!
Chiến tranh!” Sợ hãi bắt đầu lan rộng. Nỗi sợ cách mạng sẽ
bùng phát và nỗi sợ rằng lại tái diễn lại tại Ý “cảnh khủng
khiếp” do “đảng Giacôbin” gây nên xưa ở Pháp.
Tháng 11 vừa tàn thì từ La Mã bay đến nguồn tin là Đức Piô
IX đã bỏ trốn. Ngài đã giả bộ nhượng bộ quần chúng nhưng
rồi, cải trang thành một linh mục bình thường, ngài đã đến tị
nạn tại Gaeta, trong vương quốc Napoli.
Năm 1848, được mở màn trong niềm hưng phấn của bao hy
vọng, đã kết thúc tại Ý trong những màn sương mù của sự
hoang mang. Tại các quốc gia khác, cuộc cách mạng chấm đứt
trong khói lửa và sắt thép của sự đàn áp. Sau Paris và Praha,
Thủ đô Vienna cũng bị pháo kích tháng 10, bởi những cỗ súng
đại bác dưới quyền một vị đại tướng. Nghị viện ở Berlin đã bị
bãi vào tháng 12.
Hai tín hiệu đầy hy vọng ở Valdocco

28.4 Page 274

▲back to top
Trong vùng thấp chủng của phố Valdocco, nơi tuyết chất đống
khi tiết sông hàn vừa chớm về. Don Bosco khiêm tốn đón nhận
hai tín hiệu của hy vọng.
Lần đầu tiên, một đứa thuộc bọn trẻ ngài đã có diễm phúc mặc
áo dòng. Tên anh là Ascanio Saviô; là người đồng hương với
Don Bosco. Anh ta đã lui tới nguyện xá từ hồi nguyện xá được
dời về gần Trú khu. Giờ đây, lẽ ra anh ta phải vào chủng viện,
nhưng chủng viện ở Torino đã bị đóng cửa, và chủng viện
Chieri cũng sắp chịu chung số phận ấy. Hội đồng Tổng Giám
mục trực thuộc Tòa thánh đã đặc cách cho anh ta hoàn tất lễ
nghi mặc áo dòng ở nhà Cottolenzo và sau đó lưu lại nguyện xá
tiếp tay với Don Bosco.
Anh ta sẽ không lưu lại đó vĩnh viễn. Bốn năm sau anh ta sẽ
vào chủng viện và sau thành linh mục triều. Nhưng anh ta sẽ
nói về Don Bosco: “Tôi yêu kính ngài như thể ngài là cha đẻ
của tôi vậy”. Còn Don Bosco sẽ viết về anh ta như sau: “Tôi đã
lập tức giao ngay cho anh ta một phần của công tác hộ trực, của
các lớp giáo lý và của cuộc điều hành các lớp khác nhau. Nhờ
đó tôi đã bắt đầu được nhẹ gánh phần nào”. Con chiên đầu tiên
đã trở thành mục tử.
Biến cố thứ hai mang tính chất hoàn toàn khác.
Ở nguyện xá hôm ấy cử hành một lễ trọng, hàng mấy trăm
thanh thiếu niên đã được chuẩn bị để rước Mình Thánh Chúa.
Don Bosco cử hành thánh lễ tin chắc là trong nhà tạm có để
chiếc chén thánh thường lệ đầy ắp những bánh lễ đã truyền
phép rồi. Khốn nỗi chén thánh ấy lại trống trơn, Giuse
Buzzetti, phụ trách phòng áo (có việc gì mà thằng bé ấy lại
không xung phong gánh vác đâu!) đã quên không dọn sẵn một
chén đầy bánh lễ khác. Và nó chỉ nhận ra được sự sơ xuất ấy
sau khi truyền phép, tức quá trễ.

28.5 Page 275

▲back to top
Don Bosco, khi bọn trẻ kéo lên để chịu Mình Thánh, đã nhận
thấy là sắp phải mời tất cả bọn chúng về chỗ. Vì không bằng
lòng bắt đầu phân phát vài bánh lễ còn sót lại dưới đáy chén
thánh.
Và này, trước sự ngạc nhiên của chính ngài cũng như của tên
Buzzetti đang cầm dĩa bánh, các bánh thánh vẫn không hề giảm
bớt. Mọi người đều được rước lễ.
Chính Giuse Buzzetti, bàng hoàng, là người tường thuật lại vụ
việc cho bạn bè của mình. Và mãi đến năm 1864 nó vẫn còn kể
cho các tu sĩ Salêdiêng tiên khởi nghe nữa. Don Bosco lúc ấy
cũng có mặt và vẻ mặt nghiêm trọng, đã xác minh chuyện ấy:
“Đúng, hôm ấy có rất nhiều bánh lễ trong chén thánh,
tuy nhiên cha đã có thể cho rước lễ tất cả những ai bước lên
Bàn Thánh, mà họ rất là đông đảo. Cha rất cảm động nhưng
bình tĩnh. Cha đã nghĩ: “Phép lạ của việc truyền phép còn lớn
hơn cả phép lạ của sự nhân gấp bánh thành nhiều. Nhưng, xin
ngợi khen Chúa về mọi sự”.
Đang khi nước Ý bị lung lay bởi những biến cố vang dội thì
một xã tỉnh lỵ khuất lánh thuộc vùng ven đô Torino. Thiên
Chúa đã âm thầm nhân gấp sự hiện diện của Ngài giữa các trẻ
em của một vị linh mục nghèo hèn, một tín hiệu bí nhiệm mà
cũng hết sức sáng ngời.

28.6 Page 276

▲back to top
Chương 26
DON BOSCO
CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI
Chính trị của tôi là kinh lạy Cha
Trong năm 1848, Don Bosco gặp cuộc đụng độ bi thảm đầu
tiên với chính trị, và ngài đã chọn con đường mà sau này ngài
để lại cho các Salêdiêng để làm di sản.
Ngài đã tóm tắt nó lại sau này cho Đức Cha Bonomelli, vị
Giám mục của vùng Cremone, hay: “Con nhận ra rằng mình
muốn làm một chút sự thiện gì đó, nên con đã gạt ra một bên
mọi thứ chính trị. Con đã giữ mình khỏi dây dưa vào chính trị,
và nhờ thế con đã có thể thực hiện được một điều gì đó, mà
không gặp phải sự cản trở, thậm chí con còn tìm thấy được sự
trợ giúp từ phía mà con không chờ đợi gì cả”.
Sau khi đã suy nghĩ lâu dài về thái độ của Don Bosco không
duy ở trong những sự việc của năm 1848, mà còn trong nhiều
thời điểm nặng nề khác nữa của nền chính trị và của nền chính
trị vĩ đại (việc thống nhất nước Ý). Xem ra chúng ta có thể liệt
kê ra ở đây cách vắn gọn như sau:
1. Don Bosco xác tín rằng nền chính trị của các đảng phái
chỉ có tính cách tương đối và ngài coi nó như là một sự
tập hợp rất dễ thay đổi của cuộc sống (chẳng hạn ông
Perrone trở thành thủ tướng của một ông vua đã muốn
treo ông bằng dây tròng cổ; Cavour tuyệt đối trung
thành với vua Carlo- Alberto đã bị cho nghỉ bởi chính
ông vua này bởi vì lúc đó “ông không còn trung thành
nữa…”. Vì thế, Don Bosco quả quyết mạnh mẽ rằng:
“Không có phe phái nào nắm được tôi bao giờ cả”. Do
đó, Don Bosco dựa vào những nền tảng vững chắc hơn

28.7 Page 277

▲back to top
cánh tả cánh hữu: Đó là các linh hồn phải được
cứu rỗi, các trẻ nghèo cần được nuôi nấng và giáo dục.
Đó là điều ngài gọi là “nền chính trị của kinh Lạy Cha”.
2. Một nhà nghiên cứu nhận xét rằng Don Bosco, trong
khi quả quyết rằng ngài không làm chính trị, thì trên
thực tế ngài luôn đứng về phía những nhà bảo thủ và
phe thân Áo. Nhận xét này chúng tôi nhận thấy đúng
một phần, nếu người ta không gán cái ý nghĩa tệ hại
hơn cho thành ngữ “phe thân Áo”, mà chỉ hiểu rằng câu
đó muốn quả quyết Don Bosco thường nhìn thiện cảm
đối với Áo Quốc. Tại chủng viện, ngài đã được đào tạo
trong quan điểm bảo thủ (một điều chúng tôi đã nhận
xét phía trước) và ngài coi Áo Quốc như là kẻ che chở
cho Đức Giáo Hoàng. Và chuyện này không thông qua
các thủ bản chính trị, mà xuyên qua các thông điệp và
các diễn văn của các Đức Thánh Cha.
Cho nên việc Don Bosco quan niệm như vậy là một chuyện
thông thường. Hẳn là ngài không coi đó là một tư thế chính trị
nhưng là một vấn đề thuộc về đức tin hay ít nhất đó là một đòi
hỏi của lòng trung thành cùng Đức Thánh Cha. Giống hệt như
vào năm 1848, nhiều người Công giáo nhìn vào Nước Mỹ với
thiện cảm: không phải bởi vì họ chia sẻ quan điểm chính trị của
Nước Mỹ lúc bây giờ ủng hộ chủ nghĩa phân biệt chủng tộc
chống lại những người da mầu, nhưng là bởi vì họ coi Hiệp
Chủng Quốc như là sự bảo trợ duy nhất cho nền văn minh Kitô
giáo chống lại Liên bang Xô-viết của Stalin.
Hơn nữa, Don Bosco biết nhiều người Torino thuộc phe tự do
và dân chủ, không phải có tính chất truyền kỳ như họ đã trở
thành như thế hiện nay trong các sách lịch sử, nhưng như chính
họ thực sự đã là trong đời sống chính trị thường nhật, vừa ma
mãnh, vừa lắm mưu đồ, chơi trò chơi hai mặt (ví như nhân vật
Brofferio chẳng hạn).

28.8 Page 278

▲back to top
1. Đôi khi, bất chấp ý muốn của ngài là chỉ đi theo “nền
chính trị của kinh Lạy Cha”, nhưng thực tế lại ép buộc
ngài phải đứng về lập trường này hay lập trường khác.
Trong những trường hợp này, Don Bosco đứng vào
hàng những người ủng hộ Đức Thánh Cha. Có nghĩa là
ngài chấp nhận lấy cho mình ý kiến của Đức Thánh
Cha.
2. Trong miêu tả lịch sử biên niên Don Bonetti (7-7-
1862), chúng ta đọc thấy điều ngài đã nói khi đó: “Hôm
nay tôi thấy mình ở trong một nhà tại đó tôi được bao
quanh bởi nhóm những người dân chủ. Sau khi đã bàn
sơ qua về những chuyện vô tội vạ khác nhau, thì cuộc
nói chuyền xoáy vào vấn đề các chuyện chính trị xẩy ra
trong ngày. Những người tự do tốt lành này đã muốn
Don Bosco nghĩ gì về chuyện dân Piemonte diễu hành
tại Roma (chúng ta đang ở trong những năm thứ tám
sau các biến cố xẩy ra tại Porta Pia). Tôi đã trả lời dứt
khoát rằng: tôi đứng về phía Đức Thánh Cha, tôi là
người Công giáo, tôi vâng phục Đức Thánh Cha cách
mù quáng. Nếu Đức Thánh Cha nói với những người
xứ Piemonte “Các con hãy đến Roma”, thì tôi cũng sẽ
nói “Nào anh em hãy lên đường”. Nếu Đức Thánh Cha
nói rằng cuộc diễu hành của các người Piemonte tại
Roma là một trò lừa bịp, một hành vi có ý đồ xấu, tôi
cũng sẽ nói y nguyên như vậy. Nếu chúng ta muốn
mình là những người Công giáo, chúng ta phải suy
nghĩ, tin tưởng như Đức Thánh Cha đã suy nghĩ và tin
tưởng”.
Trước khi tranh luận về chuyện trên, và ngay cả khi muốn
ngầm gợi tới quan niệm của ngài, Don Bosco vẫn luôn là người
đứng về phía Đức Thánh Cha. Trong năm 1847-1848, Don
Bosco có thiện cảm trong một thời gian ngắn với phái Công

28.9 Page 279

▲back to top
giáo tự do của những năm 1800: không phải vì ngài có xác tín
rằng làm như thế sẽ tốt đẹp hơn, mà chỉ bởi vì hướng chính trị
đó xem ra là thái độ của Đức Thánh Cha. Sau bài huấn đức
ngày 29 tháng Tư 1848, Don Bosco lại trở thành người bảo thủ
trở lại, không phải vì đó là do thay đổi khung suy nghĩ của
ngài, nhưng mà là vì chính Đức Thánh Cha đã suy nghĩ như
vậy”.
Nếu Đức Cha thay đổi lập trường, thì ngài cũng thay đổi ngay
lập tức. “Nếu Đức Thánh Cha nói với những người dân
Piemonte: “Các con hãy đến Roma”, thì khi ấy cả tôi nữa, tôi
cũng đồng ý”.
Don Bosco và vấn đề xã hội
Trong năm 1848, Karl Marx đã xuất bản Tuyên ngôn Cộng
Sản. Đó là bước khởi sự một cuộc cách mạng ít rùm beng so
với những cuộc nổi dậy của cùng năm đó, nhưng nó đi xa hơn
và sâu hơn. Lập trường cộng sản tận căn và bạo động trên “vấn
đề xã hội” sau cả tá năm vẫn còn làm chấn động các quốc gia
Bắc Âu. Đó là cuộc tố cáo kiên quyết và rõ ràng những giai cấp
bóc lột và là một lời kêu gọi một cuộc cách mạng bằng bạo lực
để “lật đổ hệ thống này”, một hệ thống được xây dựng trên sự
bất công.
Thái độ của Don Bosco trước “vấn đề xã hội” như thế nào?
Pietro Stella viết: “Hình như Don Bosco không nêu ra vấn đề
làm chuyển biến các giai cấp… Xem ra có vẻ như Don Bosco
không nắm bắt chiều kích mênh mông của hiện tượng nghèo
khổ như là một hiện tượng được gắn kết với những sự đảo lộn
xã hội” (Sách được trích, Cuốn II, các trang 95-96).
Nếu với những lời trên muốn khẳng định rằng Don Bosco đã
không có một cái nhìn “khoa học” về hoàn cảnh kinh tế - xã
hội và đã không nói về hoàn cảnh đó bằng những từ kỹ thuật
(như vốn, sức lao động, v.v.), thì chúng ta đồng ý. Ngược lại,

28.10 Page 280

▲back to top
chúng ta sẽ không đồng ý nếu người ta muốn nói lên rằng Don
Bosco đã không hiểu thời đại của mình và để cho mình được
hướng dẫn duy bởi “các tình cảm tốt lành” mà thôi.
Don Lemoyne là người đã nhận những lời tâm sự của Don
Bosco trong nhiều năm, quả quyết rằng: “Ngài là một trong
những người đã nắm bắt chuyện đó ngay từ lúc ban đầu, Ngài
đã nói hằng ngàn lần rằng phong trào cách mạng không phải là
một cơn gió lốc sẽ trôi qua, bởi lẽ các lời hứa được đem hứa
hẹn cho quần chúng không phải là hoàn toàn bất lương đâu, trái
lại chúng đáp ứng lại các khát vọng phổ quát và sinh động của
giới vô sản. Những ai đã ước ao tiếp nhận sự bình đẳng dành
cho tất cả mọi người, không phân biệt các giai cấp, và tiếp
nhận một sự công bình to lớn hơn và sự cải tiến số phận họ tốt
đẹp hơn. Đàng khác ngài nhìn nhận rằng những của cải giàu có
trở thành độc quyền của những người tư bản không có lòng dạ
thương người, và những ông chủ áp đặt lên người thợ cô đơn
và không được bảo vệ, những khế ước bất công, liên quan đến
lương bổng và sự nặng nhọc của công việc” (M. B., Cuốn IV,
tr. 80).
Don Bosco đang ở trước biên giới của hai thời đại của thế giới
và cũng của Hội Thánh nữa.
Trong dòng các thế kỷ đi liền trước cuộc cách mạng kỹ nghệ,
các người thợ đã qui tụ lại thành “các hợp tác xã”: tức các tổ
chức xã hội cứng ngắc, mang tính chất của thời Trung cổ,
nhưng chúng còn thực thi được một sự bảo vệ cho các thợ
thuyền. Những người nghèo khi ấy rất đông đảo. Tuy nhiên
không bao giờ con số của họ lại so sánh được với khối đại
chúng khổng lồ và bất hạnh của giới vô sản, bị phó mặc cho
chính mình, do các nhà máy của thế kỷ thứ nhất của cuộc cách
mạng kỹ nghệ tạo nên. Khuôn mẫu can thiệp của Hội Thánh
ủng hộ cho những người nghèo khi ấy chính là “sự cứu tế có tổ
chức” của thánh Vinh-sơn Phaolô (1581-1660).

29 Pages 281-290

▲back to top

29.1 Page 281

▲back to top
Trong thời đại mới của kỹ nghệ này, các hợp tác xã chết dần
mòn giữa những sắt vụn (cũng do bởi cuộc chiến thắng của
những nguyên tắc của chủ nghĩa tự do), và những khối đông
đảo các người vô sản chỉ còn giữ lại được cái tự do duy nhất là
để cho mình bị bóc lột bởi các ông chủ vô cùng quyền thế. Chủ
nghĩa tự do đã tung sức ngăn cản việc hình thành các tổ chức
mới nương theo các hợp tác xã thời xưa để bảo vệ các quyền
của giới thợ thuyền.
Trong sự bất lực không thể tìm ra được các kế hoạch và các

29.2 Page 282

▲back to top
Chương trình được hình thành tốt đẹp để hành động – như
chúng ta đã nói ở trên các trang phía trước, cũng như trong sự
không an tâm luôn luôn có vào thời ban đầu của một thời kỳ
lịch sử, nhiều nhân vật của Hội Thánh đã sử dụng tất cả những
nghị lực của họ trong các hành động trực tiếp ủng hộ cho đám
dân cùng khổ, phủi sạch bụi bám trên các phương pháp cứu trợ
và bác ái xưa của thánh Vinh-sơn (tức các “Hội” đã được thiết
lập tại Paris để giúp cho các thợ thuyền, mang danh gọi đích
xác là “các Hội’ của thánh Vinh-Sơn Phaolô).
Dĩ nhiên người ta sớm hiểu rõ là việc làm từ thiện không đủ.
Dù dưới hình thức mới và mang tính chất tiến bộ cao xét về
mặt xã hội được thể hiện nơi các trường dạy nghề, các xưởng
huấn luyện, nó vẫn còn chưa đủ. Cần phải đấu tranh cho sự
công bình xã hội, cho những cơ chế và luật pháp khả dĩ đảm
bảo được các quyền của các công nhân. Con đường vẫn còn
dài, vì sự không thấu hiểu nơi hàng giáo phẩm, và các sự chống
đối mãnh liệt của các Quốc gia tự do.
Don Bosco vào thời điểm của những năm đầu tiên của cuộc
cách mạng kỹ nghệ Ý, đã dấn thân trong tình trạng mới của các
sự việc, do được thúc đầy bởi sự cấp bách của điều ngài đã
thấy, và với sự tự hiến trọn vẹn của ngài để phục vụ các trẻ
nghèo. Chiến thuật của việc cần làm ngay lập tức, việc “can
thiệp ngay lập tức” (vì lý do những người nghèo không thể
phung phí thời gian để chờ đợi những cuộc cải cách và những
kế hoạch có tổ chức) đã trở thành dấu ấn của Don Bosco và của
các Salêdiêng đầu tiên, tạo thành một

29.3 Page 283

▲back to top
Chương trình “khẩn cấp” mà các người con của Don Bosco đã
thực hiện cho chúng.
Nhưng xem ra sự chọn lựa này không chỉ thuần túy là một bộc
phát tự nhiên. Với thời gian, hoàn cảnh đã trở thành ngày càng
rõ ràng và Don Bosco ngày càng thêm ý thức hơn về thời đại
ngài được kêu gọi để sống và để thực thi sứ mệnh của ngài: đó
là cái vĩ đại cũng như cái giới hạn của ngài.
“Gạt sang một bên mọi thứ chính trị” có nghĩa là gì?
Chúng ta nhận định thêm một chút về lời tuyên bố của Don
Bosco với Đức Cha Bononelli (vào thời điểm của nhiều năm
sau 1848): “Con ý thức được rằng nếu con muốn làm được một
chút gì ích lợi, thì con phải gạt mọi thứ chính trị sang một bên”.
Hạn từ “chính trị” vào thời đó có nghĩa là gì? Phải chăng là
việc “liên minh các đảng phái”? Chúng ta nghĩ là không.
Hạn từ “chính trị” vào thời đó cũng bao gồm một thái độ đối
với “vấn đề xã hội”: đó là ủng hộ hay chống đối thị trường giá
cả tự do, việc can thiệp của Nhà Nước trong các vấn đề việc
làm, đình công, các tổ chức thợ thuyền xã hội chủ nghĩa, các
hợp tác xã theo kiểu của ông Owen đặc biệt chăm lo cho giới
thợ…, các nghiệp đoàn, chế độ luật pháp có tính cách xã hội
mà Đức Cha Ketteler của Nước Đức yêu cầu, v.v….
“Đặt sang một bên mọi thứ chính trị”, cũng là đừng để cho
mình bị lôi kéo vào trong nội bộ của những cuộc tranh cãi xã
hội (mà ngay vào thời điểm của Don Bosco cũng đã tạo thành
một phần đáng kể của

29.4 Page 284

▲back to top
Chương trình hành động của các đảng phái chính trị). Khi
người ta hỏi Don Bosco rằng ngài nghĩ gì về ông Mazzini, thì
dĩ nhiên ngài không thể chối rằng ngài không biết gì về người
thuộc đảng cộng hòa không dễ chịu này, giữ vai thủ lãnh của
“các Tổ hợp thợ thuyền Ý” và là thành viên của Đệ Nhất Quốc
tế Cộng Sản do Marx sáng lập vào năm 1864. “Chính trị” chính
là cái của ông Solaro della Margarita và của ông thủ tướng
Cavour, nhưng cũng là cái của các nhà cách mạng xã hội chủ
nghĩa, của nhà xã hội chủ nghĩa theo đường lối Mazzini, tức là
ông Pisacane người đã cập bến miền Nam nước Ý (1857) để
“thức tỉnh những đám dân bị áp bức hãy vùng đứng dậy”. Cách
hành xử cụ thể của Don Bosco chính là “đừng để mình dây dưa
vào các cuộc tranh cãi này”. Thái độ đó ngài cũng áp đặt lên
các người Salêdiêng của ngài.
Nhưng chúng tôi cũng thấy hình như Don Bosco không phải là
không “đặt ra cho mình vấn đề về các giai cấp xã hội đang
chuyển mình”. Ngài không nêu nó ra ngay lập tức, cũng không
nêu nó lên “dưới hình thức khoa học”, nhưng những lời ngài
nói với Đức Cha Bonomelli và được nhắc lại cả ngàn lần cho
Các Salêdiêng làm chứng rằng ngài đã hiểu và đã giải quyết
một vấn đề cụ thể. Có lẽ người ta sẽ còn thảo luận bao lâu
người ta muốn về cách thức mà ngài đã đảm nhận lấy, nhưng
chính ngài đã hiểu nó và đã giải quyết nó. Dẫn mình vào cuộc
tranh cãi chính trị có nghĩa là đứng về phía ‘một ai đó” và do
sự việc này, mình đã “chống lại một ai khác”. Tự liệt mình vào
số “các linh mục xã hội” có nghĩa là ngay lập tức cắt đứt mình
khỏi nại tới sự giúp đỡ của giới nhà giàu và của những người
có của. Còn Don Bosco thì ngài luôn cần đến các sự trợ giúp
này ngay lập tức, từ khắp mọi phía, bởi vì các trẻ em ngài
không muốn để cho chúng phải sống lang thang ngoài phố xá.
Với những sự trợ giúp này, ngài làm việc thiện, rất nhiều việc
thiện, cách thực sự, cho những người nghèo.

29.5 Page 285

▲back to top
Ngài nhận lấy phương hướng hành động đơn giản, cơ bản, để
cho các người giàu có và các người sống dễ chịu buộc phải suy
nghĩ mà giúp đỡ ngài: “Những người nghèo khổ đang có nguy
cơ bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng, bởi vì sự nghèo khó quả là
không thể nào chịu nổi nữa. Tình trạng đó thật bất xứng đối với
dân Kitô hữu. Những người giàu có phải đem của cải của mình
phục vụ những người nghèo. Những người nghèo bị đẩy vào
hoàn cảnh khốn cùng đang đòi hỏi các người giàu có phải biết
chia sẻ ‘bằng cách đưa con dao lên cổ người giàu’. Họ
đang tạo ra ‘cuộc cách mạng’ làm đảo lộn tất cả và gây ra bạo
lực giống như ‘cảnh khủng khiếp do nhóm Giacobin’. Tất
cả chuyện này sẽ là hậu quả của sự vô cảm của những người
giàu không muốn đứng ra giúp đỡ những người nghèo khổ
thoát ra khỏi cảnh cùng khốn của họ”.
Nếu chúng ta muốn qui về một dụ ngôn tin mừng, thì ta phải
nhìn nhận Don Bosco chính là người Samaritanô nhân hậu,
người đã khám phá ra kẻ bị thương, nạn nhân của những kẻ ác,
rồi lôi anh ta ra khỏi hố, đưa anh ta tới quán trọ, nhờ chăm sóc
cho anh ta với tiền phí tổn ông ta sẽ gánh chịu. Người ấy không
thể nào là một nhà chính trị chỉ chạy đi để tổ chức một kế
hoạch lập luật để thủ tiêu nạn cướp bóc mà thôi.
Với năm tháng qua đi, Don Bosco hiểu rằng hành động từ thiện
cũng có những giới hạn rõ ràng của nó. Ngài cũng biết rằng
ngài không phải là con người duy nhất trong Hội Thánh và ngài
đã tuyên bố nhiều lần cho các người Salêdiêng rằng: “Chắc
chắn là trong thế giới, cần phải có những người chú tâm tới
những chuyện chính trị, để cố vấn, phát hiện ra những mối
nguy hiểm và làm những chuyện khác nữa; nhưng nhiệm vụ
này không phải cho chúng ta là những người nghèo!” (M.
B. Cuốn 16, tr. 291). “Trong Hội Thánh, không thiếu những
người biết giải quyết một cách thích đáng những vấn đề khó
khăn và cam go này; trong một đạo quân tất có những người

29.6 Page 286

▲back to top
phải đứng ra chiến đấu và những người mang hành lý, và người
đáp ứng các nhiệm vụ cần thiết khác, để đồng hoạt động cho
cuộc chiến thắng” (M.B. Cuốn 3, tr. 487). Don Bosco chọn ưu
tiên công việc giải quyết cái khẩn trương trước mắt và không
để cho mình bị lôi kéo vào trong các cuộc tranh cãi chính trị để
có thể nhận được sự giúp đỡ từ mọi phía: đó là chuyện có thể
bị đem ra bàn cãi. Nhưng ngược lại, những kết quả của sự ưu
tiên này không thể nào chối bỏ được: Việc phục vụ cho những
bạn trẻ nghèo khổ chính là một phép lạ đích thực, được những
người có những ý nghĩ khác nhau đều công nhận, kể cả bởi
những ai có những ý tưởng khác đi nữa, kể cả những người
(xuất thân từ các viện từ thiện) đang phấn đấu cho những người
nghèo với các kế hoạch khác nhau.
Chỉ xin đan cử hai ví dụ. Ông Sandro Pertini, một cựu học
sinh của trường Varazze, một người vô thần theo Xã hội Chủ
nghĩa, sau này trở thành Tổng Thống của Nước Cộng Hòa Ý,
đã viết cho giáo sư của ông là cha Rorella: “Ngày hôm nay con
hiểu ra rằng tình thương yêu vô giới hạn mà con đã cảm
nghiệm được đối với những người bị áp bức, những người bất
hạnh, đã bắt đầu sinh ra nơi con khi con sống bên các cha.
Cuộc sống đáng kính phục của vị thánh của quí cha đã dẫn đưa
con vào trong thứ tình yêu thương này”. Sử gia Martina quả
quyết rằng các người Salêdiêng thuộc thế hệ thứ nhất khi họ đi
đến một số tỉnh nhỏ nào của vùng Romagno nơi các người
cộng sản và các người bài giáo sĩ sinh sống, tưởng chừng như
họ sẽ chắc chắn mất thế của mình. Nhưng ngược lại họ đã
chiến đầu bằng các trẻ con Nguyện Xá của họ, với ban kèn
đồng, và sau một ít thời gian họ đã trở thành bạn hữu của mọi
người. Người ta đã nói rằng: “Họ không phải là những linh
mục giống như các linh mục khác”.
Và nếu sự chọn lựa của ngài đã khác đi thì sao?

29.7 Page 287

▲back to top
Một chuyện chắc chắn sẽ là: nếu Don Bosco đã chọn dấn mình
vào cuộc tranh cãi xã hội, thì ngài sẽ chỉ mở được ít trường học
và xưởng dạy nghề hơn. Và có thể hôm nay sự chọn lựa của
ngài có thể bị đặt thành dấu hỏi. Ngài đã khẳng định điều đó
vào ngày 24 tháng Sáu năm 1883: “Chúng ta dấn mình vào
chính trị thì được ích lợi gì? Với tất cả sức lực của chúng ta,
chúng ta có thể đoạt được gì? Hẳn là chẳng được gì cả ngoài
việc khiến chúng ta không có thể theo đuổi nổi công cuộc bác
ái của chúng ta” (M. B., Cuốn 16, tr. 291).
Trong khi tóm lược theo một lược đồ sơ đẳng nhất, chính hoàn
cảnh sống, chúng ta có thể “trên lý thuyết” phác họa ra một vấn
đề nan giải được đặt ra cho Don Bosco như sau:
Hoặc đấu tranh chống lại những hiệu quả của những sự bất
công xã hội (như giúp đỡ các trẻ em nghèo trong khi xin và
nhận các trợ giúp của bất cứ ai) để xây dựng nhà trường và các
xưởng thợ).
Hoặc đấu tranh chống lại những nguyên nhân của các bất công
xã hội (sáng tạo ra các hình thức tố giác công cộng, qua các tổ
chức nghiệp đoàn các người thợ trẻ, từ chối sự cộng tác và sự
từ thiện của những người nằm ở trong một hệ thống chính trị -
kinh tế dựa trên sự bóc lột), với viễn cảnh là các nguồn từ thiện
của mình sẽ bị cạn kiệt, và phải từ bỏ các trẻ nghèo mặc cho số
phận của chúng.
Trong trường hợp thứ nhất, chúng ta sẽ có thể giựt giới trẻ ra
khỏi những nguy hiểm trực tiếp, nhưng sẽ liều để cho mình “bị
giật dây” bởi một hệ thống tại chỗ, tức là giáo huấn một lớp
những người thợ trẻ sống vâng phục và dễ bảo, khiến cho
chúng rốt cuộc sẽ không bao giờ phá rối những người quyền
thế.

29.8 Page 288

▲back to top
Trong trường hợp thứ hai, người ta tạo nên được một sự thay
đổi về “hệ thống xã hội”, nhưng liền gặp nguy cơ là không còn
có thể đáp ứng cho các khó khăn trực tiếp đang đè bẹp giới trẻ.
Không chỉ riêng với Don Bosco, mà còn đối với rất nhiều các
nhân vật trong Hội Thánh thời đại đó, sự chọn lựa thật là một
bi kịch; dù mình có chấp nhận giải pháp nào đi nữa, mình vẫn
không thể làm được tất cả mọi sự như mình mong muốn.
Trong mức khẩn trương của thời buổi, Don Bosco đã chọn con
đường thứ nhất. Khi ngài nhận ra những giới hạn của sự chọn
lựa này, ngài cảm thấy được nâng đỡ bởi toàn bộ hành động
của Hội Thánh (nay gọi là Công giáo Tiến hành). Ngài nói:
“Chúng ta hãy để cho các dòng tu khác cứng cáp hơn chúng ta
đề ra những lập trường và hành động chính trị. Còn chúng ta,
chúng ta đi thẳng tới những người nghèo”.
Để kết luận:
Xem ra chúng ta có thể khẳng định rằng nếu trong Hội Thánh,
những đặc sủng thì nhiều, tức là những ân huệ mà một số
người nhận lãnh được vì lợi ích của cộng đoàn, thì Don Bosco
xem ra đã nhận được đặc sủng là biết can thiệp vào những nhu
cầu khẩn thiết để cứu giúp giới trẻ nghèo. Đặc sủng tuy có
khác, nhưng không đối chọi lại với các đặc sủng được diễn tả
nơi Đức cha Ketteler (1811-1877), của Toniolo (1845-1918),
của Don Sturzo (1871-1959). Do vậy, vị linh mục thành Torino
có thể xếp ngang hàng với những vị trên. Bốn đặc sủng khác
nhau trong lãnh vực của Hội Thánh, đã được sống với
sự lương thiện và trong sáng và vì lý do đó, rất phong phú các
hoa trái chân chính cho dân Thiên Chúa.
Thánh Quan Don Bosco đi thăm thế giới

29.9 Page 289

▲back to top
Chương 27
1849, NĂM GAI GÓC MÀ PHONG PHÚ
Năm 1849 đã rất là gai góc, phong phú, Don Bosco viết, nó đã
bắt chúng tôi phải chịu nhiều cực nhọc khốn đốn và nhiều hy
sinh lớn lao.
Mọi sự bắt đầu xảy đến với ngài bằng một tin buồn của gia
đình. Ngày 18 tháng 1, ông anh Antôn của ngài thình lình qua
đời, hưởng dương mới bốn mươi mốt tuổi. Trong thời gian cuối
đời, ông thường hay đến nguyện xá để gặp mẹ Margarita và em
trai của mình. Họ trò chuyện với nhau về những vụ thu hoạch
thất bát và thuế khá nặng nề của chính phủ áp đặt lên nông dân
nhằm tài trợ cho cuộc chiến. Ông cũng nói cho họ hay về bảy
người con mà Thiên Chúa đã ban cho ông. Đứa con áp út, em
Nicolas đã về trời sau khi chào đời được mấy tiếng đồng hồ,
nhưng những đứa khác thì xem ra vẫn lớn lên bình thường.
Những năm tháng, cuộc sống, đã làm hai anh em xích lại gần
nhau. Thời gian mà họ từng cảm thấy lạnh nhạt đối với nhau
dường như đã lùi quá sâu vào quá khứ.
Ngày 1 tháng 2, Vua Carlo Alberto khai mạc cuộc họp Hạ viện
mới được bầu trong cuộc tuyển cử mới đây. Đa số áp đảo của
cánh tả lắng nghe nhà vua bằng một sự im lặng thù nghịch.
Trên các đường phố đám đông tiếp tục la hét: “Hoan hô chiến
tranh! Đả đảo các linh mục! Nền cộng hòa muôn năm!”. Trên
các nhật báo, những tranh biếm họa thô lỗ về Đức Piô IX “kẻ
phản bội nước Ý”. Trên tờ báo ngày 1l Fischietto (tiếng huýt
sáo nhỏ) Don Bosco bị châm biếm với một sự khôi hài độc địa.
Người ta gọi ngài là ông thánh, là “nhà người làm phép lạ của
khu Valdocco”.

29.10 Page 290

▲back to top
Các băng nhóm côn đồ lại tái diễn những màn tấn công bằng
những trận mưa đá quăng vào nhà Pinardi (mà Don Bosco đã
thuê bao toàn bộ).
Khi cần ra ngoài, Don Bosco cùng đi với anh Brosio; và người
“cảnh sát viên” tháp tùng cha đó kể lại: “Lúc chúng tôi đang đi
trên đại lộ gọi là Corso Regina Margherita, một bọn du đãng
nhóc con vẫn thường lăng mạ Don Bosco đều đều, đã rống lên
những câu chửi rủa thô bỉ hoặc hát vang những điệp khúc tục
tĩu. Một hôm, tôi đã tính tát tai chúng nhưng Don Bosco đã
dừng bước và đã xích được lại gần vài đứa trong bọn, đã mua
trái cây của một bà bán hàng có sạp cách đó không xa và đã
đem biếu không cho “những người bạn” của mình, theo cách
ngài gọi chúng như vậy.
Tờ báo “Bạn của Giới Trẻ”, một thất bại!
Don Bosco lo lắng về những sự dữ gieo rắc ngay cả nơi giới
trẻ bởi các tờ báo chống giáo sĩ. Những tờ báo này bán trên
các đường phố, và dán cả lên tường. Các báo Công giáo thì ít
ỏi, và thiếu tính cách bạo dạn chinh phục được dân chúng.
Dù có rất nhiều công việc và lo lắng, Don Bosco vào năm đó
kiêm thêm công việc sáng lập, phổ biến và điều hành một tờ
báo. Tên gọi là “Người Bạn của Giới trẻ”. Báo được xuất bản
ba lần trong một tuần. Ngài chuẩn bị bài vở cho tờ báo với sự
cộng tác của cha Carprano và cha Chiaves. Ngài in báo tại
xưởng in Speirani-Ferrero.
Đó là một thất bại nho nhỏ. Tam nguyệt đầu tiên có 137 số báo
in. Trong tam nguyệt thứ hai có 116 số báo. Báo xuất bản cả
thẩy 61 số.
Don Bosco đã trả cho nhà in 272 lire số tiền âm. Nhưng cha
không bao giờ tiếc xót. Cha đã cố gắng thực hiện điều thiện.
Đây là lần đầu tiên cha đã dụng độ phải “sự vô ý thức yên

30 Pages 291-300

▲back to top

30.1 Page 291

▲back to top
lành” của những người tốt. Sách báo Công giáo bên Ý đã lùi lại
phía đằng sau như một sợi dây xích nặng nề tới hơn 100 năm.
Lại chiến tranh
Trong khi đó, Torino lại hít thở không khí chiến tranh một lần
nữa.
Ngày 20 tháng Hai. Thủ tướng Giorberti từ chức. Thay thế ông
để đứng đầu chính phủ là bộ trưởng chiến tranh Chiodo. Phe
dân chủ cánh hữu làm chủ tình hình, thúc đẩy việc tái tiếp tục
chiến tranh. Ngày 2 tháng Ba, Hạ viện trình lời tâu lên Đức
Vua: “Các nghị sĩ của dân chúng khuyến cáo đức vua phế bỏ
cuộc đình chiến và tuyên bố chiến tranh. Chúng thần tin tưởng
vào vũ khí của Đức vua”.
Ngày 12 tháng 3, thỏa ước đình chiến đã bị bãi bỏ: chiến tránh
sẽ tái diễn sau tám ngày, 75.000 người ra biên giới. Nhà vua
lên đường đi Alexandria. Nhưng lần này, niềm hưng phấn vắng
bóng trong đám binh sĩ. Lữ Đoàn Savoia từ chối bước đi.
những kẻ đào ngũ, một số đã bị xử bắn.
Tại Lombardia, Tướng Áo Radetzki hô vang trước binh sĩ câu
khẩu hiệu mới: “Hãy tiến về Torino”.
Ngày 23 tháng 3, trận đánh Novarre nổ ra trên một trận tuyến
trải dài suốt bốn cây số. Miền La Biocca, trọng điểm của những
trận giáp la cà, đã nhiều phen bị mất rồi lại được tái chiếm.
Những thiên anh hùng ca đích thực. Đại tướng Passalacqua tử
thương trong một cuộc phản công bằng lưỡi lê. Đại tướng
Perrone, cựu thủ tướng, trúng thương nặng, đã được khiêng
bằng tay tới trước Đức Vua để bái kiến. Chiều tối, mọi sự đều
kết thúc. Pháo binh của Radetzky mạnh hơn nhiều, Đại tướng
Durando sẽ kể lại là mình đã nhiều lần phải nắm tay vua Carlo
Alberto mà lôi để kéo nhà vua ra khỏi cuộc hỗn chiến.

30.2 Page 292

▲back to top
Cả trận đánh lẫn chiến tranh đều thảm bại. Trong đêm tối, cảnh
hỗn loạn diễn ra rộng khắp, từ Novarre đến Olaggio, ở Moma
ngổn ngang những toa xe chất đầy các vật liệu bị bỏ lại. Binh
lính rã ngũ thất thểu lê bước trên mọi ngả đường, không có võ
trang, không người chỉ huy. Họ gào la: “Về nhà thôi! Mặc cho
Piô IX trả giá, mặc cho bọn nhà giàu trả giá, mặc cho những kẻ
ham thích chiến tranh cứ việc trả giá, chúng ta về nhà mình
đây”.
Lúc một giờ sáng, Carlo Alberto thoái vị. Với một áo choàng
lữ hành vắt ngang vai, ông rời Novarre trên một cỗ xe ngựa
bốn bánh và lên đường đi đày, băng ngang cảnh hỗn loạn rộng
khắp.
Chàng trai Vittorio Emmanuel, thẫn thờ như kẻ mất hồn, râu
ria lởm chởm, hai mắt thâm quầng vì mỏi mệt, gặp vị thống
tướng người Áo trong sân một nông trại. Chàng xin người ta
đừng áp đặt cho mình những điều kiện không sao chấp nhận
được, bằng không thì chính chàng cũng sẽ ra đi và bỏ mặc xứ
Piemont rơi vào tay quân cách mạng. Khi chàng bỏ đi, một ông
lính già người Áo (82 tuổi) đã nói nhỏ với tướng Hess “Tội
nghiệp thằng bé!”
Những tàn tích cuối cùng của tự do
Nhưng đáng tội nghiệp hơn cả, trong tình huống ấy, chính là
đất nước. Ở Torino, tình hình rất căng. Khi người ta được biết
là quân Áo đang đòi 200 triệu đồng bồi thường chiến tranh và
đang chiếm đóng Alexandria, sự phản kháng “dân chủ” trào
dâng như nước vỡ bờ. Người ta công khai nói đến nền cộng
hòa. Người ta kịch liệt đòi phải lâm chiến trở lại. Genova nổi
loạn.
Sau đám cháy lớn của vụ 1848, còn lại rất ít than hồng. Những
chiến binh từng sát cánh bên nhau trên các chốt phòng thủ mùa
xuân, hầu hết đều đã bị đánh bại. Các nhà ái quốc từng đòi hỏi

30.3 Page 293

▲back to top
nền độc lập đều đã bị pháo binh Áo bắt phải câm họng. Thợ
thuyền đã lại tiếp tục ngày gian khổ mười hai tiếng đồng hồ.
Các hiến pháp của chủ nghĩa tự do đã được rút ngắn lại ở khắp
nơi. Chỉ có ở Piemonte thì bộ Pháp chế [Hiến pháp] là còn
được duy trì.
Tuy vậy, các mảnh nhỏ ấy của tự do cho thấy là cực kỳ quan
trọng: chung quanh Piemonte sẽ qui tụ nước Ý. Cả đến những
hạt giống khác của tự do và bình đẳng, dường như đã bị phân
tán trong các vùng đất màu mỡ của sự đàn áp, cũng sẽ nảy
mầm theo tiến bộ chậm chạp của năm tháng dần trôi.
Sự thất bại của “các linh mục yêu nước”
Tại Novara cũng đồng lúc đánh dấu sự thất bại của “các linh
mục yêu nước” Piemonte với xác tín là mình “đi theo dân tộc”,
cha Cocchi đã dẫn một đoàn đông đảo các bạn trẻ của Nguyện
Xá Vanchiglires tham dự vào cuộc chiến chinh tại Novara. Khi
họ ở Vercelli, 200 bạn trẻ đã không được vị chỉ huy sư đoàn
nhìn nhận như là những binh lính. Chúng không biết tìm đâu ra
lương thực và chỗ qua đêm. Sau cuộc thảm bại của binh lính
Piemonte, họ trở về Torino, vào thành phố lúc ban đêm, nửa
sống nửa chết vì mệt nhọc. Đó là sự tàn bại dành cho công
cuộc của vị linh mục năng động xứ Druent.
Nguyện Xá Vanchiglires phải đóng cửa trong vài tháng. Cha
Cocchi sống ẩn dật. Ngài lại xuất hiện trở lại vào tháng Mười,
cùng với hai linh mục khác ngài đề xuất kế hoạch một nhà nội
trú cho các “bạn trẻ thợ”. Thế là ngài đã ngầm nhìn nhận
đường lối “phi chính trị” của Don Bosco là đường lối đúng
đắn.
33 lire dâng kính Đức Thánh Cha
Hằng chục ngàn di dân vào những tháng đó, đã đến để làm cho
dân số Torino thêm đông nghẹt. Cuộc sống trở nên khó khăn.

30.4 Page 294

▲back to top
Giá thuê nhà cao ngất, lương bổng lại khá thấp. Một di dân
Pháp, theo phe xã hội, tên là Coeurderoy, nói đến cảnh khốn
khổ hết sức nghiêm trọng tại các khu dân cư. Thiếu một nền kỹ
nghệ năng động. Tiền bạc đang lưu hành thì bị săn lùng bởi các
thứ thuế má hết sức nặng nề. Thợ thuyền tiếp tục rất dồi dào
trên các chợ búa, nhưng nếu những nhà cửa mới liên tục được
xây dựng đầy dẫy, thì người ta cũng đã thuê chúng ngay cả
trước khi chúng được hoàn tất.
Trong khi đó Đức Piô IX vẫn còn sống lưu đày tại Gaeta. Hầu
tước Gustavo Cavour và kinh sĩ Valinotti đưa ra một kế hoạch
quyên góp tại Torino với danh nghĩa “Quà quyên góp dâng cho
thánh Phêrô”. Ngay cả các trẻ em Nguyện Xá cũng tham dự.
Gom góp hết các đồng xu của các em lại, vào cuối tháng Ba,
các em đã trao cho Ủy Ban Quyên góp 33 lire, cùng với một lá
thứ chúc mừng Đức Thánh Cha.
Ngày 2 tháng Sáu vị Khâm sứ Tòa Thánh gửi tới Don Bosco
một lá thư: “Một niềm cảm động dịu dàng đã khởi sắc nơi tâm
hồn Đức Thánh Cha trước của dâng trìu mến và chân thành của
các trẻ em thợ nghèo cùng những lời mộ mến của các em đi
kèm theo. Vậy tôi xin cha cho các em hay Đức Thánh Cha rất
hài lòng trước món qùa dâng này. Nó vô cùng quí báu vì nó đã
được dâng cho ngài từ các trẻ em nghèo”.
Đức Thánh Cha trao đổi lại với các em một món quà là một
chùm 720 vòng triều thiên tràng hạt mân côi sẽ đến Torino vào
ngày 21 tháng Tư 1850.
“Hai quả tim nhỏ để tạ ơn”
Ngày 24 tháng 6, lễ Thánh Gioan Baotixita, đây là ngày lễ của
Don Bosco. Carlo Gastini và Felice Reviglio, bất chấp thời
buổi khó khăn, quyết định biếu một món quà nhỏ cho Don
Bosco. Suốt mấy tháng nay họ đã bí mật thỏa hiệp với nhau.
Họ đã nhịn ăn bánh để dành dụm những đồng xu hiếm hoi,

30.5 Page 295

▲back to top
những khoản tiền thưởng nho nhỏ các em đã nhận được.
Nhưng mua gì đây với những giá cắt cổ của các mặt hàng mà
người ta được thấy trong các tủ kính? Cuối cùng, họ quyết
định: hai quả tim nhỏ bằng bạc, loại mà thiên hạ vẫn quen mua
để dâng kính Đức Mẹ, nhằm tạ ơn sau khi đã nhận được một
ơn lành nhờ chuyển cầu của Mẹ. Một sự lựa chọn kỳ lạ nhưng
mới dễ thương và cảm động biết bao!
Bốn đứa trẻ và một khăn mùi xoa trắng
Gastini và Reviglio là hai đứa trẻ mà Don Bosco để ý quan sát.
Năm 1848, họ đã dự cuộc tĩnh tâm với mười một đứa khác.
Năm nay, họ lại tĩnh tâm lần nữa với sáu mươi chín bạn bè,
chia làm hai đội.
Ý niệm cố định của Don Bosco vẫn luôn luôn là “nghiên cứu,
biết chọn ra vài đối tượng” có nhiều hy vọng thành đạt ơn kêu
gọi làm linh mục.
Cuối cuộc tĩnh tâm, ngài gọi Giuse Buzzetti, Giacomo Bellires,
Carlo Gastini và Felici Reviglio, ngài bảo chúng:
- Cần có người tiếp tay với cha ở nguyện xá.
- Tiếp tay, bằng cách nào?
- Trước hết, tiếp tục học trở lại. Những khóa cấp tốc có cả môn
La văn. Sau đó, nếu Chúa muốn, các con sẽ có thể trở nên linh
mục.
Bộ bốn nhìn vào mắt nhau, chúng đều đồng ý.
Don Bosco chỉ ra một điều kiện duy nhất. Ngài rút ra một cái
khăn mùi xoa trắng và vo nó trong hai tay của mình.
“Cha xin các con hãy ở trong tay cha như chiếc khăn mùi xoa
này: vâng lời trong mọi sự”

30.6 Page 296

▲back to top
Trong bộ bốn ấy, chỉ có mỗi mình Bellires là đã theo học toàn
bộ các lớp sơ cấp. Don Bosco, tháng tám, giao phó cậu ta vào
tay nhà thần học Chiaves để cha ấy kèm cặp gắt gao cậu ta về
môn La văn. Tháng chín, ngài đem cậu ta về Becchi, tại nhà
của Giuse, và cậu ta bắt đầu vùi đầu vào các bài học La văn.
Họ quay về Torino vào tháng mười, vừa kịp để tham gia vào
đám tang trọng thể mà cả kinh thành tổ chức cho Carlo
Alberto, qua đời tại Porto.
Đại đội ở Borgo Vanchiglires
Cũng trong tháng mười ấy, được sự đồng ý của Don Cocchi và
với sự đồng tình ủng hộ của Đức Tổng Giám mục, Don Bosco
lại mở lại nguyện xá Thiên thần bản mệnh ở Borgo
Vanchiglires. Hai kho chứa đồ làm vườn, hai buồng ngủ, một
phòng lớn hơn được cải tiến thành nhà nguyện: 900 lires tiền
thuê mỗi năm. Chính Don Carpano, là người sẽ điều hành nó
và sẽ nhượng lại cho Don Ponte nguyện xá Thánh Lu-y.
Ở Borgo Vanchiglires vẫn tiếp tục những trận đánh tàn bạo
giữa các băng nhóm. Để tiếp tay với Don Carpano, Don Bosco
đã cử cảnh sát viên Brosio tới, và cả ở đây nữa, ông này cũng
đã thành lập một đại đội hiếu chiến, chơi rất hăng mà đánh
cũng thật đúng đối tượng, đúng lúc.
“Một ngày Chúa nhật nọ, Brosio thuật lại, xuất hiện bốn chục
tên côn đồ, võ trang bằng đá, gậy và dao tính xâm nhập vào
nguyện xá. Cha giám đốc sợ đến nỗi run lên như cầy sấy. Phần
tôi, chẳng rõ là bọn chúng thật sự kiên quyết tấn công, tôi liền
đóng cửa lại, triệu tập mấy em lớn nhất và phát cho các em
những cây súng gỗ. Tôi chia các thanh thiếu niên thành những
phân đội, với huấn lệnh là nếu các em bị tấn công, khi nào tôi
ra hiệu thì các em sẽ nhất loạt phản công ở mọi nơi và đồng bộ,
và hãy đập đánh không nương tay”.

30.7 Page 297

▲back to top
Sau khi thu gom những đứa nhỏ nhất đang khóc tỉ tê vì sợ, tôi
giấu chúng vào bên trong nhà thờ, còn mình thì đứng ngay cửa
ra vào, lúc ấy đang bị bọn tấn công ra sức xô cho sập bằng cách
dùng hết sức để đập phá dữ dội. Trong lúc ấy, có người đã đi
báo cho các quan nhân thuộc kỵ binh đã xộc tới với những
thanh gươm tuốt trần.
Lần đó mọi chuyện trôi êm thắm!
Một bao đầy lá khô
Ngày 8 tháng 12, đã đến tạm trú tại nhà Don Bosco linh mục
Giacomelli, bạn cố tri của ngài hồi ở chủng biện Chieri. Cha
này sẽ lưu lại Valdocco hai năm. Với sự giúp đỡ của cha ấy và
của chủng sinh Ascanio Saviô, có thể gia tăng sĩ số các trẻ em
thường trú, những em “nội trú”, lên tới con số ba chục em.
Chúng sẽ là 36 và năm 1852, 76 năm 1853, 115 vào năm 1854.
Trong năm 1860 chúng sẽ là 470 và 600 vào năm 1861. Mức
cao nhất sẽ đạt được là 800 em.
Nếp sống của bọn trẻ vẫn tiếp tục cực kỳ nghèo túng. Mùa
đông, ai nấy đều lạnh cóng bên trong nhà thờ cũng như ở mọi
nơi khác, ngoại trừ trong bếp và trong một căn phòng có một lò
sưởi đốt bằng củi. Nệm nhồi len hoặc lông bờm ngựa là một xa
xỉ phẩm đối với một số em. Đa phần ngủ trên những bao nhét
đầy lá khô hoặc rơm. Những đồng xu hiếm hoi của cộng thể,
Don Bosco đem giao cả cho Giuse Buzzetti, khiến đứa trẻ
mười bảy tuổi vào năm 1849 ấy lấy làm ngạc nhiên vì được tín
nhiệm tới mức đó.
Chúa nhật, bọn trẻ “nội trú” ấy tham gia trọn vẹn vào sinh hoạt
của 500 trẻ em chiếm đóng nguyện xá, vào các trò chơi, các
cuộc dạo chơi.
Ngày 20 tháng Mười Một, Vua Vittorio Emmanuel, với lời
tuyên bố tại thành phố Moncalieri, đã một lần nữa giải tán Hạ

30.8 Page 298

▲back to top
viện và kêu gọi 90,000 cử tri tham gia cuộc bầu cử mới. Với
những lời nghiêm khắc, ông đã quở trách “Phe Dân Chủ Cánh
tả” đã làm cho tổ quốc bị tàn phá, và mời gọi các cử tri đưa vào
Hạ viện những con người ôn hòa hơn.
Cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 9 tháng Mười Hai, vào buổi đầu
của một mùa đông đầy đe dọa lạnh giá và hoang tàn. Các nghị
viên mới im lìm chấp thuận hòa ước. “Đây không phải là một
nền hòa bình – như lời ông Cognasso viết - đây là một cuộc
ngừng chiến trong 10 năm. Mười năm phải trôi qua trong lao
động âm thầm”.
Bốn xu cháo bột ngô
Trong quí chót của năm 1849, đang khi mà – theo lời các sử
gia – rất đông đảo người chung quanh Torino, lâm cảnh đói
khổ, thì lịch sử của Don Bosco đã ghi nhận một số biến cố thần
bí. Chúng ta có thể gọi là (nếu từ ngữ không có tính quá lố)
“những phép lạ mà một linh mục được làm cho những con
người tầm thường”.
Bersagliere Giuseppe Brosio thuật lại phép lạ thứ nhất trong
một thư viết cho Don Bonetti
“Một hôm, tôi đang ở nhà Don Bosco, một người đàn ông đến
ra mắt ngài để xin của bố thí. Ông ta kể lại là mình có năm con,
mà bọn chúng đã nhịn đói suốt một ngày rồi. Don Bosco lục lọi
khắp các túi, ngài chỉ kiếm được 4 xu (khoảng 1/5 của 1 lires)
và ngài trao cả cho ông ta cùng với phép lành của ngài”.
Khi chúng tôi chỉ còn lại một mình, Don Bosco bảo tôi rằng
ngài lấy làm tiếc đã không có nhiều tiền hơn: giả như ngài có
một trăm lires, ngài cũng đã tặng hết cho ông ta rồi.
Tôi thưa với ngài:

30.9 Page 299

▲back to top
- Làm sao mà cha biết được là ông ta có nói thật hay không?
Lỡ ra đó là một tên lường gạt thì sao?
- Không, ông ta rất chân thành và trung thực. Thậm chí tôi còn
dám nói thêm rằng ông ta rất chăm làm và rất gắn bó với gia
đình mình.
- Làm sao mà cha biết được chuyện ấy?
- Tôi đã đọc thấy trong tim ông ta.
- Chèng đéc ơi! Nếu vậy thì cha cũng thấy rõ mọi tội lỗi của tôi
nữa sao?
- Phải, tôi ngửi thấy mùi của những tội ấy, ngài vừa cười vừa
đáp. Và tôi phải nói ngay rằng ngài thật sự đọc được trong tim
tôi. Nếu như tôi có quên sót điều gì đó trong lúc xưng tội, ngài
liền phơi bày trước mặt tôi toàn bộ vụ việc, dù tôi ở cách xa
nhà ngài tới mười cây số. Có hôm tôi đã làm được một nghĩa
cử của lòng quảng đại, đòi hỏi tôi phải hy sinh rất nhiều, mà
không ai hay biết gì cả. Tôi đến nguyện xá. Ngay khi vừa gặp
tôi, Don Bosco đã cầm tay tôi và nói: “Phần thưởng mà ông
bạn đã chuẩn bị cho mình trên Thiên Đàng mới đẹp đẽ biết
bao”. “Tôi đã làm gì chứ?”, tôi hỏi ngài và ngài liền ôn lại cho
tôi từng điểm một những gì đã xảy ra. Ít lâu sau, tôi tình cờ gặp
lại người đàn ông đã được ngài cho bốn xu. Ông ta đã nhận ra
tôi, kêu tôi dừng lại và cho tôi biết là với bốn xu ấy ông ta đã
đi mua bột ngô để nấu cháo, ông ta và cả gia đình đã được ăn
uống no nê, ông ta còn nói.
“Trong gia đình, chúng tôi gọi ngài là vị linh mục của phép lạ
cháo bột ngô, bởi lẽ với bốn xu người ta chỉ mua đủ bột cho
chưa đầy hai người ăn, vậy mà chúng tôi có cả thảy bảy người
ăn no nê mà còn thừa nữa”.
“Tôi đã gọi đích danh anh ta: Carlo!”

30.10 Page 300

▲back to top
Phép lạ thứ hai, chính là hầu tước Maria Faistre, là người thuật
lại bằng thư, viết bằng tiếng pháp. Bà viết: “Tôi đã nghe bài
tường thuật này từ miệng của chính Don Bosco và tôi đã cố ghi
lại một cách hết sức trung thực”.
Một hôm người ta đã đến kiếm Don Bosco để lo cho một thanh
niên trước kia vẫn thường xuyên lui tới nguyện xá và người ta
cho biết là chàng ta đang ngã bệnh nặng. Don Bosco lúc ấy đi
vắng và mãi hôm sau mới trở về Torino. Ngài đã chỉ có thể tới
nhà người bệnh vào khoảng bốn giờ chiều hôm sau. Khi đến
nhà người ấy, ngài đã thấy những tấm thảm màu đen treo trên
cửa ra vào với tên tuổi của thanh niên mà ngài muốn đến gặp.
Tuy vậy, ngài vẫn vào nhà để nhìn mặt anh ta lần chót cũng
như để an ủi song thân của anh ta. Ngài gặp họ đang đầm đìa
nước mắt và họ kể lại cho ngài nghe là con trai họ đã tắt thở từ
hồi sáng. Don Bosco hỏi xem ngài có thể lên phòng đặt linh
cữu để nhìn mặt người quá cố lần cuối chăng. Một gia nhân
liền dẫn ngài lên đó.
“Khi bước vào phòng, Don Bosco nói, tôi chợt nảy ra ý nghĩ là
anh ta chưa chết, tôi lại gần gường và gọi đích danh anh ta:
“Carlo!” Anh ta liền mở mắt và chào tôi với vẻ ngạc nhiên: “Ồ,
Don Bosco!”, anh ta reo lên, “Cha vừa đánh thức con khỏi một
giấc mơ rất là khủng khiếp!”. Lúc ấy, nhiều người nãy giờ cũng
có mặt trong phòng đã bỏ chạy, cực kỳ hoảng hốt, miệng thét
vang, xô đổ cả đèn, nến, còn Don Bosco thì vội vàng xé rách
tấm vải liệm bọc kín chàng trai vẫn đang tiếp tục nói như vậy.
“Con thấy dường như người ta đang đẩy con vào một hang
động sâu thẳm và tối om, anh ta nói, và hẹp tới mức con gần
như không sao thở nổi, ở cuối hang động ấy con thấy như có
một khoảng trống rộng lớn hơn và sáng sủa hơn, nơi đấy rất
nhiều linh hồn đang bị phán xét và nỗi thấp thỏm kinh hoàng
của con tiếp tục tăng thêm vì con thấy một số đông trong bọn
họ đã bị kết án, cuối cùng đã tới phiên con và con sắp sửa phải

31 Pages 301-310

▲back to top

31.1 Page 301

▲back to top
chịu chung số phận khủng khiếp của họ vì đã xưng tội lần chót
không nên, thì đúng lúc ấy cha đã đánh thức con dậy!”
Lúc này cha và mẹ của Carlo đã chạy tới và được tin là con
mình còn sống. Chàng trai chào họ một cách thân thiện nhưng
bảo họ đừng trông mong gì chuyện mình được hết bệnh. Sau
khi đã ôm hôn họ, chàng xin được ở lại với Don Bosco, là
người được kể cho nghe mình đã vô phúc phạm phải một tội
mà anh tin là rất nặng, và thấy mình không được khỏe, anh đã
cho người đi mời Don Bosco với quyết tâm sẽ xưng thú tội lỗi,
nhưng vì không gặp được ngài nên người ta đã đưa về một linh
mục khác mà anh ta không quen biết do đó anh ta đã không
dám xưng tội kia ra. Chúa vừa tỏ ra cho anh ta thấy là anh ta
đáng sa hỏa ngục vì đã phạm sự thánh khi làm hư phép giải tội
như vậy. Ngay sau đó anh ta đã xưng tội với tất cả lòng ăn năn
đau đớn, và ngay khi nhận được ơn tha tội anh ta đã nhắm mắt
lại và nhẹ nhàng trút hơi thở cuối cùng”.
“Tôi được biết chuyện trên bởi miệng của chính Don Bosco và
tôi đã cố ghi lại một cách trung thực bao nhiêu có thể”.
Một giỏ hạt dẻ không bao giờ cạn
Sự kiện thứ ba, chính Giuse Buzzetti là người thuật lại, và nó
đã được xác nhận bởi Carlo Tomatis, là một trong những đứa
trẻ đầu tiên đã được Don Bosco cho nương náu trong nhà của
ngài.
Ngày lễ các linh hồn, Don Bosco đưa tất cả bọn trẻ vẫn trở lại
nguyện xá vào ngày Chúa nhật và các ngày lễ, cho chúng ra
thăm nghĩa địa và cầu nguyện ở đó. Ngài có hứa là, lúc trở về,
sẽ cho chúng ăn hạt dẻ rang. Ngài đã cho múc ba bao.
Mẹ Margarita vì không hiểu ngài muốn gì nên đã chỉ cho rang
ba hoặc bốn ký mà thôi.

31.2 Page 302

▲back to top
Giuse Buzzetti, cậu bé quản lý, về đến nhà cùng với các bạn
khác, thấy rõ vụ việc liền nói:
“Don Bosco thế nào cũng bệnh về chuyện này mất. Mình phải
báo trước cho ngài mới được”
Nhưng trong cảnh rộn ràng huyên náo do sự trở về của cả một
đoàn quân háu đói, Buzzetti đã không sao giải thích cho ngài
hiểu được chuyện gì đã xảy ra. Don Bosco cầm lấy cái rổ và
bắt đầu chia hạt dẻ với cái muỗng lớn đã cũ, lủng lỗ. Trong
cảnh ồn áo, Buzzetti la lên để mong ngài nghe lọt tiếng mình:
- Đừng cho quá nhiều như vậy! Sẽ không đủ cho mọi người
đâu.
- Nhưng dưới bếp có tới ba bao kia mà.
- Không! Chỉ có vậy thôi, có vậy thôi! Buzzetti cố trả lời ngài
trong lúc bọn trẻ gào la và xô lấn nhau từng đợt trên bếp. Don
Bosco quýnh lên:
“Nhưng cha đã hứa cho hết mọi người mà. Thấy họ! Còn tới
đâu ta cứ tiếp tục phát tới đó”.
Ngài tiếp tục chia ra cho mỗi đứa một muỗng lớn. Buzzetti lấm
lét hết nhìn mấy nắm hạt dẻ rang còn sót dưới đáy rổ lại nhìn
đến hàng người chờ đợi càng lúc càng dài mãi. Một đứa khác
cũng bắt đầu quan sát. Và bỗng nhiên, sự câm lặng chợt ập tới,
hàng trăm đôi mắt mở rộng không sao tách khỏi cái rổ không
bao giờ cạn ấy nữa…
Ai nấy đều có phần cả. Và tới hôm ấy hẳn là lần đầu tiên mà
bọn trẻ, hai tay đầy ắp những hạt dẻ rẻ tiền, đã hô vang: “Don
Bosco là một vị thánh!”

31.3 Page 303

▲back to top
Chương 28
MỘT NGÔI NHÀ VÀ MỘT NHÀ THỜ
Trong quý sau cùng của năm 1848, Don Bosco đã đệ trình một
thỉnh nguyện thư lên Bộ nội vụ để xin một khoản trợ cấp cho
nguyện xá của ngài.
Buổi chiều một ngày Chúa nhật trong tháng 1 năm 1850, một
ủy ban gồm ba nghị sĩ, Sclopis. Pallavicini và Colegno đã
xuống khu Valdocco để tham quan cơ sở và làm một báo cáo
cho Thượng viện và cho ông bộ trưởng.
Cảnh tượng rất tích cực, họ thấy năm trăm thanh thiếu niên
chơi đùa trên mấy cái sân và trên các đồng cỏ, cầu nguyện chen
chúc nhau trong nhà nguyện và ở chung quanh, họ đã thăm dò
tỉ mỉ về trung tâm nương náu ba chục nội trú sinh.
Bá tước Sclipis hỏi Giuseppe Zanzine, một đứa trẻ mà ông tình
cờ gặp được. Ông được biết là nó từ Varese tới, làm nghề thợ
đẽo đá, mồ côi cha. Ông có biết thêm, giữa hai giọt nước mắt
sầu khổ của thằng bé, là mẹ nó hiện đang ở tù.
“Tối, cháu đi đâu ngủ?” Ông bá tước hỏi, có vẻ hơi bối rối.
Cho mãi đến những ngày gần đây, cháu vẫn ngủ tại nhà người
mướn cháu làm nhưng hiện nay Don Bosco đã nhận cho cháu
vào ở trong nhà của ngài.
Pallavicini thảo báo cáo cho Thượng viện. Bản báo cáo này đã
được ghi lại trong các công vụ chính thức của ngày 1 tháng 3,
nguyên văn như sau: “Cơ ngơi của vị linh mục lỗi lạc và đầy
nhiệt tình Gioan Bosco chứng tỏ rằng đây là một cơ sở tôn
giáo, đạo đức, hữu ích. Sẽ là một thiệt thòi nghiêm trọng cho
thành phố nếu nó phải ngừng hoạt động hoặc biến mất vì Don
Bosco thiếu sự cứu trợ. Ủy ban chúng tôi khẩn thiết yêu cầu Bộ

31.4 Page 304

▲back to top
Nội vụ vui lòng yểm trợ một cách hữu hiệu cho một một công
cuộc vừa có ích vừa có lợi như vậy”.
Những lời trên đã đem lại cho Don Bosco một món tiền tính
theo tiền lire là ba tờ tiền giấy trăm lire do Thượng viện ban và
hai tờ tiến giấy ngàn lire do ngài Bộ trưởng Urbano Rattazzi
trao.
Nhưng những đồng lire (được nhận một cách xứng đáng và
được chúc phúc) không phải là cái lợi chính, mà còn có một lợi
ích lớn hơn. Đó là tại xứ Piemont, sắp nổ ra một vụ tranh cãi
lâu dài và và gian nan giữa Nhà Nước và Giáo hội. Cuộc thăm
viếng và bản báo cáo của ba thượng nghị sĩ mà Don Bosco đã
khơi lên, đã giúp cho nguyện xá vượt qua được cơn phong ba
bão táp lớn mà không phải chịu những tổn thất nào quá đáng.
Đức Tổng Giám mục bị bắt giữ
Đó là những ngày nóng bỏng, tại phòng Đặc nhiệm người ta
đang tranh luận về các dự án luật đã được đệ trình lên Bộ
trưởng Tư pháp, Siccardi. Người ta tính bãi bỏ vài đặc quyền
lâu đời của hàng giáo sĩ: tòa án giáo quyền (các Giám mục và
các linh mục phạm pháp sẽ không còn được xét xử bởi các tòa
án giáo quyền nữa, mà là bởi các tòa án phàm tục), quyền tị
nạn (xưa nay cảnh sát không được bắt giữ những kẻ tội phạm
nếu họ vào tị nạn trong một nhà thờ hoặc tu viện); khả năng gia
tăng các tài sản của Giáo hội.
Ngày 8 tháng 4, các sắc luật Siccardi đã được tán thành bởi
phòng đặc nhiệm và Thượng viện. Ngày 9 nó được phê chuẩn
bởi nhà vua. Trong thành phố, những băng nhóm bài giáo sĩ
như vừa thoát cũi xổng chuồng. Những đoàn người tuần hành
nối đuôi nhau luôn miệng gào thét: “Đả đảo các linh mục!
Hoan hô Saccardi!” Điểm hội tụ là Tòa Tổng Giám mục. Thoạt
đầu chỉ có những tiếng la và những lời thóa mạ: “Giết chết
Fransoni đi! Tống cứ khâm sứ Tòa thánh đi cho rồi!” Rồi

31.5 Page 305

▲back to top
người ta bồi thêm vào đó những cục đá. Những khung kính cửa
sổ bể nát, người ta ra sức phá sập cổng ra vào. Những đội kỵ
binh, gươm tuốt trần, đã phải can thiệp.
Cuối tháng bảy, Pietro Derossi di Santarosa, bộ trưởng Nông
nghiệp, ngã bệnh nặng. Ông xin được chịu các bí tích. Cha xứ,
thuộc Tu hội Servites CácTôi Tớ, nhận được từ Đức Tổng
Giám mục lệnh phải đòi người bệnh rút lại sự tán thành đã
dành cho các sắc luật Siccardi. Sactorosa từ chối, ông chết
ngày 5 tháng 8 mà không được rước Của Ăn đàng
Trên các đường phố Torino, những cảnh hỗn loạn lại tái diễn.
Các tu sĩ thuộc Tu hội Servites Các Tôi tớ đều bị trục xuất. Bộ
trưởng bộ chiến tranh, Alphonse la Marmora, đề nghị đức
Fransoni từ nhiệm chức Tổng Giám mục. Do bị từ chối, ông đã
cho cảnh sát bắt giữ ngài ngày 7 tháng 5 và quản thúc tại thành
Fenestrelle, gần biên giới Pháp. Từ nơi ấy Đức Tổng Giám
mục sẽ bị đầy ra khỏi nước ngày 28 tháng 9.
Những toán xung kích ồ ạt tấn công các tu viện trong thành
phố. Các tu sĩ thuộc các dòng Oblat Tận Hiến, Barnabite, Đa
minh phải dùng đồ đạc chặn các cửa ngõ để phòng thủ trong
các nhà của họ. Ngày 14 tháng 8, một gã tên Volpato đã đến
Valdocco và báo cho Don Bosco biết là đến chiều tối nguyện
xá cũng bị tấn công. Tốt nhất ngài nên bỏ đi ngay tức khắc
cùng với bọn trẻ.
Don Bosco ngẫm nghĩ rồi quyết định ở lại. Lúc bốn giờ chiều,
đoàn người biểu tình kéo xuống vùng ven. Nhưng trong đám
đông (Don Lamoyne chứng thực) có một người đàn ông đã
từng được Don Bosco cứu giúp. Ông cho dừng những toán đi
đầu lại và nói:
“Tấn công nguyện xá là bậy. Chúng ta sẽ chỉ bắt gặp toàn
những đứa con nít nghèo khổ và một vị linh mục đang ra sức

31.6 Page 306

▲back to top
cung cấp của ăn để nuôi sống chúng. Don Bosco cũng đứng về
phía nhân dân như chúng ta vậy. Hãy để ngài yên”.
Người ta bàn cãi, rồi đoàn người rẽ sang một hướng khác.
Một ê kíp 4 người khác
Trong cơn phong ba bão táp, Don Bosco vẫn âm thầm hoạt
động. Reviglio, Bellires, Buzzetti vẫn tiếp tục các “khóa cấp
tốc” và kể từ nay họ hầu như đã sẵn sàng để dự kỳ sát hạch để
được nhận áo chùng thâm. Michelino Rua, trong năm 1850, đã
hoàn tất mấy lớp sơ cấp tại trường các sư huynh các trường
Công giáo và Don Bosco không hề rời mắt khỏi cậu. Một hôm,
ngài gọi cậu ra riêng một chỗ:
- Con có ý định làm gì năm tới này?
- Mẹ con đã nói chuyện với ông giám đốc cơ sở sản xuất vũ
khí. Họ đã chịu nhận cho con vào làm việc, nhờ đó con sẽ có
thể phụ đỡ gia đình.
- Cha cũng vậy. Cha đã nói chuyện với một người. Các giáo
viên của con đã cho cha biết là Thiên Chúa đã ban cho con một
trí thông minh tuyệt vời và sẽ rất uổng nếu con không tiếp tục
theo đuổi việc học. Con nhất trí với cha chứ?
- Tất nhiên, nhưng mẹ con rất nghèo. Cha con đã chết. Cha bảo
con kiếm đâu ra tiền để ăn học chứ?
- Chuyện ấy để cha lo. Con chỉ cần cầu xin mẹ con để con tiếp
tục theo học các lớp La văn.
Gioan-Maria, bà mẹ, nhìn thật lâu đứa con trai cao lều nghều
và ốm nhách của mình. Bà nghe nó nói về Don Bosco với sự
hưng phấn và đáp:
“Mẹ bằng lòng đó, Michelino ạ. Nhưng liệu sức khỏe của con
có cầm cự nổi không? Chúa đã cất đi bốn anh trai của con, mà

31.7 Page 307

▲back to top
con thì, còn ốm yếu hơn cả mấy anh ấy nữa. Hãy thưa với Don
Bosco đừng bắt con học hành quá căng”.
Vì Michelino ở không mấy xa nguyện xá và thật sự có ít sức
khỏe, Don Bosco đã để cậu ở lại nhà cậu thêm hai năm nữa.
Nhưng đến tháng 11 năm 1850, ngài đã bắt đầu gửi cậu vào
trường của giáo sư Giuseppe Bonzamino. Tối đến, ngài đích
thân tiến hành cho cậu các ôn tập đại số và phương pháp đo
lường bằng thước tấc. Bên cạnh Rua còn có các thanh niên
Angeli Saviô, Francesia và Anfossi, ê kíp thứ hai gồm bốn
người mà Don Bosco hy vọng sẽ dìu dắt tới chức linh mục.
Chúa nhật, đang khi Buzzetti tiếp tay với Don Bosco, thì Micae
Rua và Angelo Saviô lên đường tới các nguyện xá Vanchiglires
và Porta Nuova, nơi họ phụ giúp công tác hộ trực và dạy giáo
lý.
Ngày 2-2-1851, sau mười lăm tháng “trường học lửa”, bộ bốn
đầu tiên của ngài đã được chấm điểm đậu xuất sắc trong kỳ sát
hạch tại Hội đồng giáo phận Torino. Buzzetti, Gastini, Bellires,
Reviglio được nhận áo dòng ngay tại nguyện xá. Don Bosco
mặt mày sáng rỡ. Ngài thấy dường như những con chiên đầu
đàn của mình, rốt cuộc, nay đang biến thành những người chăn
chiên. Nhưng ngài đang lầm, trong bốn chàng trai ấy (những kẻ
mà ngày hôm sau, sẽ bắt đầu khóa triết học), chỉ có Bellires và
Reviglio là sẽ thành linh mục, nhưng sẽ không lưu lại nguyện
xá. Buzzetti sẽ vẫn ở lại với Don Bosco, nhưng không hề trở
nên linh mục. Mối hy vọng đầu tiên sẽ đạt được đúng như tâm
nguyện của ngài, chính là đứa bé cao lều nghều mặt xanh mét
vẫn đang sống bên mẹ của nó, Michelino Rua.
30.000 lire và một thoáng chóng mặt.
Sau vụ nhận áo chùng thâm của bộ bốn đầu tiên “những tu sĩ
nhỏ”, Don Bosco liền nghĩ đến chuyện ăn của họ. Người ta
không thể nào sống được tại một điểm thuê mướn có nguy cơ

31.8 Page 308

▲back to top
bị bán đi bất kỳ lúc nào. Một chiều Chúa nhật nọ, đang khi Don
Borel thuyết giáo, ngài đã thẳng thắn tấn công Francesco
Pinardi:
- Nếu ông ra giá phải chăng, tôi sẽ mua đứt toàn bộ ngôi nhà
của ông.
- Giá phải chăng, tôi sẽ cho cha biết sau. Cha tính trả tôi bao
nhiêu nào?
- Tôi đã cho một người đàng hoàng lượng định giá cả rồi, đó là
kỹ sư Spezia. Trong tình trạng hiện nay, ông ta cho tôi biết là
nó đáng giá trong khoảng từ 26.000 đến 28.000 lire. Tôi đề
nghị trả cho ông 30.000 lires.
- Trả bằng tiền mặt và dứt điểm chỉ trong một lần.
- Đồng ý.
- Cha hãy bắt tay tôi. Mười lăm ngày nữa, chúng ta sẽ ký văn
kiện sổ công chứng.
Don Bosco bắt tay ông ta. 30.000 lire thời ấy tương đương với
50 triệu lire theo thời giá hiện nay (tính theo đôla Mỹ hiện nay
là khoảng 50.000 đôla). Kiếm đâu ra số tiền này nội trong vòng
mười lăm ngày? Sau đây là những gì Don Bosco đã viết một
cách rất đơn sơ:
“Thế là đã diễn ra một nghĩa cử cao đẹp của Chúa Quan phòng.
Ngay tối hôm ấy, Don Cafasso đã gặp chuyện khác thường
trong ngày lễ, ngài đến gặp tôi và cho tôi biết là một nhân vật
đạo đức, bà bá tước Casazza Riccardi, đã nhờ ngài chuyển đến
tôi 10.000 lire ngõ hầu tôi có thể dùng vào việc nào đó mà tôi
cho là tốt nhất để làm sáng danh Chúa. Hôm sau, một tu sĩ
Rosmini đã đến, ngỏ ý sẵn sàng cho tôi mượn 20.000 lire. Tiền
lời là 4% nhưng cha Rosmini nhấn mạnh là mình chỉ cần nhận
được hoặc tiền lời, hoặc tiền vốn mà thôi. 3000 lires thủ tục phí

31.9 Page 309

▲back to top
đã được bổ sung bởi hiệp sĩ Cotta, tại ngân hàng mà người ta
tiến hành thủ tục mua bán”.
Hôm ấy là ngày 19-2-1951, thật khó mà không nhìn thấy trong
vụ việc này là sự can thiệp của Chúa và còn khó hơn nữa, đối
với Don Bosco, nếu không thừa thắng xông tới trên cùng một
con đường ấy.
Và giờ đây, một Thánh đường nguy nga tráng lệ
Một buổi tối, cũng trong thánh đường này, đang khi mẹ
Margarita vá đồ cho bọn trẻ đang say giấc mộng, ngài thì thầm
như nói với lòng mình:
“Và giờ đây, ta muốn xây một Thánh đường để kính thánh
Phanxicô đệ Salê”.
Sợi chỉ và cây kim rơi khỏi tay mẹ Margarita:
- Một Thánh đường! Nhưng con sẽ đào đâu ra tiền chứ? Chúng
ta thậm chí không kiếm nổi bánh ăn và áo mặc cho bọn trẻ
đáng thương ấy, vậy mà con còn đòi nói đến một ngôi Thánh
đường mới nữa chứ! Mẹ hy vọng là con sẽ suy nghĩ kỹ và sẽ
thỏa hiệp đàng hoàng với Chúa trước khi dính vào một chuyện
động trời như vậy.
- Mẹ à, nếu mẹ có tiền, mẹ sẽ cho con chứ?
- Tất nhiên, nhưng mẹ đâu còn gì nữa.
- Còn Chúa là Đấng vừa giàu lại vừa rộng lượng hơn mẹ, lẽ
nào ngài lại không ban cho con sao?
Làm sao mà có thể “tranh luận” với một đứa con như vậy chứ?
Mặt khác, Don Bosco có những lý do rất vững: Ngôi nhà
nguyện Pinardi tuy đã được mở rộng nhưng bọn trẻ không thể
nào chịu nổi khi ở trong đó vì nó có tới ba cấp bậc khác nhau.

31.10 Page 310

▲back to top
Hơn nữa, nếu vào đó cần phải bước xuống bốn bậc thang, Don
Bosco viết, mùa đông và những ngày mưa thì chúng tôi bị ngập
nước, trong khi mùa hè thì bị ngộp thở bởi hơi nóng và những
mùi nồng nặc.
Bản vẽ, ngài đã giao cho hiệp sĩ Blanchier, còn nhà thầu là
Federico Bocca.
- Tôi xin báo trước với ông, Don Bosco vừa cười vừa bảo ông
này, là có khi tôi sẽ không có tiền để trả cho ông đâu đấy.
- Nếu vậy chúng tôi sẽ thi công chậm hơn.
- Không! Không được đâu! Ngược lại tôi muốn là chúng ta
phải tiến hành thật nhanh sao cho một năm sau nhà thờ đã phải
hoàn tất.
Federco nhún vai:
- Nếu vậy, chúng tôi sẽ thi công mau lẹ, còn cha cũng sẽ mau
lẹ trong việc chi trả.
“Đào móng rồi, Don Bosco nhớ lại, việc làm phép viên đá đầu
tiên đã diễn ra ngày 20-7-1851. Hiệp sĩ Giuseppe Cotta, một
trong những mạnh thường quân hào phóng nhất của Don
Bosco, đã là người đặt viên đá ấy. Micae Rua là người đọc lời
cảm tạ. Một diễn giả nổi tiếng, cha Barrera đã đọc diễn văn.
Nói chung bao giờ người ta cũng nói ngoa trong những dịp như
vậy, người ta tìm những câu ví von thật hay. Cha Barrera cũng
đưa ra những câu ví von hoa mỹ của mình, nhưng ngài đã
không thành công trong việc nói ngoa. Ngài nói: “Viên đá này
là hạt cải nhỏ. Nó sẽ tăng trưởng như một cây lớn mà rất nhiều
trẻ em đến nương náu dưới bóng của nó”.
Tiền bạc là một bài toán hiểm hóc. Don Bosco đã gõ mọi cánh
cửa quen biết và cả nhiều cánh cửa khác nữa. Ngài đã thành

32 Pages 311-320

▲back to top

32.1 Page 311

▲back to top
công trong việc thu gom được mức tối đa là 35.000 lire, còn
thiếu 3.000 lire nữa.
Đức Giám mục Biella, Đức Cha Losana, phổ biến một lá thư
luân lưu cho tất cả các giáo xứ của địa phận ngài. Ngài nhắc
đến “tất cả những đứa trẻ lớn thợ xây của vùng Biella” đã được
Nguyện Xá giúp đỡ. Ngài đã kêu gọi một cuộc quyên góp đặc
biêt vào Chúa Nhật. Don Bosco hy vọng rất nhiều vào
chuyện này, nhưng kết quả cũng không béo lắm: tiền thu được
là 1000 lire.
Bọn trẻ cũng giúp ngài theo khả năng của chúng. Don
Giovanni Turchi nhớ lại: các vách tường của ngôi thánh đường
mới đã lên tới ngang tầm các cửa sổ bằng kính màu, nhưng tôi
và bạn bè còn bận chuyền gạch cho nhau trên các dàn giáo.
Để góp nhặt đủ số 3000 lire còn thiếu ấy, lần đầu tiên Don
Bosco đã phải liều mình lao vào một cuộc xổ số quan trọng.
Ngài nhớ lại: “Chúng tôi đã nhận được 3.300 món quà. Đức
Thánh Cha, nhà Vua, Hoàng thái hậu đã nổi bật bởi các tặng
phẩm của họ”. Các lô trúng được trưng bày công khai trong
một căn phòng rộng lớn phía sau nhà thờ thánh Đaminh. Danh
mục các giải trúng được minh họa bởi một tấm giấy bìa xếp lại
thành tập dầy cộm.
Việc bán vé số gây nhiều tủi nhục cho Don Bosco. Nhưng số
tiền thu được quả là rất lớn: 26.000 lire chẵn chòi. Kể từ cuộc
thử nghiệm này, mỗi lần lâm cảnh khó khăn, Don Bosco sẽ lại
nghĩ đến một cuộc xổ số. Trong những lá thư cuối cùng của đời
mình, được biết bằng một bàn tay bắt đầu run rẩy, ngài sẽ còn
dặn dò “xin nhận một xấp vé số cho cuộc sổ số của tôi”.
Thánh đường đã được cung hiến ngày 20-6-1862. Hiện nay nó
vẫn còn đó, ở cuối tòa nhà Pinardi, có hơn bị lép vế trước vẻ đồ
sộ của Vương cung Thánh Đường Đức Mẹ Phù hộ, trải dài tới
chỉ còn cánh cửa trước của nó khoảng ba mét. Đây là “Tiểu bộ

32.2 Page 312

▲back to top
phận” Salêdiêng bên trong những vách tường ấy, mười sáu
năm trời ròng rã (từ tháng 6/1852) trái tim của cơ quan của
Don Bosco đã đập đều đặn…
Vị thánh rất trẻ Đaminh Saviô đã từng đến đây để cầu nguyện.
Trước bàn thờ Đức Mẹ, nằm bên phải bàn thờ chính, cậu đã tận
hiến cho Đức Mẹ. Trong thánh đường ấy đã từng phục vụ nào
Micae Magone, cậu bé xứ Caramagnola, nào Phanxicô
Besucco, cậu bé của xứ Achentina, kẻ đã tái diễn, năm 1863,
lòng nhân ái anh hùng của Đaminh Saviô.
Don Micae Rua đã làm lễ mở tay của ngài tại đây. Suốt bốn
năm liền, mỗi ngày nhiều lần, mẹ Margarita, ngày càng già hơn
mệt mỏi hơn, đã thường xuyên ra vào ngôi Thánh đường
này. Bà đã tìm được ở đây sự can đảm để tái diễn mỗi ngày
việc phục vụ bọn trẻ đáng thương.
Ma quỉ, có lẽ thế
“Cùng với ngôi Thánh đường mới, Don Bosco ghi chú, chúng
tôi đã có thể tạo điều kiện cho những đứa nhỏ nhất, nếu chúng
muốn tham gia các nghi thức phụng vụ và cả các lớp tối và lớp
ngày (nhà nguyện Pinardi, cả nhà thờ mới lẫn phòng áo mới
đều đã được dùng làm các phòng học suốt cả ban ngày). Nhưng
làm sao mà giải quyết được cho vô vàn vô số trẻ em nghèo
khác không ngừng kéo đến để xin nương náu?”. Ngài thản
nhiên kết luận: “Vào thời điểm có yêu cầu bức xúc ấy, quyết
định đã được đưa ra là phải xây thêm một chái mới cho tòa
nhà”.
Mùa thu đã tới sớm, nhưng người ta đã khẩn trương tiến hành
công việc; rất nhanh, người ta đã làm tới mái nhà nhưng nhằm
đúng lúc ấy thì bắt đầu thời tiết xấu: “Đó là cả một trận lũ lụt
kéo dài suốt nhiều ngày và nhiều đêm, nước tuôn chảy cuốn
theo xi măng mới tô và còn chưa kịp khô, chỉ để lại những viên
gạch và những cục đá được rửa sạch sẽ. Vào khoảng nửa đêm

32.3 Page 313

▲back to top
ngày 2 tháng 12, Don Bosco vẫn đang viết, người ta chợt nghe
một chuỗi những tiếng răng rắc dữ dội cùng lúc càng mạnh hơn
và càng khủng khiếp hơn. Đó là cái vách tường đang đổ ập
xuống”.
Với bọn trẻ khiếp hãi, Don Bosco bảo:
“Đây là một trò đùa của ma quỉ. Nhưng với sự độ trì của Chúa
và Đức Mẹ, chúng ta sẽ xây dựng lại tất cả”.
Ma quỉ đã làm phần việc của nó, nhưng cha quản lý Girandi
sau khi khảo khát những gì còn sót lại của các vách tường, lại
khẳng định rằng chúng được nhét đầy những đá vụn và cát lấy
từ sông về. Thành phần vôi bị thiếu hụt. Don Bosco đã muốn
tiết kiệm chi phí, và nhà thầu cũng muốn kiếm chác thêm đôi
chút…
Thiệt hại của Don Bosco lên tới 10.000 lires. Công việc đã có
thể tiếp tục vào mùa xuân và tòa nhà đã hoàn tất vào tháng 10-
1853. “Vì chúng tôi đang hết sức cần có nhà, Don Bosco viết,
nên chúng tôi đã vội vã chiếm đóng nó. Các lớp học, phòng ăn
và phòng ngủ tập thể đã có thể được tổ chức và ổn định nơi
chốn và số các nội trú sinh đã lên tới 65 em”.

32.4 Page 314

▲back to top
Chương 29
VÀ CHÚA ĐÃ GỬI ĐẾN MỘT CON CHÓ
Ngày 17 tháng 2 và ngày 19 tháng 3 năm 1848, Carlo Alberto
đã nhượng bộ “tính đồng đẳng về các dân quyền” cho những
người thệ phản và những người Do Thái, xưa nay vốn chỉ là
những kẻ được dung dưỡng.
Những người Công giáo cứ ngỡ rằng những người thệ phản,
nhờ đã đạt được các quyền lợi tương đương, sẽ ở yên không
còn quậy phá nữa. Ngược lại, người ta đã không khỏi lo ngại
khi nhận thấy là giáo phái Vaudois đang sắp sửa tung ra cả một
chiến dịch dụ người theo giáo của họ.
Họ cho in ấn ba tờ báo ngày: Tin mừng, Ánh sáng Phúc âm, Kẻ
huênh hoang người xứ Piemonte. Họ xuất bản và bán với giá rẻ
mạt những cuốn sách tuyên truyền và tổ chức các chu kỳ hội
nghị.
Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên với thuyết “nền văn hóa đa
nguyên”. Dân Công giáo Piemonte công phẫn nhưng chẳng
biết phải làm gì nữa. “Họ tin tưởng vào các luật dân sự cho tới
nay vẫn che chở và bảo vệ họ - như Don Bosco viết – nên cho
tới bây giờ họ chỉ có vài tờ báo hằng ngày, vài công trình văn
học. Họ không có một tờ báo hay tạp chí ra định kỳ nào, cũng
chẳng có sách đặt vào tay những người bình dân, đơn sơ”.
Các Đức Giám mục ở Piemonte nhóm họp năm 1849 tại
Villanovetta (Thành phố Cuneo). “Công phẫn chẳng ích gì, các
ngài kết luận. Cần phải chống trả bằng cách lăn xả vào ngành
báo chí và vào việc rao giảng”.
Những thành quả cụ thể của các phiên họp đã là việc phát hàng
bộ sưu tập các sách tốt (tháng 9-1849), tờ báo ngày Quả
chuông (tháng 3-1850) và cuốn tạp chí Công giáo (tháng 3-
1853).

32.5 Page 315

▲back to top
Riêng các ấn phẩm sau này (một bộ gồm những cuốn sách nhỏ
rất sinh động) đã được Don Bosco nghĩ ra và được hỗ trợ đặc
biệt bởi Đức Giám mục giáo phận Ivréa.

32.6 Page 316

▲back to top
Chương trình của nó cắt nghĩa ý hương của nhà xuất bản:
1. Các sách sẽ viết đơn giản, dáng dấp bình dân, và chứa
đựng các tài liệu thuần túy liên quan đến đạo Công
giáo.
2. Hằng tháng sẽ xuất bản một tập tạp chí từ 100 đến 108
trang, với giá cả năm là 1,80 lires.
Đối Thoại Giữa Những Kẻ Điếc
Sáu số đầu tiên đã được biên soạn bởi chính Don Bosco.
Những số ấy ra trong khoảng thời gian từ tháng 3 đến tháng 8
năm 1853 dưới tựa đề chung là: người Công giáo học hỏi về
tôn giáo của mình.
Don Bosco mỉm cười khi nhớ lại là mình đã cố tìm một vị
Giám mục chịu cho ngài “sự tán đồng của giáo quyền” đối với
sáu cuốn sách nhỏ đầu tiên ấy. Vị tổng phụ tá ở Torino đã trả
lời ngài: “Tôi không muốn đặt chữ ký của mình ở cuối tờ giấy
ấy. Cha đang thách thức và đang tấn công trực diện các kẻ thù
của mình”. Don Bosco đã viết với sự cứng rắn của một kẻ xông
ra mặt trận. Ngài không có mảy may ý niệm thế nào là sự “đối
thoại”. Bút pháp của ngài là bút pháp của một “bức tường đang
nói với một bức tường”. Cần phải cứu các thanh thiếu niên và
mọi người cho Giáo hội, cho Chúa, cho cuộc sống đầu đời và
để được như vậy, cần phải đấu tranh, cần đánh nhau.
Các số Tạp chí Công giáo đã được đón tiếp với rất nhiều mãn
nguyện bởi một khối lượng phi thường các độc giả. “Nhưng
đây đã là điểm xuất phát cho những bùng nổ dữ dội của bọn thệ
phản”.
Các Mục sư Bert, Meille và Pugno thuộc Giáo hội Tin lành, đã
kéo nhau xuống khu phố Valdocco. Họ cố tìm cách thuyết phục
Don Bosco ngưng phát hành các cuốn Tạp chí Công giáo hoặc

32.7 Page 317

▲back to top
ít là viết lách với giọng ôn hòa hơn. Họ đã chẳng thành đạt
được gì cả.
“Một tối Chúa nhật trong tháng 1, tôi được báo là có hai ông
đến thăm. Họ bước vào và lên tiếng chúc mừng tôi:
- Thưa cha, cha được Chúa ban cho một phẩm chất tuyệt vời:
đó là khả năng khiến quần chúng hiểu được cha và khoái đọc
các bài báo của cha. Lẽ ra cha nên chuyên về các bộ môn lịch
sử, địa lý hoặc vật lý. Ngược lại, cha nên dẹp quách đi những
cuốn Tạp chí Công giáo, đó là những chủ đề đã được nhai đi
nhai lại cả trăm lần rồi.
- Đúng vậy, những chủ đề ấy đã được luận giải trong các tác
phẩm văn hóa, nhưng không một ai đã đặt nó ngay tầm hiểu
biết của quần chúng.
- Chúng tôi sẵn sàng yểm trợ cha về tài chính nếu cha bắt tay
vào một tác phẩm lịch sử (họ chìa ra cho tôi bốn tờ một ngàn
lires) và ngưng ngay việc làm vô bổ ấy.
- Nếu đó là một việc làm vô bổ, thì cần gì phải chi tiền để bắt
tôi gạt bỏ nó đi? Quí vị thấy chứ, khi trở thành linh mục, tôi đã
hiến mình cho lợi ích của Hội thánh và của dân nghèo, và tôi
đã kiên quyết tiếp tục, kể cả bằng cách viết và in những cuốn
Tạp chí Công giáo.
Cung giọng liền đổi khác. Tiếng họ trở nên đầy đe dọa:
- Cha bậy rồi đó. Nếu cha ra khỏi đây, liệu cha có dám chắc là
mình còn trở lại được không?
Tôi đứng lên, mở cửa văn phòng:
- Buzzetti, hãy dẫn mấy ông này ra tận cổng đi.
Rượu Và Hạt Dẻ

32.8 Page 318

▲back to top
Khi bước ra, hai “ông” ấy đã nói nhỏ: “Ta sẽ còn gặp lại nhau”.
Don Bosco trong

32.9 Page 319

▲back to top
Chương chót của Bộ hồi sử, đã giải thích “họ đã tìm cách cho
ngài gặp lại” ra sao, và bình luận “hình như đã có một âm mưu
nhằm chống lại tôi”. Chúng tôi xin dẫn bài tường thuật của
chính ngài, bằng cách tóm lược những gì mà chúng tôi cho là
cần.
“Một tối nọ, đang khi tôi đứng lớp, hai người đàn ông đã kiếm
tôi vì một ca khẩn cấp: tại quán trọ Quả tim vàng (số 3, 4
đường Cottlengo) có một người đang hấp hối. Tôi đã lên
đường, nhưng tôi muốn được hộ tống bởi mấy đứa lớn trong số
những đứa lớn nhất, bất chấp mọi nỗ lực của chúng nhằm ngăn
cản tôi đi tới đó.
Đến “Quả tim vang”, người ta dẫn tôi vào một gian phòng ở
tầng trệt trong đó có mấy tên yêu đời đang ăn hạt dẻ với nhau.
Họ muốn tôi cùng ăn, tôi đã từ chối.
“Chắc cha không từ chối uống một ly rượu của chúng tôi. Một
ngụm nhỏ thì đâu có hại gì cho cha”.
Họ rót rượu cho mọi người, nhưng khi đến ly của tôi, một tên
trong bọn họ đã hớ hênh đi kiếm một chai khác. Tôi cầm lấy ly
và nói: “Chúc sứ khỏe quý vị”, rồi tôi đặt ly trở lại trên bàn.
- Cha đừng làm như vậy chứ, chơi không đẹp tí nào cả.
- Đó là một sự sỉ nhục đối với chúng tôi.
- Nhưng tôi không có hứng uống rượu.
Thế là bọn chúng liền giở giọng hù dọa:
- Chẳng làm được gì đâu, phải uống thôi.
Một tên kẹp chặt vai bên trái của tôi, tên khác khoác vai bên
phải: “Ông phải uống, dù muốn hay không cũng vậy”.

32.10 Page 320

▲back to top
- Nếu mấy người nhất thiết đòi tôi phải uống thì ít nhất phải để
tôi được thoải mái hai tay chứ, vừa nói tôi vừa vùng ra khỏi tay
họ. Và vì tôi không muốn uống ly rượu này, nên tôi sẽ cho một
đứa trong bọn trẻ của tôi uống thay tôi.
Khi nói những lời ấy, tôi đồng thời bước một bước dài ra phía
cửa, mở toang ra và mấy chàng trai lao vào.
Vừa thấy bóng mấy thanh niên to con ấy, bọn chúng liền đổi
giọng ngay. Chúng xin lỗi và bảo rằng người bệnh sẽ xưng tội
vào ngày mai. “Một người thân quen đã mở cuộc điều tra và đã
báo lại với tôi rằng có người đã đãi chúng một bữa ăn tối với
điều kiện là chúng phải ép tôi uống bằng được ly rượu mà kẻ
ấy đã pha chế riêng cho tôi”.
Họ Vồn Vã Chào Đón Tôi
“Những vụ mưu sát mà tôi kể lại có vẻ là những chuyện bịa
đặt, tuy vậy những vụ ấy đều có thật và đều đã diễn ra trước sự
có mặt của đông đảo nhân chứng.
Một tối Chúa nhật trong tháng 9, tôi đã được mời khẩn cấp tại
nhà Sardi, kế bên Trú khu; để giải tội cho một bệnh nhân đang
nguy cơ lìa đời. Tôi đã kêu mấy đứa lớn đi theo. Tôi đã bắt
đầu cảnh giác với hết mọi người. Mấy đứa đứng lại dưới chân
cầu thang; Giuse Buzzetti và Hyacinthe Arnaud cùng tôi leo
lên gác, gần cửa phòng người bệnh.
Tôi bước vào và thấy một phụ nữ thở hổn hển như thể mụ sắp
tắt thở đến nơi rồi. Tôi xin bốn người đàn ông có mặt xích ra xa
để tôi giải tội cho mụ.
- Trước khi xưng tội, mụ gào lên, tôi muốn rằng thằng ăn cướp
này phải xin lỗi tôi đã.
- Tôi có làm gì bà đâu?
- Câm ngay! Một tên thứ ba vừa la vừa đứng bật dậy.

33 Pages 321-330

▲back to top

33.1 Page 321

▲back to top
Tiếp theo là một vụ ẩu đả dữ dội, và trước khi tôi kịp hiểu
chuyện gì đang xảy ra thì ai đó đã tắt đèn tối thui và một trận
mưa gậy gộc đã ào ào phóng về phía tôi. Tôi chỉ kịp chụp lấy
một cái ghế và đội nó lên đầu trong lúc co giò chạy vội về phía
cửa ra vào. Những cú gậy đáng lý đập bể đầu tôi, đã làm vỡ tan
chiếc ghế. Chỉ có một cú đập nhằm ngón cái trên bàn tay trái
của tôi đã giật mất của tôi móng tay và phân nửa đốt ngón tay.
Tôi đã quay về nhà với mấy thanh niên của mình vây bọc
chung quanh”.
“Hình như, Don Bosco nhận xét, tất cả được sắp đặt nhằm bắt
tôi ngưng nói xấu bọn thệ phản”.
“Con Xám”
“Những trò đùa hiểm ác thường xuyên mà tôi là đối tượng đã
khuyến cáo tôi không nên đến Torino và cũng không nên từ đó
mà quay về một mình (giữa nguyện xá và thành phố hồi ấy
phải băng ngang một khoảng đất đồng không nhà trống ngổn
ngang những bụi rậm và những cây cao).
Một tối nọ, khi tôi đơn phương độc mã quay về nhà trong bóng
tối, không phải là không phập phồng lo sợ trong lòng, tôi đã bị
đi kèm kè kè một bên bởi một con chó bự mà, thoạt nhìn đã
khiến tôi hết hồn. Nhưng nhờ vuốt ve nó như thể tôi là chủ của
nó vậy, hai chúng tôi đã thành bạn thân của nhau và nó đã đi
kèm tôi đến tận nguyện xá. Việc này còn tái diễn nhiều lần nữa.
Tôi có thể nói là “Con xám”[4] đã giúp ích cho tôi rất nhiều.
Sau đây là vài vụ điển hình.
Vào khoảng hạ tuần tháng 1-1854, tôi từ thành phố một mình
trở về nhằm một buổi tối trời mây u ám và mưa rơi tầm tã. Đột
nhiên, tôi nhận ra là có hai người đàn ông đang bước đi không
xa lắm đàng trước tôi. Họ rảo bước hoặc đi chậm lại tùy theo
chính tôi bước nhanh hoặc đi chậm lại. Tôi đã thử quay gót trở
lui, nhưng đã quá muộn. Chỉ nhảy hai cú là họ đã đến sát bên

33.2 Page 322

▲back to top
tôi và, chẳng nói chẳng rằng, chụp ngay một cái áo choàng lên
đầu tôi. Đúng lúc ấy, con Grigio xuất hiện. Vừa sủa vang, nó
vừa vung hai chân trước ngay mặt tên thứ nhất và cắn tên thứ
hai một cú đau điếng, bọn chúng la toáng lên:
- Kêu con chó đi!
- Tôi sẽ kêu nếu mấy người để tôi yên.
- Hãy kêu nó liền đi, chúng nài van.
Con Grigio tiếp tục rú lên như một con sói lên cơn điên. Bọn
chúng bỏ chạy, còn con Grigio bước đi cạnh tôi, đã đi kèm tôi
về tới nhà.
Tất cả những tối nào mà tôi không có người đi kèm, khi tôi đến
bên khu vực rừng cây bị đốn, tôi đều thấy xuất hiện con Grigio.
Bọn trẻ ở nguyện xá vẫn thường thấy nó vào trong sân. Một
hôm, hốt hoảng, hai đứa trẻ đã tính tấn công nó bằng những
cục đá, nhưng Giuse Buzzetti đã kịp thời can thiệp.
“Hãy để nó yên, đó là con chó của Don Bosco đấy”.
Thế là chúng bắt đầu vuốt ve nó và cho nó vào phòng ăn, nơi
tôi đang ăn tối với vài linh mục và thân mẫu của tôi. Ai nấy
đều nhìn nó với vẻ kinh hoàng, tôi bảo:
“Quí vị chớ sợ, đó là con Grigio của tôi đó, hãy để nó lại đây”.
Mà thật vậy, vẽ một vòng tròn quanh bàn ăn, nó lại gần tôi với
vẻ mừng rỡ. Tôi cho nó súp, bánh đồ ăn, nhưng thứ gì nó cũng
chê cả. Nó dựa đầu vào khăn trải bàn như muốn chúc tôi ngủ
ngon rồi để yên cho bọn trẻ dẫn ra cửa. Tôi nhớ lại là, tối hôm
ấy, tôi đã về nhà trễ và một người bạn đã cho tôi “quá giang”
xe của ông ta.
Carlo Tomatis, vẫn thường xuyên lui tới nguyện xá trong
những năm ấy, kể lại: “Đó là một con chó có tầm vóc dị

33.3 Page 323

▲back to top
thường. Nhiều lần mẹ Margarita khi thấy nó đã phải la lên:
“Khiếp! Con vật đồ sộ thấy mà ớn!”. Nó có một cái mõm dài
thòng như mõm chó sói, đôi tai thẳng đứng, lông xám, thân
hình cao cỡ một mét”.
Micae Rua, người đã gặp con Grigio hai lần, làm chứng: một
tối nọ, Don Bosco phải ra khỏi nhà vì những lý do khẩn cấp,
nhưng ngài đã gặp con chó nằm dài ngay trước ngưỡng cửa.
Ngài tìm cách bắt nó xích ra, rồi lại thử bước qua người nó,
nhưng lần nào con Grigio cũng gầm gừ và đẩy lui ngài về phía
sau. Mẹ Margarita, lúc này đã quen biết ý của con vật, liền cất
tiếng bảo con trai mình:
“Nếu con không muốn nghe lời mẹ, ít nhất hãy nghe lời con
chó ấy, đừng đi đâu nữa”.
Hôm sau, Don Bosco được tin là có một kẻ đầy ác ý, võ trang
một khẩu súng lục, tối qua đã đợi ngài ở một góc phố.
Don Bosco đã nhiều lần muốn biết con chó ấy từ đâu mà đến.
Nhưng ngài đã chẳng tìm được gì cả. Mãi đến năm 1872, bà
nam tước Azelires Fassati vẫn còn hỏi ngài xem ngài nghĩ sao
về con chó ấy, Don Bosco đã mỉm cười trong lúc trả lời:
“Nói rằng đó là một thiên thần chắc sẽ khiến người ta tức cười.
Nhưng ta cũng không thể nói rằng đó là một con chó thông
thường”.
Ngủ tại tiệm giầy
Ban ngày, Don Bosco làm việc vì bọn trẻ, ngược xuôi khắp
nơi để kiếm tiền, giải tội và giảng thuyết tại nhiều học viện
trong thành phố. Đêm đến, ngài rút bớt nhiều giờ của giấc ngủ
để vá quần áo và vớ, để viết sách. Cơn buồn ngủ cứ chồng chất
mãi và giấc ngủ bất thần ập đến với ngài.

33.4 Page 324

▲back to top
Sau bữa ăn trưa, Don Cagliero nhớ lại, đôi khi ngài đột nhiên
thiếp đi, ngủ ngồi trên ghế, đầu cúi gập xuống ngực. Những kẻ
có mặt ở đó đều nhón gót nhẹ nhàng rút lui để khỏi làm ngài
tỉnh giấc.
Đối với ngài, thời điểm ấy là giờ cực nhất trong ngày. Lúc ấy,
ngài ra khỏi nhà, đi mua sắm ngoài phố, ghé thăm các nhà hảo
tâm để xin họ giúp đỡ. “Tôi vẫn tỉnh táo lúc chân bước đi”,
ngài vừa mỉm cười vừa nói. Nhưng không phải lúc nào ngài
cũng cưỡng lại được cơn buồn ngủ.
Một buổi trưa, ngài đang đứng ở Quảng Trường trước nhà thờ
Đức Bà An ủi thì bị khống chế bởi một cơn buồn ngủ mạnh tới
mức ngài không còn biết mình đang ở đâu hoặc đang cần đi
đâu nữa. Ngay gần đó có một tiệm giầy, Don Bosco liền đi vào
và xin người thợ giầy cho mình ngủ ngồi trên ghế ít phút.
“Xin mời cha, mời cha vào. Con lấy làm buồn, nhưng con sẽ
gây phiền hà cho cha vì những cú búa đập rầm rầm của con.
- Không, anh chẳng làm phiền tôi chút nào đâu.
Ngài ngồi xuống bên chiếc bàn thợ mộc và ngủ li bì từ 14 giờ
30 đến 17 giờ chiều. Khi tỉnh giấc, ngài đưa mắt ngơ ngác nhìn
quanh mình rồi nhìn đồng hồ.
- Ôi, rõ khổ cái thân tôi! Sao anh không đánh thức tôi dậy?
- Cha ơi, người đàn ông tốt bụng trả lời, cha ngủ ngon lành tới
nỗi sẽ là một trọng tội nếu đánh thức cha dậy. Ôi, sao mà con
muốn được ngủ như vậy quá đi!

33.5 Page 325

▲back to top

33.6 Page 326

▲back to top
Chương 30
NỬA TÁ XƯỞNG THỢ
Trong công hàm của Tu hội Salêdiêng còn lưu giữ hai tài liệu
hiến hoi: một giao kèo “về học nghề” viết trên giấy thường vào
tháng Mười Một 1851; giao kèo thứ hai, cũng “về học nghề”,
viết trên giấy có dán tem thuế 40 xu, viết ngày 8-2-1852. Cả
hai đều có chữ ký của chủ xưởng, người học nghề và Don
Bosco.
Sau đây là phần cốt yếu của giao kèo thứ nhất:
“Với văn bản riêng tư này làm tại nhà Nguyện Xá Thánh
Phanxicô Salê, các bên đồng thỏa thuận:
1. Ông Carlo Aimibno nhận em Giuse Bordone sinh tại
Biella học nghề thợ lắp kính, hứa và cam kết dạy em
trong vòng ba năm, và trao ban cho em trong ba năm
học nghề những chỉ dẫn cần thiết và những qui luật tốt
nhất liên quan đến nghề của em cùng với những lời
khuyên bảo thích hợp liên quan đến hạnh kiểm tốt, qua
việc sửa bảo khi em có thiếu sót nào, bằng lời nói chứ
không phải bằng những biện pháp khác; cũng cam kết
chỉ để em làm những công việc liên quan đến nghề này
của em, chứ không làm những công việc khác, với sự lo
liệu không để cho các công việc ấy vượt quá sức lực
của em.
2. Thầy dạy nghề cũng có bổn phận cho em học nghề
được tự do trong tất cả các ngày lễ trong năm.
3. Thầy dạy nghề cũng cam kết trả cho em học nghề hằng
ngày là một đồng lire trong năm một, một ngày là 1 lire
50 xu trong năm hai, một ngày là 2 lire trong năm ba;
và cho em được hưởng kỳ nghỉ 15 ngày mỗi năm.
4. ................

33.7 Page 327

▲back to top
5. Cậu Giuse Bordone hứa trong suốt thời gian học nghề
làm việc cho ông chủ với sự mau mắn, bền bỉ và chú
tâm; dễ dạy, kính trọng và vâng lời.
6. ................
7. Vị giám đốc của Nguyện Xá hứa sẽ trông coi để đưa
hạnh kiểm của cậu học nghề đạt được kết quả tốt nhất”.
Một ngón tay trên nhiều ung nhọt
Trong văn bản giao kèo này, Don Bosco đã đặt một ngón tay
lên nhiều ung nhọt. Một số các ông chủ đã sử dụng các thanh
thiếu niên học nghề của họ như những người tôi tớ và người
rửa bát đĩa. Don Bosco buộc họ phải sử dụng các em học nghề
duy nhất trong công việc của nghề nghiệp của chúng mà thôi.
Các ông chủ đánh đập chúng, và Don Bosco đòi hỏi việc sửa
dạy phải được làm qua lời chỉ dạy mà thôi. Cha chăm lo cho
sức khỏe, việc nghỉ lễ và các ngày nghỉ hằng năm. Cha đòi hỏi
một mức lương có tăng lên từ từ, bởi vì năm học nghề thứ ba,
người học nghề trên thực tế đã là một người thợ rồi.
Trong văn khế giao kèo thứ hai, bên cạnh tem thuế còn có mộc
hoàng gia, với các tiêu đề: “Giao kèo giữa ông Giuse Bertolino,
thầy dạy nghề mộc cư trú tại Torino, và cậu thiếu niên Giuse
Odasso sinh tại Mondo vì, qua sự can thiệp của linh mục Gioan
Bosco, và với sự giám sát và bảo vệ của cha cậu bé là ông
Vincentê Odasso, quê quán Garesso, có nhà ở tại Torino”.
Bản văn hầu như là một bản sao in các-bon của bản giao kèo
thứ nhất. Chỉ có một chi tiết đáng kể. Don Bosco buộc ông chủ
dạy nghề phải cam kết hành xử không phải như “ông chủ” mà
như là”người cha”. Chúng ta đọc thấy trong khoản 1:
“Ông Bertolino Giuse, thầy dạy nghề mộc... cam kết dành cho
cậu Giuse Odasso trong khóa học nghề của cậu... những lời
khuyên có ích lợi mà một người cha tốt lành ban cho người con

33.8 Page 328

▲back to top
của chính mình liên quan tới hạnh kiểm luân lý; sửa bảo em với
tình yêu thương trong trường hợp có thiếu sót nào, tuy nhiên
luôn luôn chỉ thuần là những lời cảnh cáo chứ không bao giờ
với các hành vi tàn tệ”.
Don Bosco là người phát minh ra các giao kèo học nghề. Công
cuộc Giáo dục giới ăn xin (được thiết lập năm 1774) đã qui
định các giao kèo này từ bấy lâu. Nhưng hai bản giao kèo có
chữ ký của Don Bosco này là hai bản cổ nhất được lưu giữ tại
Torino. Có lẽ chúng ta được phép nghĩ rằng (trừ phi có những
tài liệu khác làm chứng khác đi) ngoài Công cuộc giáo dục giới
ăn xin và các nỗ lực của Don Bosco, ta hầu như thấy không có
ai khác đã đứng ra bảo vệ các người trẻ học nghề vào thời đó.
Chúng ta không thể nghĩ rằng các cha mẹ trẻ em học nghề đã
đứng ra, vì họ nghèo và dốt nát. Chúng ta cũng không thể nghĩ
là chính quyền dân sự thời đó đã đứng ra, vì thứ chủ thuyết tự
do của họ: họ sẽ để mặc cho các trẻ học nghề bị bóc lột theo
luật của “sự cạnh tranh tự do”.
Đơn độc, không được bảo vệ, trong tay ông chủ
Buổi đầu, nhà Nguyện xá (mà Don Bosco gọi là “nhà đón
người cơ nhỡ”, nay chúng ta gọi chính xác hơn là Trường Nội
Trú”) đón tiếp cách riêng các lao động trẻ. Sau thằng bé đến từ
Val Sesia, tạt vào gian bếp của mẹ Margarita nhưng một ngày
mưa tầm tã, sau Buzzetti và Gastini, mỗi năm đều có hàng chục
đứa khác nữa. Có những đứa ở lại đó ba năm, đứa khác hai
tháng, lại có những đứa suốt đời luôn. Chỉ mãi đến năm 1856,
các học sinh mới chiếm đa số trong các nội trú sinh.
Sự ưu tiên dành cho các lao động trẻ đã được thúc đẩy bởi điều
kiện cơ cực của họ. Các sắc lệnh của nhà vua năm 1844 nhằm
bãi bỏ các nghiệp đoàn, đã bỏ rơi các thợ thuyền, cách riêng là
những thợ trẻ, đơn độc và vô phương tự vệ trong tay người

33.9 Page 329

▲back to top
chủ. Carlo Alberto đã ngậm đắng nuốt cay việc thành lập các
“hội cứu tế”, điều mà chính phe tự do cũng chống đối luôn.
Don Bosco giao phó bọn trẻ của ngài cho các ông chủ, bảo vệ
chúng bằng những hợp đồng đôi bên cùng có lợi, đến gặp
chúng hàng tuần như là “người chịu tránh nhiệm đối với gia
đình”. Nếu người chủ không tôn trọng các thỏa hiệp, ngài sẽ rút
lại người thợ tập nghề.
Năm 1853, khi tòa nhà mới đã xây dựng xong, ngài liền quyết
định mở ngay tại nhà của mình những xưởng thợ đầu tiên.
Hai bàn thợ mộc đã bắt đầu
Mùa thu năm 1853, Don Bosco mở xưởng đóng giày và xưởng
may. Xưởng đóng giày được đặt trong một gian hết sức nhỏ
hẹp hồi ấy được dùng làm phòng áo mini của nhà nguyện
Pinardi, kế bên tháp chuông, hai bàn thợ mộc và bốn cái ghế
đẩu. Don Bosco là huấn luyện viên đầu tiên: ngài ngồi trước
bàn thợ mộc, lấy búa gõ từng cú một lên một đế giày đặt trước
mặt bốn đứa trẻ. Sau đó, ngài dạy chúng sử dụng dùi và cái
vuốt ngựa. Mấy ngày sau, ngài nhường chức huấn luyện viên
ấy cho ông Đa Minh Goffi, lao động bảo vệ của nguyện xá.
Bọn thợ nay được “cắm dùi” trong gian bếp, trong khi nồi
xoong và các bếp lò thì được chuyển qua nhà mới. Các thầy
dạy cắt may đầu tiên là mẹ Margarita và lại vẫn là Don Bosco,
dạy chúng may vá cắt y hệt như ngài đã được học ở bác Gioan
Roberto, ở Castelnuovo hồi nào.
Trong mấy tháng đầu năm 1854, gần như để giỡn chơi, ngài
mở xưởng thợ thứ ba: xưởng đóng sách. Không một đứa nào
trong bọn trẻ biết làm nghề này.
Một hôm, vây quanh mình là vài thiếu niên, ngài trải lên bàn
những tờ giấy đã in sẵn dành cho cuốn sách mới nhất của ngài.

33.10 Page 330

▲back to top
Các Thiên thần Bản mệnh. Rồi ngài đưa tay chỉ một đứa trong
bọn.
“Con sẽ làm thợ đóng sách!
- Con hả! Nhưng con thậm chí còn chưa hiểu đóng sách là gì
nữa.
- Dễ ợt, lại đây nào. Con thấy chứ? Mấy tờ giấy khổ lớn này
được gọi là “chữ ký”. Phải gấp chúng làm hai, rồi lại làm hai
và thêm một lần làm hai nữa. Rồi đó! Hãy làm thử xem sao!”
Với sự tiếp tay của những đứa khác đang vây quanh bàn, mọi
tờ giấy đã được xếp xong xuôi. Don Bosco đặt các chữ ký
chồng lên nhau.
“Thế đó, vậy là cuốn sách đã làm xong. Bây giờ, phải khâu cho
nó dính lại”.
Họ kêu mẹ Margarita đến “cứu bồ” và với một cây kim lớn và
vài mũi chích vào ngón tay, họ đã thành công, keo để gián bìa
là một ít bột trắng quậy với nước.
Còn phải làm một công đoạn nữa: cắt xén cho thành hình cuốn
sách. Làm thế nào đây? Xúm quanh bàn, bọn trẻ thi nhau đưa
ra những ý kiến khác nhau: dùng kéo, một con dao, một bàn
chà. Don Bosco xuống bếp và lấy con dao phay bằng thép
thường dùng để xắt nhỏ hành khô và ngò. Bằng vài cú chắc
nịch, ngài cắt bỏ từng xấp giấy. Bọn trẻ cười thích thú, Don
Bosco cũng vậy; nhưng xưởng thợ đã được “khai trương” và tổ
chức trong một phòng tòa nhà mới.
Một năm để có xưởng in
Khoảng cuối năm 1856, xưởng thợ thứ tư đã được khai trương:
xưởng một.

34 Pages 331-340

▲back to top

34.1 Page 331

▲back to top
Sự việc lập tức trở thành một việc nghiêm túc. Một nhóm khá
đông thiếu niên đã rút khỏi cơ xưởng trong thành phố và đã đến
“cắm dùi” trong một căn phòng lớn có thiết đặt các bàn thợ
mộc, các đồ nghề, kho dự trữ gỗ. Ông Corio là công trình sư
đầu tiên.
Xưởng thợ thứ năm, được mong đợi nhiều nhất, chính là xưởng
in. Don Bosco đã phải tranh đấu gần trọn một năm mới nhận
được giấy phép của Quận, cấp ngày 31-12-1861.
Buổi đầu thật khiêm tốn, hai cái máy rập mà bọn trẻ làm cho
xoay bằng sức mạnh của các cổ tay. Nhưng, vào thuở sinh tiền
của Don Bosco, nhà in ấy đã biến thành nhà in vừa quan trọng
vừa hiện đại, cạnh tranh với những nhà in xịn nhất trong toàn
thành: bốn máy rập, mười hai máy in chạy bằng mô-tơ, máy
đúc để làm bản kẽm, lò đúc chữ, đúc bản in khắc.
Năm 1862, Don Bosco mở xưởng thứ sáu và cũng là xưởng thợ
cuối cùng của ngài, lò rèn, tiền thân của các xưởng cơ khí hiện
nay.
Bốn cách thức để tìm ra cách thức tối ưu
Để các xưởng thợ của mình hoạt động được, Don Bosco đã
đụng phải nhiều khó khăn và đã phải thử nghiệm liên miên
nhiều công thức khác nhau.
Thoạt tiên, ngài sử dụng các thầy dạy nghề với lương bình
thường. Kết quả, họ lo làm việc chứ không lo cho sự tiến bộ
của các học sinh cũng như cho sự hoạt động tốt của xưởng.
Công thức thứ hai, các thầy dạy nghề phải chịu trách nhiệm
hoàn toàn, kể cả việc tìm ra các đơn đặt hàng như thể họ là
những ông chủ vậy. Kết quả, bọn trẻ bị đối xử không khác gì
những lao công bị đặt dưới quyền ông giám đốc.

34.2 Page 332

▲back to top
Thí nghiệm thứ ba, Don Bosco chịu trách nhiệm hoàn toàn, cả
về mặt đạo đức lẫn hành chánh, đối với các xưởng thợ, chỉ để
lại cho các thầy dạy nghề việc đào tạo tay nghề cho các thợ tập
sự. Lại thêm một kết quả tiêu cực nữa: sợ bị qua mặt bởi những
học sinh xuất sắc nhất, các huấn luyện viên giảng dạy rất ít, bỏ
mặc cho học sinh làm biếng.
Công thức tối ưu, Don Bosco đã tìm ra khi ngài đào tạo thành
công các trưởng xưởng hoàn toàn gắn bó với ngài: các sư
huynh Salêdiêng, cũng là những tu sĩ như các thầy tư giáo
các linh mục, nhưng chuyên lo cho các trường dạy nghề.
“Ai không hoàn toàn nghèo thì không có chỗ trong Nhà này”
Trường nội trú Nguyện Xá không phải là “xưởng đào tạo các
người thợ”, mà là một nhà thực hiện một nền giáo dục đích
thực. Bởi lý do đó, trong năm học 1854-1855, Don Bosco khai
mào “cuốn nội qui thứ nhất” trình bày dung mạo của Công
cuộc dành cho các thợ học nghề trẻ (trong phần Phụ lục có bàn
đến các nội qui lệ liên quan đến các học sinh trẻ học văn hóa).
Người thợ trẻ được nhận vào đây phải ở lứa tuổi từ 12 đến 18
tuổi, “mồ côi cha hay mẹ và hoàn toàn nghèo và bị bỏ rơi. Nếu
có các anh hay các cậu có khả năng đảm nhận việc giáo dục,
thì em đó không nằm trong mục tiêu của Nhà”.
Bản nội qui giới thiệu cho các bạn trẻ “những người mà mỗi
bạn trẻ phải phục tùng, và các em phải coi họ như những bề
trên của Nhà”. Các vị đó là Cha Giám đốc (trách nhiệm về bổn
phận của mỗi một người và về luân lý của các học sinh trong
trường), cha Tổng Quản hay Quản lý, Cha Giám linh hay linh
hướng (có nhiệm vụ đáp ứng các nhu cầu thiêng liêng của các
em), hộ trực (phân phát bánh, coi sóc phòng ăn, các xưởng thợ,
các nhà ngủ).

34.3 Page 333

▲back to top
Nội qui khích lệ các nhân đức chính là lòng sùng kính đối với
Thiên Chúa, làm việc, vâng phục các bề trên, yêu thương các
bạn hữu, nết na. Nội qui ra luật về hạnh kiểm tại nhà và ngoài
nhà. Nó nêu lên “ba cái xấu hết sức phải xa lánh”: là nói phạm
thượng, gian lận và ăn cắp.
Thời khóa biểu tiên liệu việc thức dậy vào ban sáng, thánh lễ
với kinh nguyện và lần hạt mân côi, bữa ăn sáng và công
việc. Tất cả phải có mặt trong bữa ăn trưa và trong giờ chơi
lớn vào buổi sau trưa. Rồi các học sinh học nghề lại tái làm
việc trở lại. Vào buổi chiều các học sinh được tiên liệu phải
làm bài. Ngày học kết thúc với kinh chiều và những lời huấn tứ
tối của Don Bosco dành cho cả gia đình trường nội trú Nguyện
Xá. Các học sinh cũng được khích lệ tham dự hằng tháng một
cuộc tĩnh tâm ngắn (gọi là buổi Dọn Mình Chết Lành), và mỗi
năm một khóa tĩnh tâm.
Về lãnh vực tôn giáo, Don Bosco luôn luôn ít đòi hỏi đối với
các học sinh học nghề so với các học sinh học văn hóa. Nhưng
khi thấy trong số các em học nghề có những dấu hiệu của đời
sống thiêng liêng đáng kể, ngài đã ủng hộ việc thành lập “Hội
các bạn kính Thánh Giuse”: tức là một nhóm tập trung các bạn
tốt hơn cả và thôi thúc các bạn này đào sâu đời sống Kitô hữu
và tông đồ.
Don Bosco với ban kèn và Học sinh trong xưởng thợ

34.4 Page 334

▲back to top
Chương 31
NHỮNG HỌC SINH KHOÁC ÁO NHÀ BINH
Ngày 1-11-1851, Don Bosco về thăm quê cha đất tổ, xứ
Castelnuovo d’Asti. Chiều tối, tại nhà thờ, ngài đã đảm nhận
bài giảng trong nghi thức cầu cho những người quá cố. Trong
số các em của ca đoàn. Có một đứa bước theo ngài về tòa giảng
và cứ đứng lỳ ở đó mà nhìn ngài miệng há hốc trong suốt bài
giảng. Và Don Bosco nhận thấy là nó vẫn tiếp tục yên lặng
quan sát ngài khi họ đã quay về phòng áo. Ngài gọi nó:
- Dường như con có điều gì cần nói với cha, phải không?
- Phải chứ, thưa ông. Con muốn đi Torino với cha để học và trở
thành linh mục.
- Tốt. Vậy con hãy bảo mẹ con đến nhà xứ gặp cha sau bữa ăn
tối nay.
Thằng bé tên là Gioan Cagliero, nó đã mồ côi cha. Bà mẹ cùng
đến với Giovanni sau bữa ăn tối.
- Thế ra, bà Têrêxa à, Don Bosco nói đùa, bà tính bán con trai
của bà cho tôi thật sao?
- Dạ, đâu có! Người đàn bà vừa cười vừa đáp. Ở đây những
con bê mới là mặt hàng để bán buôn. Còn bọn con nít, chúng
con chỉ dùng làm quà biếu mà thôi.
- Thế lại còn hay hơn nữa. Bà hãy chuẩn bị cho cháu nó vài bộ
đồ và mai này tôi sẽ đem nó theo với tôi.
Hôm sau, lúc hừng đông Gioan Cagliero đã có mặt tại nhà thờ.
Cậu giúp lễ cho Don Bosco, dùng bữa điểm tâm với ngài, ôm
hôn thân mẫu và gói hành trang kẹp dưới nách, kêu lên với vẻ
nóng lòng:

34.5 Page 335

▲back to top
“Thưa Don Bosco, chúng ta đi chứ?”
“Ngủ trong chiếc thúng đựng mì dòn”
Họ cuốc bộ suốt quãng đường dài. Thật ra, Giovanni đã rảo qua
hai lần lộ trình ấy vì vừa nói chuyện với Don Bosco nó vừa
chạy phía trước, đuổi bắt bướm trên các đồng cỏ, nhảy qua các
kênh mương. Cagliero nhớ lại:
“Don Bosco, suốt dọc lộ trình, đặt ra cho tôi cả ngàn câu hỏi,
còn tôi, tôi đã đáp trả ngài cả ngàn câu. Kể từ giờ phút ấy, với
ngài tôi đã không còn giữ kín bất cứ điều gì nữa. Trong khi
nghe các chuyện tiếu lâm của tôi, ngài đã nửa đùa nửa thật bảo
tôi rằng tôi sẽ phải chuyển biến tốt hơn. Cuối cùng, chúng tôi
đã đến Torino.
Tối mồng 2 tháng 11, chúng tôi đều mệt nhoài. Don Bosco giới
thiệu tôi với mẹ Margarita qua câu nói:
- Mẹ ơi, con dẫn về cho mẹ một thằng bé quê ở Castelnuovo
nè!
Mẹ Margarita đáp:
- Phải rồi, con thì chỉ được cái là lôi bọn con nít ở đâu về, còn
mẹ, mẹ chẳng biết phải nhét chúng vào chỗ nào nữa.
- Thằng này nó nhỏ tới mức chúng ta có thể cho nó ngủ trong
thúng đựng mì dòn. Với một sợi dây, chúng ta sẽ treo nó lên
tuốt trên sàn nhà, như một lồng chim bạch yến vậy.
Mẹ Margarita bật cười và bắt đầu kiếm cho tôi một chỗ. Quả
thật chẳng có một chỗ trống nào cả, và đêm ấy tôi đã phải ngủ
dưới chân giường một người bạn.
Hôm sau, tôi đã để ý thấy cảnh nghèo bao trùm ngôi nhà ấy.
Các phòng ngủ của chúng tôi, dưới tầng trệt, đều chật hẹp, nền
lót đá lượm ngoài đường phố. Trong gian bếp, chỉ có vài cái

34.6 Page 336

▲back to top
đĩa bằng thiếc với một lượng muỗng cũng ngang ngang như
vậy. Nĩa, dao, khăn ăn, phải nhiều năm sau chúng tôi mới được
thấy trên bàn ăn của mình. Don Bosco đích thân dọn cho chúng
tôi ăn, giúp chúng tôi giữ phòng ngủ cho gọn gàng ngăn nắp,
giặt giũ và vá quần áo cho chúng tôi, phục vụ chúng tôi trong
những công tác hèn kém nhất.
Chúng tôi để mọi thứ làm của chung. Chúng tôi cảm thấy đang
ở trong một gia đình hơn là một trường học, dưới sự chỉ đạo
của một người cha rất yêu thương chúng tôi, và chẳng có ưu tư
nào khác hơn là lo mưu ích cho chúng tôi cả về tinh thần lẫn
vật chất.
Gioan Cagliero đã chứng tỏ, ngay từ buổi đầu, một trí thông
minh sắc sảo và một bản lĩnh vui tươi. Cậu ưa thích trò chơi
với một tình cảm lai láng như nước vỡ bờ vậy.
Micae Rua vẫn tiếp tục sống tại nhà thân mẫu, nhưng sáng nào
cũng dẫn đầu nhóm học sinh và, cùng nhau, họ lên đường vào
thành phố, lại nhà giáo sư Bonzanino. Don Bosco đã giao cho
Rua vai trò làm giám thị, với nhiệm vụ ngăn chặn bất kỳ ai cúp
cua. Micae rất ít khi giữ được Cagliero trong vòng kỷ cương.
Vừa ra khỏi nguyện xá, Giovanni liền đổi hướng, phóng như
bay về khu Porta Palazzom Cổng Dinh và dừng lại trước bọn
mãi võ Sơn Đông và các lều bạt của gánh xiếc lưu động. Rồi, a
lê hấp! Vẫn co giò chạy, đến trường! Khi những đứa khác tới
nơi, cậu đã đứng sẵn trước cửa, mồ hôi nhỏ giọt, nhưng hài
lòng thấy rõ. Micae lườm nguýt lên “Đạo binh bất trị”:
- “Sao bạn không đi chung với chúng tôi?
- Tại tớ khoái đi ngõ khác, như vậy thì có gì là bậy chứ?
- Bạn cần phải vâng lời.

34.7 Page 337

▲back to top
- Bộ tôi không vâng lời sao? Tôi phải đến trường, thì tôi đến
rồi đây. Tôi phải đúng giờ, thì tôi có bao giờ đến trễ đâu. Mắc
mớ gì cậu nếu tớ khoái đi coi mấy tên lang băm mãi võ…”.
Gioan Cagliero sau này sẽ thành vị Giám mục Hồng y
Salêdiêng tiên khởi. Bên cạnh Rua, cậu sẽ là một trong những
trụ cột kiên cố nhất của Tu hội Salêdiêng. Nhưng về tính khí
Rua và Cagliero mãi mãi vẫn sẽ rất khác nhau, Micae: cần
mẫn, kiên trì, cân nhắc chín chắn; Gioan: liều lĩnh, đam mê,
hung hãn. Cả hai đều sẵn sàng nhảy vào lửa vì Don Bosco.
“Con sẽ đi qua biển Đỏ và sa mạc”
Ngày 22-9-1852 Micae Rua vào ở luôn tại nguyện xá với tư
cách nội trú sinh, hôm sau cùng với Don Bosco, mẹ Margarita
sáu mươi bốn tuổi, và hai mươi sáu bạn học, cậu cuốc bộ về
xóm Becchi. Don Bosco sẽ giảng tuần chín ngày dọn mừng lễ
n Côi tại Castelnuovo và bọn trẻ sẽ được đón tiếp bởi anh
Giuse của ngài.
Trước giờ xuất phát, Don Bosco gọi Micae đến và bảo:
“Sang năm, cha cần con phụ cha một tay để điều hành nhà của
chúng ta. Ngày 3 tháng 10, là lễ Đức Mẹ Mân Côi. Cha xứ ở
Castelnuovo sẽ đến Becchi và trong ngôi nhà nguyện nhỏ, ngài
sẽ cho con mặc áo chùng thâm của các thầy tư giáo. Khi trở lại
nguyện xá, con sẽ là thầy hộ trực kiêm thầy giáo của bạn mình.
Con đồng ý chứ?
- Đồng ý!”
Tới ngày lễ, trên chiếc xe đưa họ về Torino, Don Rua nhớ lại
là, phá tan sự yên lặng, Don Bosco đã bảo cậu:
“Micae yêu quí của cha, giờ đây con đã bắt đầu một cuộc sống
mới. Nhưng con nên biết rằng trước khi vào được Đất hứa, con
sẽ phải đi qua Biển đỏ và Sa mạc đã. Nếu con giúp cha, thì

34.8 Page 338

▲back to top
chúng ta sẽ đi qua cả hai nơi ấy một cách yên ổn, và chúng ta
sẽ tới Đất hứa”.
Micae ngẫm nghĩ một lát. Cậu không hiểu rõ lắm. Rồi, đến
phiên mình phá tan sự yên lặng, cậu hỏi:
“Cha còn nhớ cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng ta chứ? Cha đã
phân phát những mẫu ảnh đeo nhưng chẳng còn mẫu nào cho
con cả. Lúc ấy cha đã làm một động tác lạ lùng như thể cha
muốn cho con nửa bàn tay của cha vậy. Điều ấy có nghĩa ra
sao?
- Con vẫn chưa hiểu à? Lúc ấy cha muốn nói là hai chúng ta sẽ
ăn đồng chia đủ với nhau mọi sự. Tất cả những gì là của cha
cũng sẽ là của con luôn: những món nợ, những trách nhiệm,
những rắc rối”.
Và Don Bosco mỉm cười.
“Nhưng rồi con sẽ thấy là sẽ có vô số những cái rất tuyệt vời.
Và sau hết mọi sự, cái tuyệt nhất trần đời: Thiên Đàng”.
Bảo hành năm mươi năm
Thứ ba trong tuần Phục Sinh năm 1853. Bầu trời Torino phủ
đầy những đám mây u ám. Gioan Francesia và Micae Rua, bạn
học cùng lớp và là đôi bạn thân sống chết có nhau, đang cùng
nhau ôn tập bài học tiếng Ý. Nhưng Micae tỏ ra lơ đãng, xa
vắng. Hình như một nỗi buồn mênh mang đã phủ chụp xuống
trên cậu. Francesia, sau khi đã hỏi bạn hai lần cùng một câu,
đột ngột gấp sách lại và gào lên:
“Ê kìa! Bữa nay cậu mắc chứng gì vậy?”
Cắn lấy môi để khỏi bật khóc, Micae thì thầm:
“Anh Gioan của tớ chết rồi… Lần sau, sẽ đến phiên tớ…”

34.9 Page 339

▲back to top
Đó là người cuối cùng trong đám anh em còn sống tại nhà. Kể
từ nay, bà mẹ, trong nơi thường trú của mình tại cơ sở sản xuất
vũ khí, sẽ chỉ còn một thân một mình. Don Bosco hay tin và để
giải khuây cho Micae, đã đưa cậu đi với mình rảo qua khắp
kinh thành Torino. Ngài phải giải quyết một vụ việc gần nhà
thờ Gran-Madre Đức Bà Cả, trên bờ sông Pô. Họ rảo bước,
miệng nói về nguyện xá. Những ngày vừa qua, Torino đã mừng
kỷ niệm lần thứ tám, 50 năm “Phép lạ Mình Thánh Chúa” và
Don Bosco đã phát hành một tập sách nhỏ bán đắt như tôm
tươi. Bất chợt, Don Bosco dừng bước và chậm rãi nói:
“Năm mươi năm sau, người ta sẽ mừng kỷ niệm lần thứ chín
50 năm phép lạ cả thể này, nhưng cha sẽ không còn sống tới
đó. Phần con, con sẽ vẫn còn sống. Lúc ấy con hãy nghĩ đến
việc cho in lại cuốn sách nhỏ của cha nhé!”
Micae thử tưởng tượng đến thời gian xa lắc, xa lơ ấy: năm
1903. Cậu gật đầu:
“Cha đi quá xa đấy, Don Bosco ạ, khi tuyên bố là con sẽ còn
sống tới đó. Phần con trái lại, con thật sự sợ rằng thần chết sắp
chơi con một vố đau…
- Chẳng chơi được vố nào cả, dù đau hay là không đau, Don
Bosco cắt ngang. Cha bảo đảm với con là năm mươi năm sau,
con vẫn còn sống nhăn. Hãy cho tái bản cuốn sách nhỏ ấy,
đồng ý chứ?”
(Năm 1903, Don Rua vẫn còn sống nhăn, thật thế, là đấng kế vị
của Don Bosco trên chóp đỉnh của Tu hội Salêdiêng. Năm ấy
ngài bảy mươi tuổi và ngài đã cho in lại cuốn sách nhỏ).
Bọn “con ông cháu cha” và đám học sinh khoác áo nhà binh
Tuy bận chăm lo cho đám thợ thuyền trẻ, Don Bosco vẫn
không quên các học sinh. Mục tiêu của ngài, chúng tôi đã
thông báo nhiều lần, là nhằm chuẩn bị cho mình những cộng sự

34.10 Page 340

▲back to top
viên: các chủng sinh, các linh mục sẽ phụ giúp ngài trong các
công tác của ngài, và còn chuẩn bị cả các ơn kêu gọi làm linh
mục cho các giáo phận, bằng cách tuyển chọn giữa bọn trẻ “lớn
lên giữa cây cuốc và cái búa”, để bù đắp tình trạng thiếu hụt
linh mục.
Nhóm bốn người đầu tiên mà ngài đã chuẩn bị đã khiến ngài
hơi thất vọng, như chúng tôi đã có nói. Nhưng Rua, Cagliero,
Francesia đã hoàn toàn đáp ứng lại các kỳ vọng của ngài. Bên
cạnh họ, Angelo Saviô, Rocchietti, Turchi, Durando, Cerrutti,
đang tiến bộ khả quan.
Chế độ nội trú cho các học sinh ra đời có hơi hấp tấp nhưng
phát triển rất mạnh: 12 nội trú sinh trong năm 1859, 35 trong
năm 1854, 65 vào năm 1855, 121 vào năm 1857,….
Các học sinh của ba lớp La văn cao nhất đến học tại nhà Don
Bonzanino, rồi họ chuyển sang lớp hùng biện và nhân bản của
Don Matteo Picco, người tổ chức các lớp trong khu phố Đức
Bà An Ủi.
Hai trường tư ấy đều có thành phần học sinh là con em những
gia đình khá giả ở Torino, phải trả học phí rất cao. Bọn trẻ của
Don Bosco, trái lại, đều được nhận cho học miễn phí.
Đám “con ông cháu cha”, lúc đầu, đều nhạo báng lũ cùng đinh
với những tấm áo khoác nhà binh “tạo cho kẻ ăn mặc như vậy
dáng dấp của dân buôn lậu hoặc một vẻ kệch cỡm, lố bịch”.
(Những tấm áo khoác ấy, cũng như cái mũ chào của lính, Don
Bosco đã được Bộ trưởng làm quà cho, chúng giống như cái
mền hơn là những áo khoác ngoài, Don Lemoyne nói, nhưng
chúng che mưa, che tuyết rất tốt). Bonzanino không chấp nhận
những lời chế nhạo: “Giá trị của một thiếu niên, ngài nghiêm
khắc tuyên bố, được căn cứ vào những cuốn tập làm bài chứ
không phải vào màu mè của áo quần che thân”. Căn cứ theo
điểm số, lũ cùng đinh luôn ăn đứt bọn công tử bột. Bọn trẻ của

35 Pages 341-350

▲back to top

35.1 Page 341

▲back to top
Don Bosco học tập rất tốt. Tình yêu của Don Bosco biết cách
tỏ ra yêu sách, tình yêu ấy không chịu đựng nổi những kẻ làm
biếng. Năm 1863, giáo sư Prieri, thuộc trường đại học Torino,
đã tuyên bố: “Tại nhà của Don Bosco, người ta học tập tốt, học
tập ra trò”.
“Cha thấy mình thoải mái được ở giữa bọn trẻ”
Những chuyến đi đi về về thành phố không phải là điều lý
tưởng đối với Don Bosco. Vả lại, rất nhanh, các phòng lớp của
Don Bonzanino và Don Picco đã hết còn đủ chỗ để chứa toàn
thể học sinh của nguyện xá.
Ngay khi Gioan-Baotixita Francesia, mười chín tuổi, đã hoàn
thành xuất sắc các khóa La văn của mình, ngài liền giao cho
anh ta lớp 8 của trường trung học phổ thông. Hồi ấy là tháng
11-1855.
Năm sau bắt đầu hoạt động lớp 6 và lớp 7, điều hành bởi một
giáo dân, bạn thân của Don Bosco, giáo viên Bianchi.
Năm 1861, các học sinh ba lớp cấp I trung học vượt con số 200
em. Các giáo viên là những thầy tư giáo Francesia, Provera,
Anfossi, Durando, Cerruti.
Trong Phụ lục của “Nội qui” dành cho các học sinh phổ thông,
có qui định là Nguyện Xá chỉ nhận các em học sinh phổ thông
có đủ ba phẩm chất: “Có khả năng đặc biệt để theo học văn
hóa”, “có lòng đạo đức trổi vượt”, “có ý muốn ôm ấp ơn gọi
giáo sĩ, nhưng đồng thời để cho các em tự do theo đuổi ơn gọi
sau khi các em đã hoàn thành lớp 12 trong đó có cả môn học
La tinh”.
Nội qui không nhấn mạnh cách dứt khoát đến điều kiện phải là
các em mồ côi hay trong điều kiện nghèo toàn diện. Nhưng
phần đông các học sinh văn hóa đều đến từ các môi trường
nghèo, và giai thoại các học sinh của Don Bosco đi học ở ngoài

35.2 Page 342

▲back to top
Nguyện Xá khi mặc những trang phục nhà binh xác minh điều
đó tương đối rõ ràng.
Thời khoa biểu của các em học nghề và học chữ trùng hợp với
nhau. Dĩ nhiên là có những khác biệt là trong khi các em học
nghề phải trải qua những giờ học trong xưởng thợ, thì các em
học văn hóa sẽ học tại trường và trong phòng hội chung.
Cha Lemoyne ghi nhớ rằng: “Cho tới năm 1858, Don Bosco
cai quản và điều hành Nguyện Xá giống như một người cha
điều hành gia đình của mình. Các trẻ em không cảm thấy có sự
khác biệt lớn giữa Nguyện Xá và gia đình riêng của mình.
Chúng không phải xếp hàng mà đi từ nơi này sáng nơi khác,
không có các hộ trực nghiêm khắc, cũng không có các luật lệ
chi li”.
Don Bosco ở giữa các trẻ em mỗi khi ngài có thể. Ngài nói
rằng: “Không có các trẻ em của cha, cha không thể nào sống
được”. Chỉ có một lý do nghiêm trọng mới có thể ngăn cản cha
ở giữa chúng, để nói chuyện và tham gia trò chơi của chúng.
Ngài cũng dành nhiều thời gian để có mặt trong nhà học riêng
của chúng. Ngài làm chuyện này không phải vì thiếu các hộ
trực, mà vì “ngài cảm thấy dễ chịu ở giữa chúng”, và trên cùng
một bàn ghế với chúng để “viết hay suy gẫm về các cuốn sách
sắp xuất bản của ngài”.
Vào cuối bữa ăn tối, (và điều này còn tiếp diễn cho mãi tới cuối
năm 1870), có một chuỗi dài các con cái ùa vào phòng Don
Bosco, nơi đây Don Bosco cũng vừa mới ăn xong. Chúng thi
đua nhau chạy cho nhanh để có thể ở gần Don Bosco hơn các
bạn khác, để thấy cha, hỏi han cha, lắng nghe cha, cười vì hết
câu chuyện vui này đến câu chuyện vui khác cha kể. Các trẻ
em ngồi quanh ngài, trên các chiếc bàn phía trước, hay đứng,
có bạn khác lại còn quì gối nữa. Don Bosco rất thích thú lối

35.3 Page 343

▲back to top
gặp gỡ thân mật này, “đó là đĩa món ăn ngon nhất cho bữa tối
của ngài”.
“Don Bosco không có thể hiểu hết giá trị của gia đình...?”
Bầu khí tu trì vây bọc các học sinh trẻ thật là dày đặc. Họ là
những mầm non tao nhã của những ơn gọi làm linh mục tương
lai. Don Bosco muốn rằng họ phải chìm đắm trong bầu khí của
tinh thần tu hành, Bí tích, đầy tình yêu đối với Mẹ Maria và đối
với Giáo hội.
Xưng tội là thói quen hàng tuần hoặc mỗi nửa tháng của mọi
người. Ngày nào Don Bosco cũng ngồi tòa để giải tội suốt hai
hoặc ba giờ đồng hồ. Tiếng tăm nổi như sóng cồn của ngài về
khả năng “đọc được tội lỗi” đã động viên chúng tin tưởng tuyệt
đối nơi ngài. Rước lễ, chỉ ít năm sau ngày khai trương môi
trường nội trú, đã trở thành một bí tích hàng ngày đối với đông
đảo thanh thiếu niên. Có rất ít đứa bỏ không chịu Mình Thánh
Chúa ít nhất là một lần trong một tuần.
Người ta hít thở lòng sùng kính Đức Mẹ. Lòng sùng kính này
đạt tới đỉnh cao nhất trong những năm của Đaminh Saviô và
vào thời điểm đang tiến hành việc xây cất Đại thánh đường
Đức Mẹ Phù Hộ.
Lòng yêu mến Đức Giáo Hoàng vẫn còn là một điểm cố định
trong tâm tình Kitô giáo của Don Bosco. Thiên hạ sẽ nói ngài
“hết lòng với Đức Thánh Cha còn hơn cả chính Đức Thánh
Cha để ý tới vị trí của Ngài” và người ta không hoàn toàn sai
khi nói thế. Đây đã không chỉ là những lời nói suông: để vâng
theo lời cầu mong của một Đức Giáo Hoàng, Don Bosco sẽ “xả
láng”, thí bỏ những năm cuối cùng trong đời sống của ngài.
Bọn trẻ đã hấp thu nhuần nhuyễn tinh thần của ngài.
Don Bosco cũng có thể sai lầm chứ! Theo các nhà tâm lý học
hiện đại cũng như các nhà giáo hội học, thì Don Bosco có sai

35.4 Page 344

▲back to top
lầm lớn liên quan đến kỳ nghỉ hè tại gia đình các học sinh.
Ngài đã muốn rút vắn tới mức tối đa kỳ nghỉ hè như vậy. Ngài
cho đó là một nguy hiểm nghiêm trọng cho các ơn gọi.
Các chuyên viên ngày nay nói với chúng ta rằng: “Don Bosco,
người con của thời đại mình, đã không hiểu nổi giá trị của gia
đình và của giáo xứ như là một Giáo hội địa phương ươm mầm
cho ơn gọi”. Có lẽ chúng ta có một chút e ngại trước một nhận
xét quyết liệt như thế đối với Don Bosco! Cứ tính thử các con
số xem cái mà Don Bosco đã đạt được về ơn gọi: chỉ trong năm
1861 tại Nguyện Xá đã nẩy sinh 34 ơn gọi linh mục”. Nhà của
ngài được giới chống giáo sĩ gọi là “một nhà máy sản xuất các
ơn gọi linh mục”. Vào cuối đời ngài, các linh mục xuất thân từ
Nguyện Xá Valdocco tính đến cả ngàn người. Và chắc chắn họ
không phải là một đội quân của những người đã bị đàn áp. Gia
đình và giáo sĩ quả có đóng góp lớn cho ơn gọi, nhưng hiện
nay trong một xã hội tục hóa, môi trường gia đình và xã hội
cũng có thể lây nhiễm những quan điểm tục hóa, và thiếu hẳn
những giá trị đích thực của một gia đình Kitô giáo và tự nó
cũng chưa đủ sức bảo vệ, vun trồng và quí chuộng ơn gọi. Cho
nên ơn gọi cũng cần được bảo vệ trong những môi trường giáo
dục giàu tinh thần gia đình. Hơn nữa, Don Bosco xác tín rằng
nơi các linh mục, điều thiết yếu chính là Đức Khiết tịnh. Cần
phải bảo vệ các “tư giáo nhỏ” này trong thời thể lý tế nhị của
tuổi dậy thì. Đó là một nhận định chí lý, mà chúng ta dù vẫn
phải giữ chắc giá trị của gia đình và của giáo xứ trong tư cách
Giáo hội địa phương, vẫn cần phải tìm cách cứu vãn bầu khí
giáo dục lành mạnh, thân tình và làm phát huy sự quí chuộng
đối với Đức khiết tịnh.

35.5 Page 345

▲back to top
Chương 32
1854: CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC GỌI LÀ SALÊDIÊNG
Ngày 26-01-1854, ở Torino, trời rét như cắt da cắt thịt, nhưng
trong căn phòng nhỏ của Don Bosco, có tỏa ra một hơi nóng
đúng mức cần thiết. Don Bosco đang nói với bốn thanh niên
đang rong ruổi đuổi theo từng lời của ngài với một trí tưởng
tưởng đầy tin tưởng.
"Các con thấy là Don Bosco đang làm tất cả những gì mình có
thể, nhưng ngài chỉ có một mình. Ngược lại, nếu các con giúp
cha một tay, thì cùng nhau chúng ta sẽ có thể làm được những
điều kỳ diệu. Nhiều trẻ em nghèo đang chờ chúng ta. Cha cam
đoan với các con là Đức Mẹ sẽ gởi đến cho chúng ta những
nguyện xá rộng lớn khang trang, những Thánh đường, những
tòa nhà, những trường học và rất nhiều vị linh mục kiên quyết
phụ giúp chúng ta. Và chuyện đó xẩy ra ở Ý, ở Châu Âu, chưa
gì cha đã thấy một cái mũ giám mục rồi.
Bỡ ngỡ, bốn thanh niên nhìn lẫn nhau. Họ tưởng như mình
đang ngủ mơ. Tuy vậy, Don Bosco đâu có ngủ mơ, ngài rất
nghiêm túc và có vẻ như đang đọc thấy tương lai:
"Đức Mẹ muốn rằng chúng ta hãy phát động một Tu hội. Cha
đã tự hỏi từ lâu nên đặt tên cho Tu hội ấy là gì. Cha đã quyết
định là chúng ta sẽ được gọi là Salêdiêng".
Trong bốn thanh niên ấy có những viên đá tảng để làm nền
móng cho tu hội Salêdiêng. Trên cuốn sổ tay của mình, tối hôm
ấy, Micae Rua đã cẩn thận ghi chép: "Chúng tôi đã họp nhau
tại phòng Don Bosco, Rocchietti, Artiglires, Cagliero và Rua.
Ngài đã đề nghị chúng tôi hãy tiến hành, với sự trợ giúp của
Chúa và của Thánh Phanxicô đệ Salê, một cuộc thử nghiệm
thực hành Đức ái đối với người khác. Sau đó chúng tôi sẽ đưa
ra một lời hứa và rồi nếu có thể chúng tôi sẽ tuyên khấn với

35.6 Page 346

▲back to top
Chúa. Những ai làm việc thử nghiệm ấy và những ai sẽ làm vậy
sau này, sẽ được nhận danh hiệu Salêdiêng.
Dàn dây leo và những bông hồng
Những "dự đoán tương lai" mà Don Bosco thông tri cho mấy
thanh niên của mình tối hôm ấy, cũng chính là những điều mà
mấy năm về trước đã khiến thiên hạ tưởng ngài bị điên và suýt
nữa thì đã đem ngài vào nhà thương điên.
Nhưng Don Bosco đã lặp lại những điều ấy với một sự chắc ăn
lì lợm bởi lẽ (như Don Borel đã nói thế) "ngài thấy những điều
ấy trong giấc mơ". Năm 1847, ngài đã mơ một "giấc mơ cơ
bản" được dùng làm

35.7 Page 347

▲back to top
Chương trình. Đây là những lời của chính ngài trong các vụ
việc thông thường. Chỉ mãi đến năm 1864 ngài mới kể lại giấc
mơ này, trong phòng đợi của mình cho mấy tu sĩ Salêdiêng tiên
khởi, trong đó có Don Rua, Don Cagliero, Don Durando, Don
Barberis:
"Một ngày trong năm 1847, sau khi đã ngẫm nghĩ về cách thức
mưu ích cho giới trẻ, Nữ vương Thiên Đàng đã hiện ra với cha
(cách dùng từ rất hữu hạn của Don Bosco, thông thường ngài
quen nói: Cha đã thấy trong giấc mơ bà rất đẹp…) và đã dẫn
cha vào một khu vườn thần tiên. Trong đó có nhiều cổng xây
hình vòng cung đẹp lộng lẫy trông ra một dàn dây leo bằng gỗ
tuyệt đẹp được viền hai bên và phủ đầy bởi những cây hoa
hồng diễm lệ đang nở rộ. Cả mặt đất cũng phủ đầy những bông
hồng. Đức Trinh Nữ bảo cha:
"Hãy bước đi dưới dàn dây leo này, đây là con đường mà con
phải đi qua đi lại hoài".
Cha bắt đầu bước đi. Nhiều cành cây từ trên cao thòng xuống
trông tựa như những tràng hoa. Cha chỉ thấy toàn hoa hồng là
hoa hồng, ở bên phải cũng như bên trái, hoa hồng ở trên đầu
cha, hoa hồng ở trước mặt cha. Nhưng hai chân cha vướng vào
những cành lá nằm ngổn ngang trên mặt đất và làm cha bị
thương. Khi đưa tay gạt một cành cây chắn ngang lối đi, cha đã
bị gai chích, hai tay cha và toàn thân cha be bét máu. Những
bông hồng giấu ẩn một lượng gai nhọn vô số kể.
Tất cả những ai thấy cha tiến tới đều nói: “Don Bosco lúc nào
cũng bước đi trên những bông hồng. Mọi sự đều tốt đẹp đối với
ngài!". Họ đâu có thấy gai nhọn đã cào nát tay chân cha.
Rất nhiều các chủng sinh, các linh mục và các giáo dân sống
đời phàm tục mà cha ngỏ lời mời gọi đã bắt đầu hớn hở đi theo
cha, ngất ngây trước vẻ đẹp của những bông hoa ấy. Nhưng họ
đã hiểu là mình phải tiến bước giữa đám gai nhọn và họ bắt đầu

35.8 Page 348

▲back to top
la lên: "chúng ta bị gạt rồi", nhiều người bỏ đi. Cha ở lại, hầu
như chỉ còn một mình. Cha nói: “lẽ nào ta lại phải đi lại một
mình trên con đường này sao?".
Nhưng cha đã sớm được an ủi. Cha thấy bước về phía mình
một đám đông gồm các linh mục, các chủng sinh, các giáo dân
sống đời phàm tục, tất cả đều nói với cha: “Chúng con xin hết
mình vì cha. Chúng con sẽ theo cha". Cha lại tiếp tục lên
đường, bước đi dẫn đầu cả bọn họ. Chỉ có vài người đã nản
lòng và đã dừng lại. Phần đông đã đi với cha tới nửa đoạn
đường.
Sau khi đi qua hết dàn cây leo, cha thấy mình đứng trong một
khu vườn tuyệt đẹp. Những kẻ trong đám người ít ỏi tháp tùng
cha đều đã gầy xọp hẳn đi, đầu tóc rối bù, mình mẩy đẫm máu.
Lúc ấy một làn gió hiu hiu nhẹ thổi, và cùng lúc gió mát, mọi
người đều hồi phục sức khỏe. Một ngọn gió nữa nổi lên và như
có phép lạ, cha thấy xung quanh mình là cả một đám đông vô
số những người trẻ tuổi và những chủng sinh, những cộng tác
viên sống đời phàm tục và cả những linh mục nữa, ai nấy đều
bắt đầu làm việc với cha trong công tác dìu dắt giới thanh thiếu
niên. Cha nhận ra được trong đám ấy một số bộ mặt rất quen
thuộc, nhưng rất nhiều người khác cha chưa hề quen biết.
Lúc ấy, Đức Mẹ là Đấng đã dẫn đường cho cha, phán bảo cha:
- Con biết ý nghĩa của những gì con đang thấy cũng như những
gì con đã thấy trước kia chứ?
- Thưa không.
- Con đường mà con đã đi qua băng ngang những bông hồng
và những gai nhọn tiêu biểu cho nỗi lo toan cho giới trẻ mà con
sẽ phải đảm trách. Con sẽ phải bước đi bằng đôi giầy hãm mình
phạt xác. Gai góc là những trở ngại, những khổ đau, những nỗi
khó chịu sẽ tập kích con. Nhưng con chớ có sờn lòng nản chí.

35.9 Page 349

▲back to top
Với đức ái và với sự hãm mình, con sẽ thắng và sẽ đến được
với những bông hồng không có gai".
Ngay khi Đức Mẹ Chúa Trời vừa dứt lời, cha liền chợt tỉnh và
thấy mình đang ở trong phòng ngủ của mình.
Cha đã thuật lại cho các con chuyện này, ngài kết luận, ngõ hầu
mỗi người chúng ta đều vững tin rằng chính Đức Mẹ là Đấng
mong muốn có Tu Hội của chúng ta, và ngõ hầu chúng ta càng
ngày càng thêm quyết tâm hoạt động cho danh Cha cả sáng.
Được hướng dẫn bởi niềm tin bình thản ấy, Don Bosco ngày
nào cũng tung lưới vào giữa các thanh thiếu niên của mình
nhằm làm tăng trưởng số lượng các tu sĩ Salêdiêng tương lai
của mình. Ngài nói, cứ như là ngẫu nhiên: “Con có thích Don
Bosco không? Con có thích ở lại với cha không?" hoặc "lẽ nào
con lại không tiếp tay với cha để giúp đỡ các thanh thiếu niên?
Con thấy đó, thậm chí nếu cha có tới một trăm linh mục và một
trăm chủng sinh, cha vẫn sẽ có đủ việc làm cho mọi người.
Chúng ta sẽ có thể đi cùng khắp thế giới".
“Cha trả lương cho tôi ra sao?"
Tại Avigliresna có một linh mục lớn hơn Don Bosco ba tuổi.
Tên cha ấy là Victor Alasonatti. Don Bosco đã gặp cha ấy nhân
tuần tĩnh tâm ở Nhà tĩnh tâm Thánh Inhaxio. Họ trở thành bạn
thân của nhau. Don Alasonatti, tại Avigliresna, là giáo viên dạy
trường sơ cấp và rất được lòng bọn con nít. Cha ấy hơi nghiêm
túc, đòi hỏi, một phong cách chững chạc, nhưng ai nấy đều rất
quý mến cha.
Nhiều lần Don Bosco đã chọc ghẹo cha nhằm giỡn chơi:
- “Cha có bao nhiêu con cái? Ba chục hả? Vậy mà cha không
thấy mắc cỡ sao? Làm sao mà cha lại dám làm việc chỉ cho ba
chục đứa con nít chứ? Thôi đi, cha hãy tới giúp tôi một tay ở
Torino đi.

35.10 Page 350

▲back to top
- Thế về thù lao, cha sẽ cho tôi những gì nào?
- Bánh ăn, việc làm, và Thiên đàng. Sách vở thì cha sẽ chẳng
chồng chất được nhiều, nhưng giấc ngủ thì cha sẽ có thể để
giành bao nhiêu tùy thích".
Từ câu nói đùa này đến câu nói đùa khác, Don Alasonatti bắt
đầu ngẫm nghĩ nghiêm chỉnh. Don Bosco biết thế và trong quý
đầu của năm 1854 ngài đã viết cho cha ấy một lá thư trong đó
ngài chỉ ghi vỏn vẹn mấy lời: “Hãy đến giúp tôi đọc kinh nhật
tụng".
Ngày 14 tháng 08, sau khi giải quyết xong mọi việc riêng, Don
Alasonatti: đến nguyện xá với một va ly nhỏ trên tay và một
cuốn kinh nhật tụng kẹp dưới nách. Cha ôm hôn Don Bosco và
bảo ngài:
“Tôi đến rồi đây. Đâu là chỗ tôi sẽ 'cắm dùi' để đọc kinh nhật
tụng đây? ".
Don Bosco đưa cha ấy vào văn phòng nơi có cất giữ các sổ
sách kế toán.
"Chỗ này đây. Đây sẽ là giang sơn của cha. Cha đã dạy đại số
quá nhiều, nên đối với cha những phép toán cộng và toán trừ
chắc chắn sẽ dễ như trở bàn tay".
Don Alasonatti tỏ ra nghiêm túc:
“Từ giờ phút này, cha cứ việc chỉ huy, còn tôi sẽ luôn tuân
lệnh. Và cha khỏi cần nể nang nhân nhượng với tôi; bởi lẽ
nước Thiên đàng, tôi muốn chiếm lấy bằng được cho mình".
Kể từ ngày ấy, Don Alasonatti đã biến thành cái bóng khiêm
tốn và có phần khắc khổ của Don Bosco. Cha ấy kê vai gánh
gác cho ngài mọi công việc bao có thể: quản lý toàn bộ trong
nhà, công tác hộ trực, giữ gìn sổ sách xuất nhập, các danh bộ,

36 Pages 351-360

▲back to top

36.1 Page 351

▲back to top
việc thảo các thư từ vừa vô cùng cực nhọc vừa hết sức khó
khăn.
Khi cha đã mệt và sau này khi sức khỏe bắt đầu suy sụp, cha
đọc thấy trong sách kinh nhật tụng trên một tấm phiếu mà cha
cố tình đặt vào đó để đánh dấu trang mình đang đọc tới: “Hỡi
Vittorio, mi đến đây để làm gì chứ? " Bên cạnh, cha đã thêm
một câu mà Don Bosco thường hay lập lại với những người
thân của mình khi ngài thấy họ mệt mỏi: “Chúng ta sẽ nghỉ
ngơi trên thiên đàng".
Ngay hôm sau ngày đặt chân đến nguyện xá, Don Alasonatti đã
phải khởi công sứ mạng của mình tại Valdocco một cách lạ
đời; người ta yêu cầu ngài tới cứu giúp một người bị bệnh dịch
tả. Một cách cực kỳ mãnh liệt, nạn dịch tả vừa bùng nổ tại
Torino.
Thần chết trên các đường phố ở Khu Borgo Dora
Hung tin đến Torino vào tháng bảy. Dịch tả đã xâm nhập vùng
Ligurie, gây nên 3.000 nạn nhân tại Genova. Những ca đầu tiên
đã được ghi nhận ở Torino ngày 30 và 31 tháng Bảy. Nhà vua,
hoàng hậu và toàn thể hoàng tộc vội vã rời khỏi kinh đô trên cỗ
xe ngựa cửa đóng bít bùng. Họ đến tị nạn tại lâu đài Castelette,
cửa ngõ dẫn vào các thung lũng Lanzo và Suse.
Trọng điểm sát phạt của nạn dịch là khu Borgo Dora, chỉ cách
khu Valdocco một quãng đường ngắn. Tại đó, trong những
ngôi nhà tồi tàn, những người di cư sống chen chúc nhau, một
đám cư dân thiếu ăn và không hề có một phương tiện vệ sinh
nào. Trong vòng một tháng, 800 người ngã gục, 500 người tử
vong.
Ông thị trưởng Notta tung ra lời kêu gọi cho toàn thành: cần có
những người can đảm đến cứu giúp các bệnh nhân, chuyển họ

36.2 Page 352

▲back to top
vào các bệnh viện nhỏ hầu sự lây lan khỏi biến thành vết dầu
loang.
Ngày 05-08-1854, lễ Đức Bà xuống tuyết, Don Bosco ngỏ lời
với bọn trẻ. Ngài bắt đầu bằng một lời hứa:
"Nếu các con đặt mình trong tình trạng được ơn nghĩa với
Chúa và không phạm một tội trọng nào, cha bảo đảm với các
con là không một ai sẽ bị bệnh dịch tả cả".
Rồi ngài đưa ra một lời kêu gọi:
"Các con đều biết là ông đô trưởng đã phát động một lời kêu
cứu. Các y tá và các điều dưỡng rất cần cho việc chăm sóc
những người bị dịch tả. Nhiều người trong các con còn quá
nhỏ. Nhưng nếu trong số những người lớn nhất có ai muốn đi
cùng cha tới các bệnh viện và các nhà cá biệt, chúng ta sẽ làm
được một việc thiện rất đẹp lòng Chúa".
Ngay tối hôm ấy, mười bốn người đã đăng ký vào danh sách.
Mấy hôm sau, ba mươi đứa khác đã tranh thủ xin được phép
nhập bọn với bạn bè đã đi trước, dù chúng còn rất trẻ.
Đó là những ngày lao động gian khổ, chẳng có gì là hấp dẫn.
Các y sĩ khuyên nên săn sóc các bệnh nhân bằng cách vừa xoa
bóp vừa chà mạnh hai cẳng chân nhằm đẩy mạnh việc ra mồ
hôi. Bọn trẻ được chia làm ba nhóm: những đứa lớn tuổi nhất
phục vụ suốt bất kể giờ giấc trong các bệnh viện và tư gia của
các nạn nhân, nhóm thứ hai đảo quanh các đường phố nhằm
phát hiện ra những bệnh nhân mới, nhóm thứ ba, những đứa
nhỏ nhất, ở lại nguyện xá sẵn sàng đáp ứng mọi lời cầu cứu.
Don Bosco tiến hành mọi biện pháp phòng bệnh. Mỗi người
đều phải mang theo một chai giấm và phải rửa tay sau khi đụng
vào các bệnh nhân.

36.3 Page 353

▲back to top
Rất thường xẩy ra, Don Lemoyne kể lại, chuyện những người
bệnh bị thiếu khăn trải giường, thiếu quần áo che thân. Bọn trẻ
đến báo lại cho mẹ Margarita. Bà đã tới tủ đựng quần áo vải
vóc và vét sạch vài món còn sót lại trong đó. Chỉ vài hôm sau
đã chẳng còn gì nữa. Một y tá đến kể lại với bà là hiện đang có
một kẻ bất hạnh đang lăn lộn trên cái giường ọp ẹp không có
khăn trải giường gì cả. “Không có cái gì để phủ lên giường
sao?", mẹ Margarita ngẫm nghĩ rồi đến gỡ tấm khăn trắng che
bàn thờ ra và đặt vào tay thằng bé: “Con hãy đem nó cho người
bệnh của con đi. Mẹ không tin rằng Chúa sẽ phiền hà về
chuyện này đâu".
Những tên khổng lồ mặt mày rầu rĩ
Gioan Cagliero, mười sáu tuổi, một tối cuối tháng tám, khi từ
bệnh viện trở về, chợt cảm thấy khó chịu. Có lẽ vì, trong tiết
trời oi ả mấy ngày vừa qua, cậu đã ăn phải những trái cây hư
thối. Y sĩ, được Don Bosco cấp tốc mời đến, đã đưa ra lời
chuẩn đoán khủng khiếp: “bệnh thương hàn".
Suốt cả tháng chín, cơn sốt không ngừng dằn vặt cậu. Những
ngày cuối cùng, cậu chỉ còn có da bọc xương và cảm thấy mình
sắp đi luôn. Hai y sĩ, được mời đến thăm bệnh nhân, tuyên bố
trường hợp đã tới hồi tuyệt vọng. Họ khuyến cáo nên cho
cậu chịu các bí tích sau hết.
Don Bosco hết sức bối rối. Ngài hết lòng yêu quý cậu bé ấy.
Ngài không đành lòng báo tin ấy cho cậu. Ngài đề nghị
Giuseppe Buzzetti thay mình làm việc ấy với tất cả sự tế nhị.
Trong lúc ấy, ngài xuống nhà thờ lấy của ăn đàng.
Giuseppe Buzzetti vừa nói xong với Cagliero thì Don Bosco
trở lại với hộp đựng mình thánh. Nhưng ngài không tiến tới,
ngài đứng lặng mấy giây đứng nhìn vào khoảng không như thể
ngài đang chứng kiến một cảnh tượng mà những kẻ khác không
ai nhìn thấy. Rồi ngài tiến lại giường người bệnh, nhưng điều

36.4 Page 354

▲back to top
gì đó đã chuyển biến một cách sâu sắc trong ngài. Nỗi buồn, vẻ
bối rối của những phút trước đó đã tan biến. Ngài có vẻ vui
tươi, ngài mỉm cười. Gioan thì thầm:
- Đây là lần xưng tội cuối cùng của con chăng? Con sắp chết
thật sao?
- Không, vẫn chưa tới ngày con được về Trời đâu. Còn rất
nhiều việc phải làm, con sẽ khỏi, con sẽ mặc áo chùng
thâm…con sẽ trở thành linh mục… và rồi… và rồi với cuốn
nhật tụng dưới tay, con sẽ phải vòng tới vòng lui nhiều
lần!...còn cuốn kinh nhật tụng, con sẽ lại phải trao lại cho nhiều
người khác nữa…và con sẽ đi xa, rất xa.
Nói xong những lời ấy, Don Bosco đem của ăn đàng trở lại nhà
thờ.
Mấy ngày sau, sốt hạ và Gioan đã có thể quay về Castelnuovo
để tĩnh dưỡng một thời gian dài.
Một thời gian sau, Buzzetti và Cagliero đã hỏi nhau xem Don
Bosco đã thấy gì khi bước vào phòng bệnh. Câu trả lời, chính
Don Bosco đã cung cấp sau này:
“Cha vừa đặt chân tới ngưỡng cửa thì, đột nhiên, cha thấy một
luồng sáng chói lòa. Một con bồ câu trắng tinh, miệng ngậm
một cành lá ô liu, đáp xuống trên giường người bệnh. Nó dừng
lại chỉ cách vài phân bộ mặt tái mét của Cagliero và buông rơi
cành lá xuống trên trán em. Liền ngay sau đó, cha thấy hình
như các vách tường của căn phòng đều mở tung ra để lộ những
chân trời xa tắp và bí hiểm. Chung quanh giường xuất hiện một
tập đoàn những bóng người nguyên sơ bán khai. Hình như đó
là những con người rừng rú với một vóc dáng cao lớn. Nhiều
người có nước da đậm màu, có xâm những hình bí ẩn mầu đỏ
lợt, những tên khổng lồ với gương mặt đầy kiêu hãnh và đầy

36.5 Page 355

▲back to top
rầu rĩ ấy, lom khom cúi xuống người bệnh và run rẩy, bắt đầu
xì xào:
“Nếu ngài có mệnh hệ nào, thì ai là người sẽ đến cứu giúp
chúng ta?"
Thị kiến kéo dài không lâu, nhưng cũng để cha đạt được niềm
xác tín là Cagliero sẽ khỏi bệnh".
m phút đã thuộc hết một trang
Sau các cơn mưa đầu mùa của tháng Mười, những đợt công
phá của bệnh dịch tả giảm đi thấy rõ. Dù vài ca vẫn còn diễn ra
trước thềm mùa đông, nhưng ngày 21 tháng 11 người ta cũng
tuyên bố là đã kết thúc “tình trạng khẩn cấp". Từ ngày 01 tháng
08 đến 21 tháng 11, người ta ghi nhận được trong toàn thành
2.500 ca với 1.400 người chết.
Bọn trẻ của Don Bosco, mà không một đứa nào nhiễm bệnh,
bắt đầu trở lại trường. Vài đứa trở về gia đình để nghỉ phép một
thời gian ngắn.
Cũng như những năm khác, Don Bosco lại lên xóm Becchi để
mừng lễ Đức Mẹ Mân côi. Trong thời gian ngài ở đó, ngài đã
có dịp tiếp một vị khách đến thăm, đó là một bạn học cũ thời
ngài còn ở chủng sinh, Don Cagliero, nay là giáo viên một
trường sơ cấp ở Mondonio.
- Người ta có cho tôi biết, cha ấy nói sau mấy lời chào hỏi, là
đồng thời với những tên vô lại, cha cũng thâu nhận vào nguyện
xá của mình những đứa trẻ đàng hoàng có nhiều hy vọng trở
thành linh mục. Tại Mondonio, tôi có một em bé được sinh ra
cho cha. Tên em là Đaminh Saviô. Em không có bao nhiêu sức
khỏe, nhưng về mặt tốt lành, tôi sẵn sàng cá độ là cha chưa bao
giờ gặp được một đứa bé nào như em cả. Đây đúng là một
Thánh Luy Gonzaga đích thực.

36.6 Page 356

▲back to top
- Cha nói quá rồi đó, Don Bosco mỉm cười. Dù sao, tôi cũng
muốn gặp mặt em bé ấy. Tôi còn lưu lại đây mấy hôm nữa.
Cha hãy lo cho tôi làm quen với em cùng lúc với thân phụ của
em. Chúng tôi sẽ nói chuyện với nhau và sẽ biết là em có
những năng khiếu và những phẩm chất nào.
Ngày 2-10-1854, cuộc hội ngộ đã diễn ra trước nhà Giuse. Don
Bosco đã quá xúc động bởi cuộc gặp gỡ này, đến nỗi ngài đã
thuật lại với cả những tình tiết vụn vặt nhất, như thể ngài đã
bấm máy thu hình và ghi âm vậy. Ngôn từ là cách diễn đạt của
những năm 1850, nhưng cảnh quay thật sống động, khiến ta có
cảm giác như đang có mặt tại hiện trường vậy:
Hôm thứ hai đầu tháng mười, sáng tinh sương, tôi thấy một em
bé có cha ruột đi kèm tiến lại gần để trò chuyện với tôi. Gương
mặt em vui tươi, vẻ tươi cười mà đầy kính cẩn của em đã cuốn
hút tia nhìn của tôi:
- Con là ai? Tôi hỏi, con từ đâu tới?
- Con là Đaminh Saviô, em đáp, mà Cugliero đã nói với cha và
hai cha con tới từ Mondonio.
Tôi đưa em ra riêng một chỗ và sau khi nói về việc học mà em
đã theo đuổi, và cuộc sống mà em đã kinh qua, một niềm tin
trọn vẹn đã được xác lập giữa hai chúng tôi: em với tôi, tôi với
em.
Tôi đã phát hiện nơi em ấy một tâm hồn thực sự trong tinh thần
của Chúa và tôi đã hết sức ngạc nhiên khi thấy những thành
quả mà ân sủng đã thực hiện được nơi một em bé còn trẻ người
non dạ như vậy.
Sau một cuộc trò chuyện khá lâu, trước khi tôi kịp lên tiếng kêu
cha em, em đã nói với tôi những lời lẽ chính xác này:

36.7 Page 357

▲back to top
- Thế nào, cha nghĩ sao? Cha đưa con về Torino để con ăn học
chứ?
- Ờ, cha thấy hình như là vải tốt đấy (1) (vải tốt: hiểu theo
nghĩa bóng là có năng khiếu, phẩm chất đạo đức tốt (chú thích
của dịch giả)).
- Vải ấy có thể dùng vào việc gì ạ?
- Vào việc may một bột đồ đẹp để dâng lên Chúa.
- Nhưng con tính làm gì khi đã học xong môn La văn?
- Nếu Chúa thương ban cho con những ân sủng cần thiết, con
sẽ hết lòng ao ước được trở thành linh mục.
- Tốt, bây giờ cha muốn biết con có đủ những tính năng cần
thiết cho việc học hay không. Con hãy cầm lấy cuốn sách nhỏ
này (đó là tập sách nhỏ của hộ Tạp chí Công giáo), hãy học
thuộc trang này nội ngày hôm nay, ngày mai con sẽ đến trả bài
cho cha.
Nói vậy rồi tôi để mặc cho em đi chơi, còn tôi thì bắt đầu nói
chuyện với cha của em. Chưa đầy mười phút sau, Đaminh đã
trở lại, miệng cười tươi nói, em thưa với tôi:
- Nếu cha muốn, con xin đọc thuộc lòng trang ấy ngay bây giờ
ạ!
Tôi đón lấy cuốn sách và vô cùng ngạc nhiên, tôi phải nhận
rằng em không chỉ đã thuộc lòng từng chữ trong bài báo mà
còn hiểu rất đúng ý nghĩa hàm chứa trong đó.
- Hoan hô!, tôi bảo em, con đã học thuộc bài sớm hơn hạn
định, nên cha cũng trả lời con sớm hơn. Được rồi, cha sẽ đem
con theo về Torino và kể từ giây phút này con đã được kể vào
số các con cái thân yêu của cha, nhưng con hãy, ngay từ bây

36.8 Page 358

▲back to top
giờ cầu xin Chúa để ngài giúp đỡ chúng ta, con cũng như cha,
chấp hành tốt thánh ý của Ngài.
Không biết làm gì hơn để bày tỏ ưng thuận và lòng biết ơn của
mình, em đã cầm lấy tay tôi, siết chặt, hôn nhiều lần và sau hết
thưa với tôi:
“Con mong sao cha sẽ không bao giờ phải than phiền về hạnh
kiểm của con".
Khi nghĩ lại những lời của Don Cugliero, Don Bosco đã phải
kết luận rằng cha ấy đã không nói ngoa. Giả như thánh Lu-y
mà chào đời giữa vùng đồi núi Montferrat và là con nhà nông
dân, thì thánh nhân cũng không thể nào khác với em bé tươi
tỉnh này, kẻ luôn ôm mộng trở nên “một bộ đồ đẹp để dâng lên
Thiên Chúa".
Một tấm biển treo tường bí ẩn
Trong lúc ấy, đang khi dưỡng bệnh tại Castelnuovo, Gioan
Cagliero đã phạm phải một sơ suất. Cậu đã ăn rất nhiều nho
(hồi ấy đang là mùa hái nho) và một cơn sốt nặng đã tái phát.
Don Bosco hay tin liền đến thăm cậu. Ngài gặp bà mẹ đang
tuyệt vọng:
- Thằng Gioan của con sắp tiêu rồi! Nó đang mê sảng, nó cứ
nói mãi về chuyện nhận áo chùng thâm trong khi cơn sốt đang
sắp đưa nó về bên kia thế giới.
- Không đâu bà Têrêxa tốt bụng ạ, con trai bà đâu có mê sảng.
Bà hãy chuẩn bị ngay cho nó chiếc áo chùng thâm ấy để tôi cho
nó mặc vào tháng này. Cơn sốt sẽ không bắt được nó đâu, nó
còn quá nhiều việc phải làm trên cõi đời này.
Và đó là chuyện đã xảy ra thật. Ngày 22 tháng 11, lễ thánh nữ
Cécilires, Gioan Cagliero, hoàn toàn bình phục, đã được mặc
áo chùng thâm. Cha giám đốc chủng viện ở thủ đô, linh mục

36.9 Page 359

▲back to top
Vogliotti, cho phép thầy Cagliero theo học chủng viện trong
lúc vẫn tiếp tục thường trú tại nhà Don Bosco.
Ngày 19 tháng 10, về phần mình, Đaminh Saviô gia nhập
nguyện xá. Cậu cùng thân phụ bước vào phòng của Don Bosco
và chợt để ý đến một tấm biển treo trên tường với những lời lẽ
bí hiểm: Da mihi animas, Coetera tolle.
Khi thân phụ ra về rồi, cậu đã cố vượt thắng mối e ngại ban đầu
của mình và đã hỏi Don Bosco về nghĩa lý của những lời treo
trên tường. Don Bosco giúp cậu dịch: “Lạy Chúa, xin ban cho
con các linh hồn, và hãy cất đi mọi sự khác". Đây là câu châm
ngôn đã được Don Bosco chọn cho hoạt động tông đồ của ngài.
Khi đã hiểu ra, Đa Minh đã được chính Don Bosco kể lại như
vậy - trầm ngâm trong giây lát, rồi tuyên bố: “Con hiểu rồi, ở
đây người ta không kinh doanh bằng tiền bạc mà là bằng các
linh hồn. Con hy vọng là linh hồn của con sẽ góp phần vào việc
kinh doanh này".
Và như vậy là đã bắt đầu đối với Đa Minh cuộc sống mỗi ngày
của cậu. Chắc hẳn cậu cũng khoác lên vai chiếc áo choàng nhà
binh và mỗi sáng, cùng với băng nhóm nhỏ dưới sự chỉ đạo của
Rua, cậu cũng lên đường tới trường học của Don Bonzanino.
Ngày của cậu cũng là ngày có phần ảm đạm của một học sinh
trẻ: bài làm, bài học, các tiết học, sách vở, bạn bè. Don Bosco
theo sát cậu từng ngày, sẽ viết về cậu: “Kể từ ngày gia nhập,
em đã tuyệt đối chính xác ít ai theo kịp trong việc hoàn thành
tốt bổn phận của mình".
Những bóng đèn tròn muôn mầu trên hai bờ sông Pô
Cuối tháng 11, nguyện xá chìm trong một bầu không khí đặc
biệt. Tuần chín ngày dọn mừng Đức Mẹ Vô Nhiễm bắt đầu và
hồi ấy là năm 1854. Đức Piô IX, từ La Mã, đã loan báo là ngày
8 tháng 12 ngài sẽ công bố tín điều Vô Nhiễm Nguyên Tội của
Mẹ Maria. Trong toàn thể thế giới Công giáo lòng yêu mến

36.10 Page 360

▲back to top
Đức Mẹ đã được thức tỉnh, người ta lo chuẩn bị những lễ nghi
long trọng linh đình.
Don Bosco, tự cảm thấy “được hướng dẫn bởi tay” Đức Trinh
nữ, tối nào cũng nói về vấn đề ấy với bạn trẻ của mình, và tuần
chín ngày đã được sống trong một tâm tình sốt mến cao độ. Khi
nói chuyện ngoài sân hoặc trong văn phòng của mình, ngài
thường hỏi bọn trẻ xem chúng muốn “biếu gì cho Mẹ” nhân
ngày lễ kính Mẹ. Đa minh Saviô đáp lại: “Con muốn đánh một
trận không khoan nhượng với tội trọng và con muốn sốt sáng
cầu xin Chúa và Đức Mẹ: "Chẳng thà bắt con chết đi còn hơn
là để con sa ngã phạm tội".
Đây là sự lập lại của một lời hứa mà cậu đã đề ra nhân dịp
mình rước lễ lần đầu: “Thà chết chẳng thà phạm tội". Đây
không phải là một câu độc đáo do cậu tự chế ra, mà là những
lời cuối cùng trong kinh ăn năn tội mà vào thời ấy bổn phận
đạo quen đọc sau khi xưng tội. Nhiều trẻ em đã từng nhận câu
này làm lời hứa nhân dịp cuộc gặp gỡ đầu tiên của mình với
Chúa Giêsu Thánh Thể. Kể cũng lạ khi ta bắt gặp cũng câu này
xen giữa những lời hứa đã được hoàng hậu Adélaide, phu nhân
của Vittorio Emmanuel đệ nhị, gợi ý cho hoàng thái tử
Humberto de Savoia (sẽ lên ngôi vua vào tháng 1-1878), gần
như cùng độ tuổi với Đa minh Saviô ( sinh năm 1842, còn
Humberto thì năm 1844). Người ta vô cùng cảm kích khi nghĩ
rằng hàng ngàn trẻ em đã lãng quên lời hứa ấy trong các trò
chơi của tuổi ấu thơ. Đa Minh thì ngược lại, đã trung thành với
lời hứa ấy một cách anh hùng mãi tới giờ từ giã cõi đời.
Ngày 8 tháng 12, Đức Piô IX trước một tập đoàn đông đặc các
Hồng y và các Giám mục, đã công hố như một chân lý đức tin
rằng Mẹ Maria, ngay từ giây phút đầu đời của Ngài, đã được
Thiên Chúa giữ cho khỏi “tội nguyên tổ".

37 Pages 361-370

▲back to top

37.1 Page 361

▲back to top
Đa Minh Saviô, nhân một lúc tạm nghỉ trong ngày lễ tại
Nguyện xá, đã bước vào bên trong nhà thờ Thánh Phanxicô
Salê, quì gối trước bàn thờ Đức Mẹ, rút từ trong túi ra một mẩu
giấy nhỏ trên đó cậu đã viết mấy hàng. Đó là kinh tận hiến của
cậu cho Đức Mẹ Chúa Trời, một kinh nguyện ngắn sẽ trở nên
nổi tiếng trong đại gia đình Salêdiêng.
“Lạy Mẹ Maria, con xin dâng Mẹ trái tim con xin làm cho nó
mãi mãi là của Mẹ. Lạy Chúa Giêsu, và Mẹ Maria, xin hãy mãi
mãi là bạn của con. Nhưng xin thương xót con, xin khiến cho
con chết tức khắc còn hơn là bị rủi ro mắc phạm dù chỉ một tội
mà thôi".
Tối đến, khắp cả kinh thành Torino đều ngời lên những đốm
sáng lộng lẫy tuyệt vời. Hàng ngàn những ngọn đèn nhỏ muôn
mầu rực sáng tại các cửa sổ, trên các sân thượng, dọc theo hai
bờ sông Pô. Quần chúng lũ lượt xuống đường, và mấy đám
rước kiệu vĩ đại kéo về Thánh đường Đức Bà An Ủi. Các thanh
niên của khu Valdocco xúm quanh Don Bosco, cũng vừa diễu
hành vừa hát vang khắp các phố phường của chốn đế đô.
Đứa bé mô côi ở khu phố Thánh Đa Minh
1854, các năm đầy rẫy những biến cố trong cuộc sống của Don
Bosco, đã kết thúc bằng một tình tiết gợi buồn. Kế bên nhà thờ
Thánh Đa Minh, hội đồng thánh phố đã phải khẩn trương mở
một viện mồ côi tạm bợ để đón nhận khoảng một trăm đứa bé
trai mà nạn dịch tả đã cướp mất bố mẹ. Khi những cơn lạnh
đầu mùa kéo đến, ông đô trưởng Notta đã ngỏ lời với các Học
viện Công giáo để người ta nhận nuôi một số đứa. Don Bosco
đã đón nhận hai mươi em. Một trong những đứa ấy tên là
Pietro Enria và nó nhớ lại biến cố ấy như sau:
“Một hôm, Don Bosco đã tới. Tôi chưa từng gặp ngài lần nào.
Ngài hỏi họ và tên của tôi, rồi ngài bảo tôi: Con có muốn đến
với cha không? Chúng ta sẽ mãi mãi là bạn tốt của nhau.

37.2 Page 362

▲back to top
Tôi đáp:
- Vâng, thưa ông.
- Người đang đứng cạnh con, là anh trai của con hả?
- Vâng, thưa ông.
- Hãy bảo anh ấy cùng đến luôn một thể".
Mấy ngày sau, anh em chúng tôi được dẫn đến nguyện xá cùng
với vài đứa khác. Mẹ tôi đã chết vì nạn dịch tả và bố tôi hồi ấy
cũng mắc cùng một chứng bệnh. Tôi còn nhớ là mẹ của Don
Bosco đã la ngài:
“Con thì lúc nào cũng nhận thêm những đứa mới, nhưng ta sẽ
nuôi ăn và may mặc cho chúng ra sao đây?"
Bản thân tôi, quả vậy, lúc mới gia nhập tôi đã phải ngủ nhiều
đêm liền trên một đống lá khô mà chẳng có gì đắp ngoài một
cái mền nhỏ. Don Bosco và mẹ ngài, tối đến vá lại quần áo và
những cái áo vét rách bươm của chúng tôi vì chúng tôi chỉ có
độc nhất một bộ mà thôi.
Cho bọn trẻ mồ côi, Don Bosco đã thu xếp một chỗ đặc biệt
trong tòa nhà mới. Ròng rã hơn một năm trời, ngài đứng lớp
giảng dạy cho chúng, buổi đầu chỉ có mình ngài, rồi sau đó với
sự giúp đỡ của các thầy tư giáo và các bạn thân. Những đứa
khác trong nguyện xá gọi chúng là “Lớp những Bé lùn” vì bọn
trẻ mồ côi đều còn nhỏ xíu.
Pietro Enria đã sống suốt đời với Don Bosco, chính ngài là
người đã ở bên săn sóc nó như săn sóc một đứa con ruột thịt
trong căn bệnh cuối cùng của nó và đã vuốt mặt cho nó.
Bệnh dịch tả, trong số bao nhiêu chứng bệnh khác từng xảy đến
trong thành phố, ít ra đã đem đến đôi điều tốt lành cho Nguyện
xá, ít là do hệ quả của tình thế: sự cứu giúp mà bọn trẻ đã cống

37.3 Page 363

▲back to top
hiến một cách quảng đại cho những người bị dịch đã khiến
chúng được biết đến và được hâm mộ bởi các thị dân. Một lời
biểu dương của ông đô trưởng đã tranh thủ được cho chúng
niềm tin của các nhà cầm quyền. Sự kiện hầu như không sao
tin nổi nữa là không một đứa nào trong những trẻ chí nguyện
ấy (nói được là ngụp lặn ngay giữa sự lây lan) đã bị nhiễm
bệnh, đã thuyết phục rất nhiều người là nên coi trọng những lời
lẽ "điên khùng” của Don Bosco.
Niềm vui của Cha là được ở giữa các con

37.4 Page 364

▲back to top
Chương 33
1855: NHỮNG THIẾU NIÊN
"PHẠM PHÁP" Ở KHÁM LỚN
Năm 1855 đã chứng kiến một vụ đối đầu hết sức gây cấn giữa
Nhà nước và Giáo Hội.
Tháng 10-1852, thay thế cho Massimo d' Anzelio, Camille
Cavour đã trở thành Thủ tướng. Kẻ hậu duệ đáng ngại và giàu
sụ này, xuất thân từ một gia đình quý tộc, đã quất những đòn
đau điếng vào xứ Piemonte ù lì ngái ngủ. Các luật gia tỉnh lẻ,
quen thói ngâm nga trên các băng ghế tại nghị viện những câu
thơ của các thi hào Dantes và Mameli, đã được kêu gọi hãy nói
đến những vấn đề thực tiễn như: ngân sách chi thu, chính sách
thuế má, những vụ đầu tư vốn. Các tuyến đường xe lửa vươn
tới độ dài 850 cây số, ngang tầm với tất cả các tuyến đường
khác của Ý. Tại Ligurie, đã khai sinh tổ hợp công nghiệp
Ansaldo (tổ hợp công nghiệp lớn nhất nước Ý), các nông
trường xây dựng Odero và Orlando. Người ta đẩy mạnh việc
đào các kênh mương tại vùng Vercelli. Nông nghiệp được ưu
đãi bởi việc bãi bỏ các sắc thuế đánh vào các loại hạt giống.
Khoảng cuối năm 1854, đã được đề nghị như là sự cải tổ về
kinh tế, một dự án luật đã được đệ trình lên phòng đặc nhiệm
do chính Bộ trưởng Urbain Ratazzi: “Một mục tiêu chuẩn xác,
sử gia Francesco Traniello viết, nhằm triệt hạ ảnh hưởng của
Giáo Hội". Dự luật này đề nghị giải thể các dòng tu chiêm
niệm, tức những dòng nào không chuyên lo việc giảng dạy,
cũng như việc thuyết giáo, và cả việc chăm sóc những người
bệnh, và việc tịch biên toàn bộ tài sản của các dòng ấy do Nhà
nước tiến hành, sẽ có thể cung ứng cho nhu cầu của các giáo xứ
nghèo hơn cả.

37.5 Page 365

▲back to top
Đây là một sự can thiệp trắng trợn của nhà nước vào đời sống
của Giáo Hội, Traniello viết, đặc biệt nghiêm trọng bởi lẽ Nhà
nước đoạt lấy quyền quyết định đâu là những dòng tu có thể,
theo một tiêu chuẩn tính theo sản phẩm, còn là hữu ích cho xã
hội. Và Camille Cavour đã đi tới chỗ quá quắt khi khẳng định
rằng những dòng tu bị giải thể thậm chí còn chẳng có ích gì
cho Hội Thánh nữa. Về phần mình, các lực lượng Công giáo,
đứng đầu là các vị Giám mục, lại quả quyết rằng "đạo luật
nhắm vào những người anh em ấy” vi phạm trắng trợn các
nguyên tắc phân quyền giữa Giáo Hội và Nhà nước mà chính
Cavour đã nhiều phen công bố là nền tảng cho chính sách của
ông ta.
Người ta thấy trước là, bất chấp sự chống đối mãnh liệt của
giới Công giáo, đạo luật rồi đây sẽ được thông qua tại phòng
đặc nhiệm và tại Thượng viện. Chỉ duy nhà vua mới có thể
chặn đứng nó lại mà thôi.
"Những đám ma lớn tại triều đình!"
Một chiều đông giá lạnh nhằm tháng 12-1854 (các nhân chứng
nói rằng Don Bosco lúc ấy mang một đôi bao tay cũ, rách và
cầm trên tay một gói thư từ). Don Bosco thuật lại cho Don
Alasonatti, Rua, Cagliero, Francesia, Buzzetti và Anfossi là
mình đã mơ một giấc mơ kỳ lạ: ngài đang ở giữa khu đất dành
cho các trò chơi thì đột nhiên, đã thấy xuất hiện một người hầu
của chốn cung đình, mặc đồng phục đỏ, lớn tiếng la: “Đám ma
lớn tại triều đình! Đám ma lớn tại triều đình!". Ngài nói với các
thầy tư giáo của mình là, ngay khi thức giấc, ngài đã biên thư
cho nhà vua để thuật lại giấc mơ ấy của mình.
Năm hôm sau, giấc mơ lại tái diễn. Người hầu áo đỏ trở lại trên
lưng ngựa và la: “Thông báo: không phải đám ma lớn tại triều
đình mà là những đám ma lớn tại triều đình!" lúc hừng đông,
Don Bosco viết một lá thư khác cho nhà vua, khuyến cáo ông

37.6 Page 366

▲back to top
nên "nghĩ cách làm sao để đẩy xa cả các mối đe dọa lẫn các
hình phạt, và nhân cơ hội này yêu cầu nhà vua hãy hết sức
chống đối lại đạo luật đang được nói đến”.
Ngày 5-1-1855, Hoàng Thái hậu Maria Terêxa ngã bệnh nặng.
Sau việc trở bệnh nặng đột ngột, bà từ trần ngày 15 tháng 1,
hưởng dương 54 tuổi. Linh cữu được chuyển từ hầm mộ của
gia tộc Savoia đến vương cung thánh đường Superga ngày 16,
nhằm một hôm tiết trời cực kỳ giá lạnh.
Ngày 20-1, người ta ban Bí tích Xức dầu bệnh nhân cho Hoàng
hậu Maria-Aldelaide, phu nhân của Quốc vương Vittorio
Emmanuel đệ nhị. Hai ngày trước, bà đã hạ sinh một hoàng
nam và bà đã không hồi sức lại được. Bà tạ thế ngày hôm ấy.
Bà chỉ mới ba mươi ba tuổi.
Ngày 11-12, sau hai mươi ngày bệnh nặng, hoàng tử Ferdinand
de Savoia đã qua đời, quận công xứ Genova, bào đệ của nhà
vua. Ông thọ ba mươi ba tuổi.
Các thầy tư giáo tại nguyện xá (là những người duy nhất biết
các giấc mơ và các thư mà Don Bosco gởi cho nhà vua) đều
"thật kinh khi thấy ứng nghiệm một cách chớp nhoáng như vậy
những lời tiên tri của Don Bosco", Don Lemoyne viết, "ngay
cả trong thời kỳ dịch tả hoành hành, người ta cũng chưa bao
giờ thấy ba mồ mả của hoàng gia mở ra chỉ trong vòng một
tháng trời".
Don Francesia khẳng định là vua Vittorio Emmanuel đệ nhị đã
hai lần ngự giá đến gặp Don Bosco và nhà vua đã tỏ ra rất giận
dữ đối với ngài.
Dù sao chăng nữa, đạo luật phế bỏ đã được thông qua tại phòng
đặc nhiệm (94 phiếu thuận đối với 23 phiếu chống) và tại
thượng viện (53 thuận, 42 chống). Nhà vua duyệt ký ngày 29-5.
Thế là đã bị phế bỏ, theo những số liệu do Don Lemoyne đưa

37.7 Page 367

▲back to top
ra, 334 nhà tù trong đó thường trú 5.456 người. Từ La Mã đã
được thông báo "vạ tuyệt thông bất khả kháng" (mà việc giải
vạ chỉ dành riêng cho Đức Giáo Hoàng) nhắm vào "các tác giả,
các kẻ xách động và các người thừa hành luật pháp".
Trong khoảng thời gian đó, hoàng tử út của nhà vua, Victorio
Emmanuel Leopold, cũng từ giã cõi đời, mới có bốn tháng tuổi.
Là thánh nhân hay là kẻ mang xui xẻo (tất cả đều tùy thuộc
người ta đứng từ phía nào mà nhìn sự việc), Don Bosco đã thấy
trước tất cả một cách chính xác.
Người Salêdiêng thứ nhất
Mỗi một tuần, Don Bosco tiếp tục lặng lẽ qui tụ các thầy tư
giáo của mình. Ngài đã nói đến Đức khó nghèo, Đức Khiết tịnh
và Đức Vâng phục, ba nhân đức mà Hội Thánh luôn luôn coi
như là “con đường dấn tới Thiên Chúa”. Ngài đã cắt nghĩa cho
họ là bất cứ ai khấn các lời khấn này, nghĩa là long trọng thế
hứa với Thiên chúa là mình sẽ thực hiện chúng trong đời sống
của mình.
Sau một năm tròn Ngài đã thực hiện các buổi nói chuyện này,
ngài thấy Rua có vẻ là người đã được chuẩn bị nhất. Ngài nói
cho cậu: “Con có cảm thấy khấn được các lời khấn khó nghèo,
khiết tịnh và vâng phục chăng?”. Micae – như cậu sẽ thú nhật
sau này – nghĩ rằng đó chỉ có nghĩa là “gắn bó bản thân mình
hơn với Don Bosco”, nên nhận lời.
Ngày 25-3-1855, ngày lễ Truyền tin. Trong căn phòng nghèo
nàn của Don Bosco, diễn ra một nghi thức không có gì là long
trọng. Don Bosco đứng, lắng nghe. Còn Rua, quì trước tượng
Chúa chịu nạn, thì thầm công thức: “Con xin tuyên khấn cùng
Thiên Chúa sống khó nghèo, khiết tịnh, vâng phục, và tôi đặt
nh tôi trong tay Don Bosco...”. Không có ai khác làm nhân
chứng. Ấy thế mặc lòng, trong giờ phút đó một Tu Hội đã phát

37.8 Page 368

▲back to top
sinh. Don Bosco là Đấng Sáng lập. Micae Rua là người
Salêdiêng đầu tiên.
Kể từ giờ phút đó, đối với cậu cũng như đối với cả Cagliero và
Francesia,chuyện khó nhất chính là ngủ được. Không phải là
họ không muốn ngủ: có những lúc họ đứng mà ngủ đấy. Nhưng
họ không thể tìm ra giờ mà ngủ.
Họ phải tiếp tục việc học của họ và thi đủ mọi môn học mà vào
thời đó có rất nhiều môn dồn dập và rất khó. Đồng thời Don
Bosco trao cho họ việc dạy giáo lý, hộ trực trẻ tại nhà ăn và
trong xưởng thợ, cũng như trong các lớp học cho các em mồ
côi.
Ngày Chúa nhật, Don Bosco sai họ làm việc tại các Nguyện
Xá. Nguyện xá Thiên Thần Bản Mệnh năm đó đột xuất thiếu
mất vị giám đốc. Don Bosco chỉ định Micae Rua làm giám đốc,
với tuổi mới 17. Nguyện xá này được các em thợ cạo ống khói
lui tới. Các em này đeo bên vai cuộn giây và cái dũa gỗ. Chúng
đi lại khắp phố xá với tiếng rao đặc biệt, và chờ xem có gia
đình nào mời gọi chúng quét sạch bên trong lòng các ống khói
trước khi mùa đống tới, lúc mà các lò sưởi cần phải được thông
ngon lành để sưởi ấm cho cả căn nhà.
Đó là những em rất bé nhỏ, vì những ống khói lò sưởi mà
chúng phải leo vào trong vừa dài lại vừa chật hẹp. Chúng
khuôn mặt và đôi bàn tay đen vì mồ hóng.
Trong suốt một thời gian dài, Micae tới Nguyện Xá đó vào
sáng Chúa nhật, quét dọn các căn phòng nhỏ, sắp dặt trật tự nhà
thờ. Khi các đứa trẻ đầu tiên tới, cậu giúp các em chuẩn bị
xưng tội với cha đến làm lễ tại đó. Lúc 9 giờ thì đã có khoảng
một trăm em tới, và Micae “đóng vai trò của Don Bosco” trong
suốt cả ngày. Cậu khởi xướng các trò chơi, nói chuyện với đám
trẻ, hỏi thăm những công chuyện vất vả của chúng, và dạy các
bài giáo lý cho các em.

37.9 Page 369

▲back to top
Buổi chiều, khi dọc theo các con đường, đèn khí đốt cháy sáng,
các trẻ em giã từ. Có vài em đi theo Rua tới tậnValdocco.
“Chào nhé, Micae, chúng ta lại gặp nhau Chúa nhật tới!”.
Rua trở về nhà mệt nhoài. Một chút đồ ăn tối còn để hâm nóng
cho cậu, cho Cagliero, Francesia, Anfossi là những người trở
về từ các nguyện Xá khác, cũng mệt nhoài như cậu. Thế rồi họ
leo lên gác xép sát mái , nơi có giường của họ. Micae nhắc nhớ
lại là cậu thường nằm xuống là ngủ ngay, nhanh như chớp.
Cagliero thức dậy vào một buổi sáng thứ hai kia trên chiếc ghế,
tay còn đang cầm giày. Cậu chưa kịp leo lên đến giường đã ngủ
ngay trên ghế rồi.
Đồng hồ báo thức ban sáng reo vang sớm lắm, sớm đến đáng
sợ; vào lúc bốn giờ sáng, và là bốn giờ sáng trong không khí
lạnh của nước Piemonte, bên Ý...Gioan Cagliero nhớ lại rằng
mùa đông tại Torino đâu phải là chuyện đùa. Tại phòng gác
xép sát mái nhà của chúng tôi, chẳng có lò sưởi ấm, chằng có
ống nước. Để rửa mặt, vào buổi chiều chúng tôi phải sách các
chậu nước lên đó. Nhưng vào buồi sáng giá lạnh đã biến nước
thành nước đá rồi. Để rửa mặt, chúng phải mở gác xép, lấy
tuyết trên mái nhà xuống, và thực hiện việc vò nát tuyết mạnh
mẽ trên tay, trên mặt, trên cổ. Sau ít phút, da chúng tôi bốc
khói! Khi ấy chúng tôi quấn mình trong chiếc chăn và bắt đầu
thời gian học: Rua thì học tiếng Do thái để đọc Cựu Ước,
Francesia thì gọt dũa những vần thơ La-tinh, tôi thì sáng tác
những bài tập âm nhạc”.
Vào tháng 11 năm 1855, Nguyện Xá bắt đầu mở các lớp cấp II
trong nhà. Francesia cùng với tất cả những công việc khác,
kiêm thêm công việc giáo viên dạy văn

37.10 Page 370

▲back to top
Chương, Rua thì dạy toán, Cagliero dạy âm nhạc.
Có khi người ta nghĩ: Không biết Don Bosco có điên không khi
để cho các bạn trẻ theo ngài chất đống các bổn phận học hành
với các công việc bề bộn và mệt nhọc khác? Thế rồi ta phải suy
nghĩ lại xem kết cuộc như thế nào: Gioan Cagleiro làm tới
Hồng Y, chết vào tuổi 88; Mice Rua, đứng đầu Tu Hội
Salêdiêng, sống đến năm 73 tuổi; Gioan Francesia, nhà La-tinh
học có tiếng ở Âu Châu, trụ hạng cho đến năm 92 tuổi. Don
Bosco “biết” được rằng công việc, dù rất khắc khổ đến mấy đi
nữa, cũng không giết người ta quá sớm đâu!
Đối đầu trực diện với Bộ trưởng
Các họa sĩ chuyên vẽ tranh biếm họa chính trị thời ấy, khi họ
minh họa chính phủ, thường vẽ Camillo Cavour với một thân
hình mèo và những hàng ria thật dài, còn Urbano Ratazzi (Bộ
trưởng nội vụ) thì như một con chuột cống vậy. "Gatass và
Ratass" là bí danh của hai ông vào thời ấy.
Đối với Ratazzi (bất chấp những tư thế trái ngược rất rõ nét đối
với hầu hết các quan niệm chính trị), Don Bosco gặp được đủ
mọi thuận lợi. Ông Bộ trưởng nội vụ ngưỡng mộ ngài vì ngài
hoạt động" vì lợi ích của quần chúng nhân dân và khi cứu vớt
các trẻ em nghèo, giải thoát chính phủ khỏi cả núi những lo
toan chồng chất".
Năm 1845, trên đường dẫn tới Stupinigi, một khám đường mới
đã được mở ra tại Torino: khám Lớn. Đây là trung tâm "cải
tạo" dành cho các thanh thiếu niên; nó có thể chứa tới ba trăm
phạm nhân. Don Bosco thường xuyên lui tới nơi ấy một cách
đều đặn và ngài ra sức kết thân với bọn trẻ ấy, bị kết án thông
thường vì tội trộm cắp hoặc du thủ du thực.
Các phạm nhân trẻ được chia làm ba loại. Loại "bị canh chừng
đặt biệt" mà tối đến bị đem nhốt vào Xà lim riêng, loại "bị canh

38 Pages 371-380

▲back to top

38.1 Page 371

▲back to top
chừng thông thường" mà người ta bắt phải bước đi thẳng thắn
bằng những phương tiện quen dùng trong một nhà tù, và loại
"suy đồi" sở dĩ có mặt trong đó là tại có ai đó, quá mỏi mệt vì
chúng, đã phủi tay rũ bỏ "của nợ" ấy bằng cách giao chúng
cho cảnh sát. Chúng qua thời gian tù tội của mình bằng những
công việc nhà nông và trong xưởng thợ nội bộ.
Trong mùa chay năm 1855, Don Bosco đã mở một khóa giáo lý
nghiêm chỉnh cho tất cả các phạm nhân, tiếp nối bằng ba ngày
tĩnh tâm và kết thúc bằng một cuộc xưng tội chung đích thực.
Don Bosco đã hết sức cảm kích vì thiện chí của chúng, đến nỗi
ngài đã hứa sẽ tặng chúng "một món quà đặc biệt". Ngài đến
gặp vị quản đốc và đề nghị tổ chức cho bọn trẻ (đã bị cảnh
giam cầm biến thành đê tiện) một cuộc dạo chơi hào hứng đến
tận Stupinigi.
- Cha nói năng nghiêm chỉnh đấy chứ? Ông quản đốc hỏi với
vẻ ngạc nhiên.
- Nghiêm chỉnh hơn ai hết.
- Cha có biết là tôi sẽ phải chịu trách nhiệm về những tên đào
thoát không?
- Sẽ chẳng có một ai đào thoát cả. Tôi xin hứa danh dự với ông.
- Cha hãy nghe đây, tranh luận nữa cũng vô ích. Nếu cha muốn
có một cái phép như vậy, cha hãy lên hỏi ngài Bộ trưởng ấy.
Don Bosco lên đường đến gặp Ratazzi và thản nhiên trình bầy
đề án của mình.
- Đồng ý, ông Bộ trưởng nói. Một cuộc dạo chơi chắc chắn sẽ
có ích đối với các tù nhân trẻ. Tôi sẽ ra những lệnh cần thiết
sao cho suốt dọc lộ trình sẽ có bố trí đủ số những cảnh sát viên
mặc thường phục.

38.2 Page 372

▲back to top
- Ồ không! Don Bosco kịch liệt phản đối. Điều kiện duy nhất
mà tôi đặt ra đó là không có một cảnh vệ nào bảo vệ chúng tôi
cả. Và ngài phải hứa danh dự với tôi như vậy. Nguy cơ, chính
tôi là người gánh chịu. Nếu có đứa nào đào tẩu, chính tôi là kẻ
mà ngài sẽ tống vào tù.
Họ cùng cười, rồi Ratazzi trở lại nghiêm chỉnh:
- Don Bosco, cha hãy biết điều một chút, không có các cảnh sát
viên, cha sẽ không dẫn về cho tôi được một mống nào đâu.
- Còn tôi thì tôi xin nói ngược lại là tôi sẽ dẫn chúng về đủ số.
Chúng ta hãy cá độ với nhau nào.
Ratazzi ngẫm nghĩ vài giây, rồi:
- Được rồi, tôi chấp thuận. Tôi tin tưởng ở cha và tôi cũng tin
tưởng ở các cánh sát viên là, trường hợp xẩy ra đào tẩu họ sẽ
không mất quá nhiều thời gian để bắt trở lại cho tôi vài ba đứa.
Một ngày tự do
Don Bosco trở lại khám Lớn và thông báo về cuộc dạo chơi.
Các tù nhân trẻ hú lên vì mừng rỡ. Ngay khi chúng vừa yên
lặng trở lại, ngài nói tiếp:
"Cha đã hứa danh dự là toàn thể các con không trừ một ai, các
con sẽ ứng xử đàng hoàng và sẽ không tìm cách đào tẩu. Ngài
Bộ trưởng cũng đã hứa danh dự với cha là ngài sẽ không cử
cảnh vệ tới, dù là mặc đồng phục hay thường phục cũng vậy.
Nhưng giờ đây, cả các con nữa, các con cũng phải hứa với cha,
nếu như dù chỉ có một người đào thoát mà thôi, cha sẽ bị mất
uy tín và bị ô danh vĩnh viễn. Người ta chắc chắn sẽ không bao
giờ còn cho phép cha đặt chân trở lại đây nữa. Liệu cha có thể
tin cậy ở các con được không?
Chúng thảo luận với nhau trong chốc lát. Rồi mấy đứa lớn nhất
tuyên bố:

38.3 Page 373

▲back to top
"Chúng con xin hứa với cha. Chúng con sẽ trở lại đầy đủ và
chúng con sẽ ứng xử đúng qui cách".
Hôm sau, khí trời mát dịu: một ngày xuân đẹp trời. Họ lên
đường đi Stupinigi dọc theo những lối mòn do dân quê vạch
sẵn. Họ chạy, họ nhảy, hò la…Don Bosco là trung tâm điểm
của cả đám, luôn miệng nói đùa và kể chuyện này đến chuyện
khác. Phía trước con lừa đủng đỉnh bước đi, lưng mang nặng
lương thực, thực phẩm.
Tại Stupinigi, Don Bosco cử hành Thánh Lễ. Họ ăn trên cỏ và
họ hăng say lao vào những cuộc thi và những trò chơi dọc theo
ven sông Sangone. Họ đến tham quan khu công viên và lâu đài
hoàng gia. Một bữa lót lòng, rồi lên đường ra về vào lúc mặt
trời lặn. Con lừa không còn phải chuyên chở gì nữa mà Don
Bosco thì có phần hơi mệt. Bọn trẻ đưa ngài lên yên và tay kéo
dây cương dọc đến trước nhà tù mà miệng vẫn còn vang tiếng
hát. Ông quản đốc vội vàng nhẩm đếm: chúng vẫn còn đủ số.
Phút chia tay thật buồn diễn ra trước cổng Khám Lớn. Don
Bosco chào từng đứa một và quay về nhà, cõi lòng se thắt vì đã
chỉ có thể giải phóng chúng vỏn vẹn mỗi một ngày.
Ông bộ trưởng, ngược lại khi được báo cáo lại vụ việc, đã vô
cùng mừng rỡ như sau một thắng lợi lớn.
- Tại sao cha làm được những chuyện như vậy mà chúng tôi thì
lại không sao làm nổi? Một hôm ông ta đã hỏi Don Bosco.
- Bởi vì nhà nước thì lo chỉ huy và trừng trị. Họ đâu có làm
được gì hơn nữa. Trong khi đó thì tôi, tôi yêu thương bọn trẻ
ấy. Và vì là linh mục nên tôi có một sức mạnh tinh thần mà
ngài không thể nào hiểu được.
Chín trang để trình bày phương pháp của mình

38.4 Page 374

▲back to top
Người ta thường hay xin Don Bosco giải thích trong một cuốn
sách hệ thống giáo dục của ngài. Sự thiếu thời gian, sự bất khả
dừng lại để tư duy một cách có hệ thống về các lực truyền
trong các hoạt động của mình đã ngăn ngài để đời cho chúng ta
một tác phẩm "có tính khoa học".
Năm 1876, ngài thu hết can đảm và vẽ lại một bản "phác thảo"
về hệ thống giáo dục" dùng trong các nhà Salêdiêng". Tác
phẩm này chỉ gồm vỏn vẹn chín trang giấy.
"Hệ thống này hoàn toàn dựa vào lẽ phải, tôn giáo và sự thân
thương. Nó loại trừ mọi sự trừng phạt thô bạo và ra sức tránh
cả đến những hình phạt nhẹ nữa".
Vị giám đốc và những người hộ trực như là những người cha
thân thương. Họ trò chuyện, hướng dẫn khuyên bảo và sửa sai
với lòng dịu hiền. Người học sinh không bao giờ bị hạ nhục,
trở thành một người bạn, gặp được nơi thầy hộ trực một vị ân
nhân muốn giúp em trở nên tốt, tránh cho em những sự hạ
nhục, những hình phạt và những nỗi cay đắng xót xa.
Nhà giáo dục, nhờ tranh thủ được niềm tin của kẻ thọ ân, sẽ có
thể theo em khi em đã là người trưởng thành, có thể khuyên
bảo em và thậm chí cải tạo em.
Việc thực thi hệ thống này hoàn toàn được đặt cơ sở trên những
lời sau đây của thánh Phaolô: “Đức ái thì hiền hòa và nhẫn nại,
nó chịu đựng tất cả nhưng hy vọng tất cả, nó nhận chịu bất kể
sự quấy rối nào". Do đó, chỉ duy người Kitô hữu mới có thể áp
dụng biện pháp mà nhà giáo dục cần phải liên tục sử dụng tới.
Vị giám đốc, ngoài ra phải tận hiến hoàn toàn cho những kẻ mà
ngài đảm trách và bao giờ cũng phải có mặt cạnh chúng những
khi mình rảnh rỗi."
Giấc mơ về “đời sống Nguyện Xá xưa” như một lời kêu gọi

38.5 Page 375

▲back to top
Nếu Don Bosco viết các khảo luận một cách khó khăn, thì lại là
một nhà ảo thuật trong việc thông tri cuộc sống đã được sống
trong khi kể chuyện. Do đó, nhiều nhà chuyên môn đã quả
quyết rằng trong khi khảo luận về hệ thống giáo dục dự
phòng nghèo nàn, thì “giấc mơ” Don Bosco kể trong lá thư
năm 1884 là một bản diễn tả sống động và hấp dẫn nhất của
tính bén nhạy giáo dục của Don Bosco.
Don Bosco ở lại tại Roma vào tháng Năm năm đó để thương
lượng về các chuyện quan trong cho Tu hội. Ban đêm thì ngài
“mơ” về Nguyện Xá xưa (Nguyện xá mà những Đaminh
Saviô, Rua, Cagliero đã sống) và có thể đem đối chất nó với
Nguyện Xá của thời buổi 1884 tại Valdocco. Thế là ngài đã
đọc cho viết lá thư ngày 10-5-1884. Cha Pietro Stella quả
quyết: “Đây có thể được coi là một trong các tài liệu hữu hiệu
và phong phú nhất về khoa sự phạm của Don Bosco”.
Chúng ta hãy tóm lược lá thư đó lại như sau.
“Cha thấy mình như đáng ở trong Nguyện Xá xưa vào giờ
chơi. Đây là một quang cảnh rất sống, rất động, rất vui. Người
chạy, người nhẩy, người giúp cho kẻ khác nhẩy. Người thì chơi
nhẩy xa kiểu nhái, người thì chơi trò “Phá Vạch đứng”, kẻ thì
chơi banh. Chỗ này một nhóm tụ lại, say sưa nghe một linh
mục kể chuyện, chỗ khác một thầy tư giáo ở giữa các em chơi
trò lừa bay Trò chơi Hành nghề. Bọn trẻ hát, cười khắp
nơi; và khắp nơi có các tư giáo và linh mục, và bọn trẻ bao
quanh họ, cảnh huyên náo vui vẻ. Người ta quả thấy được giữa
thanh thiếu niên và các bề trên có sự thân tình, tin tưởng. Cha
rất sung sướng trước cảnh tượng này, và người đi theo cha nói
với cha:
Cha xem, tình thân mật đưa đến sự quyến luyến, và sự
quyến luyến đem lại niềm tin tưởng. Và điều đó cởi mở

38.6 Page 376

▲back to top
lòng con người, các thanh thiếu niên thì bộc lộ lòng
mình không hề sợ hãi cho các thầy dạy, các hộ trực và
các bề trên của mình. Chúng thành thật trong khi xưng
tội, và rất dễ dạy bảo trước bất cứ điều gì mà người
chúng chắc chắn chúng đang được người ấy yêu
thương, ban lệnh cho chúng.
Vào lúc đó một người học trò xưa của cha, anh Giuse Buzzetti,
lại gần cha và nói với cha:
Cha có muốn xem các thanh thiếu niên hiện nay của
Nguyện Xá không?
Cha thấy tất cả chúng đang chơi. Nhưng cha không còn nghe
thấy những tiếng la hét vui vẻ và các tiếng hát nữa, cũng chẳng
có cái náo động hay sức sống như trong cảnh trước. Nơi nét
mặt lộ ra sự buồn chán, sự mệt mỏi, khinh bỉ, lãnh đạm. Bên
cạnh những học sinh vô tư, vui đùa, chạy nhảy, cha thấy một số
đông lủi thủi một mình, tựa vào cột, đứng ở cầu thang, những
người khác đưa mắt ranh mãnh nghi ngờ, nhìn quanh. Thánh
Lu-y chắc cũng cảm thấy đỏ mặt, hổ thẹn khi phải ở với
chúng.
Các học sinh bây giờ khác xa với thời chúng ta ngày
xưa biết mấy! – Buzzetti thốt lên.
Tiếc quá! Nhưng làm sao chúng ta có thể giúp các bạn
trẻ thân yêu của chúng ta được sinh động nhỉ?
Phải dùng tình yêu, cha ạ.

38.7 Page 377

▲back to top
Tình yêu à? Thế học sinh của cha chưa được yêu mến
đầy đủ sao? Con không thấy cha đã chịu nhiều đau đớn,
cực nhọc vì chúng, cho đến bây giờ cha vẫn đang chịu
bao đau khổ, lao lực, mệt nhọc, nhục mạ, chống đối,
bách hại, chỉ vì để mang lại của ăn, nhà ở, thày dạy, và
nhất là để lo cho phần rỗi linh hồn của chúng. Còn các
giám đốc, tổng quản, thầy giáo, hộ trực, họ đã chẳng
tiêu hao những năm tháng tuổi trẻ của họ cho chúng là
gì sao?
Nhưng còn thiếu một điều tốt hơn – Buzzetti nhấn
mạnh. Đó là yêu mến chúng chưa đủ, mà chúng còn
phải biết được, thấy được là chúng ta yêu mến chúng.
Nhưng chúng không thấy được rằng chúng ta đã làm tất
cả mọi sự vì lòng yêu mến chúng sao.
Không.Vậy thì còn cần phải làm gì nữa?
Chớ gì chúng cảm thấy chúng được yêu mến nơi những
gì mà chúng thích thú, khi thấy họ chia sẻ những sự
thích thú của tuổi thơ của chúng, nhờ thế chúng học để
đem lòng yêu mến những chuyện mà tự nhiên chúng
không thích mấy: đó là kỷ luật, học hành, hãm dẹp bản
thân. Con xin nói rõ hơn: cha hãy xem kìa, xem các học
sinh đang trong trò chơi kìa. Thế các Salêdiêng của cha
đang ở đâu?
Cha quan sát và thấy rất ít các cha và các thầy hòa mình với
học sinh, còn chơi với chúng lại còn ít hơn nữa. Các bề trên

38.8 Page 378

▲back to top
không còn là linh hồn của trò chơi, đa số đi đi lại lại, nói
chuyện với nhau, không chút bận tâm gì đối với học sinh. Một
số khác chỉ biết điềm nhiên nhìn trẻ chơi, không nghĩ gì đến
chúng; có những người canh chừng xa xa, xem có ai lỗi phạm,
họa hiếm lắm mới có người biết cảnh cáo sửa lỗi, nhưng đầy đe
dọa, vài tu sĩ Salêdiêng muốn tới tiếp xúc với một nhóm thanh
thiếu niên nào đó, nhưng cha thấy chúng khôn khéo tìm cách
xa lánh các thầy và các bề trên của chúng.
Vậy nên Buzzetti mới tiếp tục nói:
Ngày xưa ở Nguyện Xá có bao giờ cha xa chúng con
đâu, nhất là trong các giờ chơi? Cha còn nhớ những
năm hạnh phúc đó chứ? Thật sung sướng như thiên
đàng, một thời kỳ mà chúng con luôn ghi nhớ với biết
bao nhiêu tình mến; bởi vì khi ấy tình yêu là luật sống
giữa chúng ta, và giữa cha và chúng con nào có gì dấu
ẩn.
Đúng vậy, hồi đó mọi sự đều là nguồn vui đối với cha.
Nhưng bây giờ con thấy đấy, những cuộc gặp khách
liên tục, rồi những công việc bề bộn và sức khỏe yếu
kém khiến cha không thể nào làm việc ấy được nữa,
con hiểu chứ?
Vâng, con hiểu. Cha không thể, nhưng tại sao các tu sĩ
Salêdiêng không bắt chước cha? Tại sao cha không
nhấn mạnh, không đòi hỏi các tu sĩ của cha phải đối xử
với thánh thiêu niên như chính cha đã đối xử? Hãy yêu
thích những gì các thanh thiếu niên yêu thích, rồi chúng

38.9 Page 379

▲back to top
sẽ thích những điều các bề trên yêu thích. Ngày nay bề
trên chỉ còn là bề trên chứ không còn là người cha,
người anh em hay người bạn nữa; vì thế chúng sợ hãi
và ít yêu mến các ngài. Vậy nếu muốn sống một lòng
một trí vì yêu mến Chúa Giêsu, thì cần phải phá tan bức
tưởng ngăn cách, đố kị và thay vào đó bằng lòng tin
yêu, tín nhiệm. Có như thế, việc vâng phục mới hướng
dẫn thanh thiếu niên như người mẹ dìu dắt con mình.
Khi ấy hoàn cảnh sống hòa thuận, an vui xưa kia sẽ trở
lại trong Nguyện Xá.
Nhưng phải làm sao để có thể phá đổ bức tường ngăn
cách đó?
Phải thân thiết với các thanh thiếu niên, nhất là trong
giờ chơi. Thiếu thân thiết, sẽ thiếu yêu thương, thiếu
yêu thương, tất nhiên sẽ thiếu tín nhiệm. Ai muốn được
yêu mến, thì cần phải tỏ ra mình yêu mến. Chúa Giêsu
Kitô đã trở nên bé nhỏ với những người bé nhỏ, và đã
mang lấy thân phận hèn yếu của chúng ta. chính Ngài là
vị Thầy của tình thân thiện. Bao lâu thầy giáo còn ngồi
trên ghế giảng, thì bấy lâu vẫn còn là một vị thầy dạy
mà thôi, nhưng một khi hòa mình đi chơi chung với
thanh thiếu niên, thầy sẽ trở thành như một người có
lòng thương mến. Rất nhiều thanh thiếu niên biết cải
hóa vì vài lời rỉ tai các em lúc các em đang hăng hái vui
chơi. Ai biết mình được yêu sẽ đáp lại tình yêu, và ai

38.10 Page 380

▲back to top
được yêu mến sẽ được mọi sự, nhất là nơi các thanh
thiếu niên. Tín nhiệm là dòng điện lưu hành giữa thanh
thiếu niên và Bề Trên. Chính nhờ có tình yêu đó mà bề
trên chịu đựng mọi lao nhọc, nhàm chán, vô ơn, quấy
phá, thiếu sót, lơ đãng của trẻ nhỏ. Chúa Giêsu đã
không bẻ gãy cây sậy dập nát, cũng chẳng dập tắt tim
đèn còn leo lét. Ngài là gương mẫu của các con. Nhờ
thế sẽ không còn thấy ai làm việc vì hư danh; phạt để
trả thù lòng tự ái của mình bị tổn thương; để cho tạo vật
chiếm hữu con tim của mình, và vì nịnh hót kẻ ấy, mà
sao nhãng tất cả các trẻ khác, hay vì vị nể mà sợ cảnh
cáo những ai đáng cảnh cáo. Tại sao chúng ta lại phải
thay thế tình yêu bằng một thứ luật lệ lạnh lùng?
Don Bosco kết luận lá thư dài này bằng những lời ngài viết
trong khi khóc (theo như chính chứng từ của vị thư ký của
ngài):
“Chỉ cần một bạn trẻ bước vào trong nhà Salêdiêng là Đức
Trinh Nữ Rất thánh lập tức tiếp nhận em đó vào trong sự che
chở đặc biệt của Mẹ. Hỡi các con thân mến, đã gần đến thời
gian cha phải lìa bỏ các con mà đi về cõi đời đời. Các con biết
người cha già cả này mong muốn điều gì nơi các con chăng?
Không có gì khác ngoài việc các con trở lại với các thời kỳ
hạnh phúc của Nguyện Xá: đó là những ngày thương mến đậm
đà và tin tưởng giữa các người trẻ và các bề trên; những ngày
của tinh thần chiếu cố và chịu đựng lẫn nhau, vì tình yêu Chúa
Giêsu Kitô, những ngày của tình tương thân tương ái; những
ngày của các trái tim rộng mở cho nhau với tất cả sự đơn sơ và

39 Pages 381-390

▲back to top

39.1 Page 381

▲back to top
ngay thẳng, những ngày của đức yêu thương và của niềm vui
đích thực dành cho tất cả mọi người”.
Ai vào Nguyện xá hay nhà Salêdiêng là Đức Trinh nữ Maria
tiếp nhận em đó vào trong sự che chở của Mẹ!

39.2 Page 382

▲back to top
Chương 34
VĨNH BIỆT MẸ GIÀ
VÀ MỘT CẬU BÉ
Chúa nhật đầu tháng Tư 1855, Don Bosco giảng cho các con
cái mình để nói với chúng về sự thánh thiện. Một số đứa mặt
mày nhăn nhó như khỉ gặp mắm tôm. Riêng Đaminh Saviô rất
chăm chú lắng nghe. Don Bosco giảng giải, bằng giọng truyền
cảm và đầy sức thuyết phục của ngài, nên cậu cảm thấy rằng
bài giảng dường như được soạn riêng cho chính mình. Đạt đến
sự thánh thiện, như chàng hoàng tử Lu-y Gonzaga, như nhà
truyền giáo vĩ đại Phanxicô Xaviê, như các thánh tử đạo của
Hội thánh…
Kể từ giờ phút ấy, Đaminh bắt đầu mơ mộng, và giấc mơ của
cậu chính là nên thánh.
Ngày 24 tháng 6, ngày lễ bổn mạng của Don Bosco, một lễ lớn
ở Nguyện Xá, cũng như mọi năm, đáp lại lòng quí mến và
thiện chí mà bọn trẻ đã chứng tỏ với ngài, Don Bosco tuyên bố:
ai ước nhận được từ nơi cha. Cha cam đoan sẽ làm hết khả
năng của mình để ai nấy đều được mãn nguyện.
Một tờ giấy với năm từ
Khi đọc các tờ giấy, Don Bosco bắt gặp những đề nghị cả
nghiêm túc lẫn phi lý. Nhưng ngài cũng gặp những thỉnh
nguyện quá lố khiến ngài mỉm cười: một đứa đã mong muốn có
một trăm ký kẹo nu-ga “để ăn suốt năm”. Trên tấm giấy của
Saviô, ngài gặp năm từ: “Xin giúp con nên thánh”.
Don Bosco coi trọng những lời trên. Ngài gọi Đaminh Saviô
đến và bảo: “Cha muốn cống hiến cho con công thức của sự
thánh thiên, nó đây: thứ nhất: niềm vui, những gì khiến con bối
rối và cướp mất sự bình an đều không đến từ Thiên Chúa. Thứ

39.3 Page 383

▲back to top
hai: các bài vở trường lớp và các bổn phận đạo đức của con,
hãy chuyên cần trong lớp, trung kiên trong việc học, trung kiên
trong kinh nguyện. Làm mọi sự ấy, không phải do tham vọng
mà do lòng mến Chúa. Thứ ba: mưu ích cho người khác, hãy
luôn luôn giúp đỡ chúng bạn, cho dù việc này đòi hỏi con phải
hy sinh nhiều. Toàn bộ sự thánh thiện là như thế đó”.
Đaminh tiến tới thật. Trong cuộc sống của Đaminh Saviô mà
Don Bosco đã viết ngay sau khi cậu qua đời, rất nhiều sự kiện
bình thường mà đầy cảm động đã được kể lại. Chúng tôi chỉ
xin đơn cử một chuyện duy nhất.
Một hôm, một thiếu niên đem vào nguyện xá một tạp chí bằng
tranh và những hình vẽ đi ngược lại với sự đoan trang nết na.
Năm sáu đứa bạn bu lấy nó. Chúng ngắm nghía với vẻ đầy
thích thú, Đaminh tiến lại gần; Cậu đón lấy tờ báo từ tay chủ
nó và xé vụn ra. Thằng bé phản kháng, nhưng Đaminh cũng
phản kháng với giọng kẻ cả: “Mấy thứ đồ quỉ này mà bạn dám
đem vào nguyện xá ư? Đang khi Don Bosco phải cực khổ đêm
ngày để giúp chúng ta trở nên những công dân lương thiện và
những người Kitô hữu tốt, thì bạn lại lôi vào nhà của ngài
những văn hóa phẩm đồi trụy dơ dáy. Những hình ảnh ấy xúc
phạm đến Chúa và không được phép lọt vào đây”.
Kỳ nghỉ hè đã đến và đã trôi qua mau lẹ.
Khi bọn trẻ trở lại nguyện xá vào tháng mười, Don Bosco gặp
lại Đaminh Saviô và đã xúc động mạnh:
- Con không nghỉ ngơi gì trong kỳ hè sao?
- Thưa cha, có chứ, sao vậy?
- Con xanh xao hơn thường lệ nhiều, tại sao thế?
- Chắc tại con mệt vì đường xa, và cậu mỉm cười thản nhiên.

39.4 Page 384

▲back to top
Nhưng đó không phải là một cơn mệt mỏi đột xuất. Đôi mắt
trũng sâu, bộ mặt xanh mét và gầy guộc cho thấy rõ là sức khỏe
của Đaminh đã bị tổn thương nghiêm trọng. Don Bosco quyết
định áp dụng những biện pháp đề phòng.
“Năm nay con sẽ không lên học trên thành phố nữa. Đi về lầm
lũi dưới mưa rơi và tuyết lạnh có thể gây nguy cho con. Con sẽ
theo học các lớp của Don Francesia ngay tại đây, trong nhà
này. Nhờ vậy, con có thể nghỉ thêm ít nhiều vào buổi sáng. Và
đừng có quá tích cực trong việc học, sức khoẻ là một tặng
phẩm của Chúa, ta không được phép phá hoại nó”.
Đaminh vâng lời. Nhưng mấy hôm sau, như thể cậu đã thấy
trước chuyện gì đó thật nghiêm trọng sắp xảy đến với mình,
cậu đã thưa với Don Bosco.
“Xin cha hãy giúp con nên thánh, lẹ lên!”
Hội Bạn “Đức Mẹ Vô nhiễm”
Đaminh đã trở thành người bạn lớn của Micae Rua và của
Gioan Cagliero, dù mỗi người ấy đều hơn cậu cả bốn đến năm
tuổi. Các bạn thân khác của cậu đều là những thiếu niên xuất
sắc, mới gia nhập nguyện xá mấy năm gần đây: Bongiovanni,
Durando, Cerutti, Gavio, Massaglires.
Đến đầu năm 1855, số nội trú sinh của nguyện xá là 153 em:
63 học sinh học sinh và 90 thợ phụ.
Mùa xuân, Đaminh chợt nảy ra một ý kiến tuyệt vời. Sao
không qui tụ tất cả các thiếu niên có thiện chí vào một “hội
kín” để đào tạo thành một nhóm gắn bó chặt chẽ với nhau gồm
những tông đồ nhỏ trong tập thể các trẻ em khác? Cậu đem
điều này ra nói với mấy người bạn, ý kiến được mọi người
đồng tình ủng hộ. Họ quyết định đặt tên hội là “Hội Vô
Nhiễm”.

39.5 Page 385

▲back to top
“Don Bosco cho phép lập hội, nhưng khuyến cáo không nên
hấp tấp tiến hành công việc. Làm một cuộc thử nghiệm, thảo
một bản nội qui rồi ta sẽ bàn lại sau”.
Họ đã thử, sau phiên họp đầu tiên, họ tìm xem nên rủ những ai
đăng ký. Ít thôi, đáng tin cậy, biết giữ kín. Họ thảo luận về
trường hợp Francesia, vị giáo viên rất trẻ dạy bộ môn văn

39.6 Page 386

▲back to top
Chương, một chàng trai ngây thơ vô tội, là bạn của mọi người.
Nhưng họ đã gạt chàng qua một bên vì đó là một người hay nói
[lắm mồm], với chàng, bí mật sẽ không giữ kín được lâu.
Hội đồng giao cho ba người đã được ghi danh việc phác thảo
bản nội qui: Micae Rua, mười chín tuổi, Giuse Bongiovanni,
mười tám, Đaminh Saviô, mười bốn. Don Bosco khẳng định là
chính Đaminh Saviô đã thảo văn bản. Mấy người kia nhuận
chính lại.
Bản nội qui ngắn gọn gồm hai mươi mốt điều khoản. Các hội
viên hứa trở nên tốt hơn dưới sự bảo trợ của Đức Mẹ và với sự
trợ giúp của Chúa Giêsu Thánh Thể, hứa giúp đỡ Don Bosco
bằng cách trở nên, với sự thận trọng và tế nhị, những tông đồ
nhỏ giữa chúng bạn, hứa gieo rắc niềm vui và sự hòa thuận
chung quanh mình.
Điều 21, điều khoản cuối cùng, tóm lược tinh thần của Hội:
“Một niềm tin tưởng chân thành, đầy tình con thảo, vô bờ nơi
Mẹ Maria, một sự trìu mến phi thường đối với Mẹ. Một lòng
sùng kính bền lâu sẽ khiến chúng ta làm chủ mọi trở ngại, kiên
trì trong các quyết định, nghiêm khắc với chính mình, hòa nhã
với người khác, và đúng mực trong mọi sự.
Hội đã được khai sinh ngày 8-6-1856 trước bàn thờ Đức Mẹ,
trong nhà thờ thánh Phanxicô Salê. Mỗi người đều hứa sẽ trung
thành với lời tuyên hứa.
Hôm ấy, Đaminh đã thực hiện được kiệt tác phẩm của mình.
Cậu chỉ còn sống được chín tháng, nhưng Hội Vô Nhiễm của
cậu sẽ tồn tại hơn một trăm năm (tính chẵn đến năm 1967).
Trong tất cả các nhà và nguyện xá Salêdiêng, nó đã là đội quân
ưu tú gồm các thiếu niên tự nguyện hiến thân cho những ơn
kêu gọi làm linh mục tương lai.

39.7 Page 387

▲back to top
Các thành viên Hội chọn “chăm sóc” cho một hàng mục thiếu
niên mà họ gọi là những “thân chủ” theo cách nói riêng của họ:
những đứa vô kỷ luật, lắm mồm như vẹt và ham đánh nhau như
gấu. Mỗi hội viên bảo lãnh một đứa và đóng vai “Thiên thần
Bản mệnh” của nó bao lâu còn cần thiết để đưa nó về đường
ngay nẻo chính. Những tên “lính mới tò te” là hạng mục thân
chủ thứ hai. Họ giúp chúng qua buổi ban đầu một cách thoải
mái. Thời gian mà chúng chưa quen biết ai, chưa biết chơi các
trò chơi tập thể, nói năng toàn bằng thổ ngữ của quê hương
mình, tâm hồn trĩu nặng nỗi buồn xa nhà xa quê.
Mùa chay 1856, Đaminh Saviô (một cậu bé gợi nhớ cho Don
Bosco về khuôn mặt của Lu-y Comollo, vừa xanh xao vừa
căng thẳng) cuối cùng đã vướng phải một vài sự thái quá. Cậu
đã nghe các bài đọc của phụng vụ thời ấy vốn luôn kêu gọi
người ta làm việc hãm mình đền tội, nên chính cậu ta cũng
muốn chính mình thực hiện. Don Bosco đã được một hộ trực
nhà ăn cho biết Saviô đã ăn chay.
Cha gọi cậu bé lập tức đến với cha. Trong một cuộc nói chuyện
thẳng thắng, cha biết được từ chính miệng Saviô nói ra là cậu
không những đã ăn chay, mà còn vượt xa hơn thế: cậu đã bỏ ra
một bên chăn đắp (trong khi trời rất lạnh), đã đặt những cục
gạch vào giường dưới chiếc nệm để làm cho giấc ngủ bị khuấy
động. Don Bosco chặn đứng cách quyết liệt:
- Cha cấm con tuyệt đối bất cứ việc hãm mình, đền tội nào.
Hay đúng hơn cha cho phép con làm duy một việc đền tội:
vâng lời. Đó là một việc đền tội đòi hy sinh lớn, và làm đẹp
lòng Chúa, mà không làm hại sức khỏe. Con hãy vâng lời và
thế là đủ.
Mẹ Margarita ra đi về cõi vĩnh hằng
Ngày 15-11-1856, mẹ Margarita ngã bệnh. Bệnh viêm phổi
nặng rất dễ gây tử vong đối với sáu mươi tám năm tuổi vốn đã

39.8 Page 388

▲back to top
kiệt quệ vì bao công việc nặng nhọc của bà. Trong khoảnh
khắc, sự sống của nguyện xá như ngưng lại. Họ làm sao mà
sống nổi nếu không có bà? Quanh giường bệnh của bà, các
thầy tư giáo của Don Bosco và những trẻ em lớn đã luân phiên
nhau túc trực đêm ngày. Biết bao lần bọn chúng đã từng đi vào
gian bếp của bà và nói:
-Mẹ ơi, mẹ cho con một trái táo nhé?
-Mẹ ơi, xúp nấu xong rồi chứ?
-Mẹ ơi, con chẳng còn cái mùi xoa nào cả.
-Mẹ ơi, con làm rách quần rồi nè.
Đức anh hùng của người phụ nữ cao quí sắp tạ thế ấy chỉ nảy
sinh từ những cái quần rách cần vá lại, từ rơm rạ cần cắt về, từ
quần áo cần giặt và từ nồi niêu xoong chảo. Nhưng trong thân
phận vô danh tiểu tốt ấy, có một sức mạnh không bao giờ
chúng nản: lòng nhân hậu dịu dàng của người mẹ.
Chính từ bà mà Don Bosco đã lãnh hội được phương pháp giáo
dục dự phòng của bà. Ngài là người đầu tiên đã được nuôi dạy
bằng lẽ phải, tôn giáo và tình thương. Tu hội Salêdiêng đã
được ru trên gối mẹ Margarita, người mẹ hiền mà giờ đây sắp
sửa tàn lụi như một ngọn đèn cạn dầu.
Từ xóm Becchi, Giuse đã đến với mấy đứa cháu lớn. Don
Borel, cha giải tội của bà từ hồi bà tới Torino đến nay, đã đến
mang theo của ăn đàng cho bà.
Bà thu hết sức tàn để nói với Gioan của mình:
“Hãy coi chừng vì có nhiều kẻ, thay vì vinh danh của Chúa, chỉ
tìm sự thành đạt của cá nhân mình… kề bên con, có những kẻ
yêu thích sự nghèo khổ nơi người khác chứ không phải nơi bản
thân mình, những gì ta đòi hỏi người khác, ta phải là những kẻ
đầu tiên thực thi trước đã”.

39.9 Page 389

▲back to top
Bà không muốn Gioan thấy bà đau khổ, cho đến giờ phút chót
bà vẫn nghĩ đến những kẻ khác.
“Đừng đứng đần ra đó Gioan ạ! Thấy mẹ thế này chỉ khiến con
càng thêm khổ sở thôi. Con hãy nhớ rằng cuộc đời này được
tạo ra là để ta chịu thương chịu khó. Hạnh phúc thật là ở trong
cuộc sống đời đời… bây giờ, con hãy ra ngoài đi, mẹ xin con
đó, hãy nghe lời mẹ... hãy cầu nguyện cho mẹ. Vĩnh biệt con”.
Cận kề mẹ già đang chết dần chết mòn, còn lại Giuse và Don
Alasonatti. Bà lụi tắt vào lúc ba giờ sáng ngày 25-11-1856.
Giuse vào phòng Don Bosco và vòng tay ôm lấy cổ ngài mà
khóc tức tưởi.
Hai giờ sau, Don Bosco gọi Giuse Buzzetti. Đó là người bạn
của những giờ phút bi ai hơn cả, là kẻ duy nhất mà ngài không
thấy mắc cỡ khi khóc than trước mặt người ấy. Ngài đến làm lễ
trong nhà nguyện đặt dưới hầm mộ của thánh đường Đức Bà
An ủi. Tiếp đó, họ cùng quì gối trước Đức Mẹ và Don Bosco
đã thầm thì: “Giờ đây, các con cái của con và con không còn có
mẹ trên thế gian này nữa. Xin mẹ hãy luôn ở bên chúng con và
hãy đóng vai Mẹ hiền của chúng con”.
Bốn ngày sau, Micae Rua đến gặp thân mẫu của mình, bà
Gioan- Maria:
“Từ khi mẹ Margarita về chầu Chúa, Micae thưa với mẹ, chúng
con chẳng còn biết phải làm gì nữa. Chẳng có ai để nấu súp, để
vá những chiếc vớ rách. Mẹ ơi, mẹ không thèm đến với chúng
con sao, hở mẹ?” với tuổi đời năm mươi sáu năm già cỗi, bà
Gioan-Maria đã đi theo con trai mình và đã trở thành người mẹ
thứ hai của nguyện xá. Bà sẽ lưu lại đó suốt hai chục năm.
Một cậu bé trò chuyện với Chúa
Tháng 12-1856. Các đường phố Torino đã được rắc đầy những
lọn tuyết đầu mùa. Đêm đến, đèn đường bật sáng. Cũng như

39.10 Page 390

▲back to top
mọi tối, Don Bosco cúi khom người tại bàn làm việc trước một
đống thư từ đang chờ ngài hồi âm. Ngài sẽ phải trả lời đến tận
nửa đêm. Nhưng ai đó đang gõ nhẹ lên cửa.
- Vào đi, ai vậy?
- Con đây! Đaminh Saviô vừa đáp vừa nhanh nhẹn bước vào.
Lẹ lên, cha ơi, xin cha hãy đi với con, có một việc từ thiện phải
làm ngay tức khắc.
- Bây giờ sao? Ngay giữa đêm hôm thế này à? Con tính đưa
cha đi đâu chứ?
- Lẹ lên, Don Bosco, lẹ lên.
Don Bosco do dự, nhưng khi nhìn Đaminh, ngài thấy gương
mặt cậu, lúc thường rất bình thảng, đang rất là nghiêm trọng.
Cả đến các lời lẽ của cậu cũng đầy vẻ thúc bách, khác nào một
mệnh lệnh. Don Bosco trỗi dậy, lấy nón và đi theo cậu.
Đaminh xả hết ga phóng xuống cầu thang, ra sân, không chút
ngại ngần lao vào các đường phố trong kinh thành, quẹo vào
một con lộ đầu tiên, rồi con lộ thứ hai. Cậu không nói với ngài
lời nào, cũng không hề dừng bước. Giữa trận địa bát quái đầy
những đường phố và những con hẻm chằng chịt, cậu xăm xăm
tiến tới, vững tin ở mình. Cậu leo lên một thang gác, Don
Bosco vẫn theo cậu: tầng 1, tầng 2, tầng 3. Đaminh dừng lại, gõ
cửa. Trước khi người ta ra mở cửa, cậu đã thưa với Don Bosco:
- Đây là nơi mà cha phải vào.
Và cậu quay trở về nhà. Cửa mở, một người đàn bà xuất hiện
đầu tóc bù xù. Bà thấy Don Bosco và reo lên:
- Chính Chúa nhân lành đã gửi cha tới. Lẹ lên, lẹ lên kẻo trễ
mất. Chồng con đã vô phương, mất đức tin nhiều năm nay. Giờ
đây, ông ấy sắp chết. Ông ấy cầu mong được xưng tôi.

40 Pages 391-400

▲back to top

40.1 Page 391

▲back to top
Don Bosco tiến đến bên giường bệnh và thấy một người đàn
ông đầy hoảng hốt bên bờ vực thẳm của sự tuyệt vong. Ngài
giải tội cho ông ban phép lành tha tội. Ít phút sau người ấy trút
hơi thở cuối cùng.
Mấy ngày trôi qua, Don Bosco vẫn chưa hết cảm kích vì những
gì đã xẩy ra với mình. Làm thế nào mà Đaminh có thể biết
được chuyện liên quan đến người bệnh ấy? Ngài lại gần em
vào một lúc mà không một ai có thể nghe lén họ được.
“Đaminh, tối hôm nọ khi con vào phòng cha để gọi cha, ai đã
nói với con về người bệnh ấy vậy? Làm sao mà con lại quen
biết được ông ấy?”.
Lúc ấy đã xảy ra một điều mà Don Bosco không hề mong đợi.
Cậu bé nhìn ngài với một vẻ rầu rĩ và bật khóc. Don Bosco
không dám đặt thêm cho cậu những câu hỏi khác, nhưng ngài
hiểu rằng trong nguyện xá của mình hiện có một cậu bé có thể
trò chuyện với Chúa.
Trên Thiên Đàng, con có thể thấy các bạn của con chứ?
Tháng 2-1857, mùa đông ở Torino trở nên rất khắc nghiệt
Đaminh Saviô càng ngày càng xanh xao, vàng võ. Cậu bị dằn
vặt. Bởi một chứng ho dữ dội và sức lực của cậu suy giảm rất
nhanh. Lo lắng, Don Bosco đã cho mời hai y sĩ đến để khám
cho cậu.
Giáo sư Vallauri, sau một cuộc xét nghiệm tỉ mỉ, tuyên bố:
- Cơ thể èo uột và tình trạng căng thẳng thường xuyên của đầu
óc em chẳng khác gì những cây giũa đang bào mòn sức sống
của em vậy.
- Tôi có thể làm gì cho em? Don Bosco gạn hỏi.
Vallauri trong vẻ thất vọng và nhún vai. Y khoa trong những
năm ấy, hầu như chỉ là con số không.

40.2 Page 392

▲back to top
- Hãy gửi trả em về hít thở không khí trong lành của quê hương
và hãy bắt em tạm ngưng việc học một thời gian.
Khi hay biết quyết định, Đaminh đành nhẫn nhịn tuân theo.
Nhưng cậu rất khổ tâm vì phải bỏ dở việc học, bỏ lại bạn bè và
cách riêng là Don Bosco.
- Nhưng sao con lại không muốn về hưởng sự có mặt của
những người thân yêu của con chứ?
- Tại con muốn lìa đời tại đây, tại nguyện xá.
- Đừng nói như vậy chứ. Tạm thời con cứ về nhà đi, con sẽ
khỏi bệnh, rồi con sẽ trở lại.
- Chuyện ấy thì không được đâu! Đa minh vừa mỉm cười vừa
lắc đầu. Con ra đi và con sẽ không trở lại nữa. Don Bosco, đây
là lần cuối cùng chúng ta trò chuyện với nhau. Xin cha hãy cho
con biết: con còn có thể làm được những gì nữa cho Chúa?
- Hãy dâng cho Ngài những đau khổ của con.
- Và còn gì nữa?
- Hãy dâng cho ngài mạng sống của con.
- Từ trên Thiên Đàng liệu con có thể thấy bạn bè của con tại
nguyện xá và cha mẹ của con không?
- Tất nhiên, Don Bosco khẽ nói mà cố dằn nỗi xúc động của
lòng mình.
- Và con sẽ có thể đến gặp họ chứ?
- Nếu Chúa muốn, con sẽ có thể trở lại.
Chúa nhật ngày 1 tháng 3, lời chào cảm động nhất của Đa minh
đã dành cho các bạn thân trong “Hội”. Rồi chiếc xe của cha cậu
đã đến để đưa cậu về Mondonio. Đến góc phố mà cậu vẫn còn

40.3 Page 393

▲back to top
vẫy tay để chào nguyện xá, chào bạn bè thân quen, chào Don
Bosco “của mình” vẫn đang đứng đó, lòng buồn rười rượi nhìn
theo chiếc xe bò đang xa dần. Cậu học trò ưu tú của ngài đã ra
đi, vị thánh nhỏ mà Đức Mẹ đã ban cho nguyện xá của ngài từ
ba năm nay.
Cậu chết gần như bất ưng ngày 9-3-1857. Cha cậu có mặt bên
cậu. Cậu chỉ có vừa đủ sức để thì thầm:
“Vĩnh biệt cha… hồi nãy cha xứ bảo con… nhưng con không
nhớ nổi… đẹp biết bao, cảnh tượng con đang thấy…”
Đức Piô XII đã phong thánh cho cậu ngày 12-6-1954. Vị thánh
đầu tiên mới 15 tuổi đầu.
Một băng giải màu máu
Don Bosco còn thấy lại cậu một lần nữa, trong “giấc mơ” lớn.
Cha mơ tại Lanzo vào đêm 6 tháng Mười Hai 1876. Bài tường
thuật của cha chiếm 10 trang dày đặc trong Cuốn Hồi Sử
12. Chúng ta chỉ bằng lòng với việc nêu lên một vài đoạn.
“Cha thấy mình đang ở trên bờ cánh đồng bằng mênh mông,
màu xanh như màu biển cả. Nhưng đó không phải là nước, mà
là thủy tinh trong suốt. Trong không gian có tiếng âm nhạc
vang lên thật dịu dàng.
Thình lình một con số đông đảo vô kể các bạn trẻ xuất hiện, số
những người đã ở Nguyện xá và các trường của chúng ta thì
Cha biết được, nhưng phần đa, cha không biết. Đi đầu có
Đaminh Saviô, Cha Alasonatti, cha Chiala, cha Giulitto và
nhiều thầy, nhiều linh mục, mỗi người dẫn đầu một đội binh
các bạn trẻ.
Chỉ có Đaminh Saviô tiến lên tới gần cha đến nỗi cha có thể
đưa tay chạm tới. Em yên lặng, mỉm cười đẹp lắm. Áo em
trắng ngời, dát vàng điểm kim cương, tuôn đến chân. Một giải

40.4 Page 394

▲back to top
băng hồng quấn ngang lưng điểm các viên ngọc quí giá san sát
nhau. Cha như ngây ngất vì kinh ngạc. Em đeo vòng hoa kết
bằng kim cương và dải vàng… thả lỏng xuống. Từ đấy tỏa ra
một ánh sáng siêu phàm, sáng ngời hơn mặt trời, rực rỡ như
ban sáng mùa xuân, tỏa chiếu trên gương mặt sáng và hồng đẹp
khôn tả; đầu em đội triều thiên bằng bông hồng, tóc em bồng
bềnh tỏa xuống vai. Em thật đẹp, thật đáng yêu, thật quyến rũ
giống như…giống như một Thiên thần!.
Bỗng Saviô cắt đứt sự im lặng:
- Sao cha im thế, và như không có mặt? Xưa cha đâu có sợ hãi
gì? Dám đối đầu với mọi vu khống, bách hại, thù địch, hiểm
nghèo đủ thứ? Vậy sự can đảm của cha ở đâu? Sao cha không
nói?
Cha mấp máy:
- Cha chẳng biết nói gì? Vậy con là Đaminh Saviô sao?
Con đây, cha không nhận ra con sao?
Sao cha lại gặp con ở đây?
Con đến để nói chuyện với cha, biết bao lần con đến nói
chuyện với cha khi còn ở trần gian! Cha nhớ không,
xưa cha yêu con lắm? Cha đã tỏ cho con vô vàn dấu của
tình bằng hữu, và biết bao nét thân thương! Vậy con
không đáp ứng lại tình yêu của cha sao? Con tín nhiệm
vào cha rất nhiều.
Cha lấy lại bình tĩnh và nói:
Cha đang ở đâu?

40.5 Page 395

▲back to top
Cha đang ở nơi cực lạc.
Cha ngất ngây chiêm ngắm Saviô và thẳng thắn hỏi em:
Tại sao con mặc áo trắng ngời như vậy?
Tại sao con thắt lưng bằng dải hồng?
Một giọng nói cất lên những lời từ Kinh Thánh:
“Họ là những kẻ đồng trinh và đi theo Chiên Con khắp mọi
nơi”. Lúc đó cha mới hiểu dải hồng đỏ màu máu biểu trưng cho
các hy sinh lớn lao em đã làm, các nỗ lực ghê gớm gần như tử
đạo em chịu để giữ nhân đức trong sạch. Màu áo trắng ngời là
sự vô tội của ngày chịu phép rửa em đã giữ được.
- Vậy sao những người này lại đứng sau con? Don Bosco hỏi
Saviô.
- Con nắm vai trò sứ giả của Thiên Chúa! Trong quá khứ,
Dòng đã làm nhiều chuyện thiện ích. Cha hãy nhìn kia kìa con
số vô tận các bạn trẻ … ở cổng vào cái vườn này, có viết gì?
- Cha thấy rồi: cảnh vườn Salêdiêng.
- Vâng, tất cả họ là các Salêdiêng, hay được giáo dục dưới sự
hướng dẫn của cha, có liên hệ với cha và được cứu rỗi bởi cha
hay bởi các linh mục, giáo sĩ của cha và những người khác đã
được cha đưa vào con đường ơn gọi. Con số họ sẽ là hàng triệu
người đông hơn thế nếu cha đã tin tưởng và trông cậy nơi Chúa
nhiều hơn.
- Thế còn hiện tại?
Saviô cho cha xem bó hoa đẹp đẽ em đang cầm ở tay. Nào
hồng, nào hoa viôlet (tím), hoa hướng dương, hoa nhài, các

40.6 Page 396

▲back to top
bông cúc, hoa huệ, hoa cây thường xanh, và giữa các bông hoa
trội lên các hạt. Saviô đưa bó hoa cho cha và nói:
- Bó hoa này cha hãy đem cho các con cái của cha để họ dâng
lên cho Chúa: Hoa hồng đức ái, hoa violet chỉ đức khiêm
nhường, hoa hướng dương chỉ đức vâng lời, hoa nhài chỉ đức
hãm mình đền tội và khổ chế, các bông lúa chỉ việc rước lễ
thường xuyên.
- Vậy còn tương lai?
- Thiên Chúa chuẩn bị những chuyện lớn lao cho Tu hội. Năm
tới sẽ trổi lên cho Tu hội một bình minh vinh quang rạng rỡ rực
sáng như ngọn đèn nơi bốn phương trời, từ đông sang tây, từ
nam tới bắc.
Một vinh quang lớn được chuẩn bị cho Tu hội. Một tương lai
sẽ vô cùng rạng rỡ và nó sẽ mang ơn cứu độ cho vô vàn vô số
người. Nhưng với điều kiện là các con cái cha phải sùng kính
Đức Mẹ, giữ đức khiết tịnh vừa đẹp lòng Chúa.
- Còn cha thì sao?
- Ồ nếu cha biết cha còn phải chịu đựng biết bao chuyện nữa!
Cha vội vã đưa tay nắm lấy đứa con thánh của cha nhưng tay
cha xem ra cầm không khí và không thể ôm siết được gì cả.

40.7 Page 397

▲back to top
Chương 35
THẦY TU HAY KHÔNG, TÔI SẼ VẪN Ở LẠI VỚI DON
BOSCO
Một ngày mùa hạ năm 1857, Don Bosco gặp gỡ bộ trưởng
Rattazzi. Câu chuyện trao đổi về “công cuộc Nguyện Xá” mà
vị bộ trưởng rất quí trọng, nhất là kể từ nỗ lực của các bạn trẻ
giải cứu những người bị bệnh dịch, và sự kiện dẫn các tù nhân
của nhà tù Generala đi chơi ngoài trời. Theo như cha Lemoyne,
cuộc trao đổi như sau:
- Tôi chúc cha sống được nhiều năm. Nhưng rồi cha cũng phải
chết. Vậy khi đó các trẻ của cha sẽ ra sao?
- Vậy tôi xin hỏi lại ngài, thưa bộ trưởng: Tôi phải làm gì để
đảm bảo việc tồn tại công cuộc của tôi?
- Tôi khuyên cha nên chọn những giáo sĩ mà cha tín nhiệm, để
lập nên một Hội, thấm nhuần tinh thần của cha, và cha dạy dỗ
họ về hệ thống giáo dục của cha. Bây giờ thì họ sẽ là những
người trợ lực cho cha, nhưng tương lai họ sẽ là những người kế
tục cha.
Don Bosco mỉm cưới:
- Nhưng cách đây hai năm chính ngài đã chấp thuận luật hủy
bỏ nhiều dòng tu. Thế mà bây giờ lại chính ngài đề nghị lập
một cộng đoàn tu trì mới. Liệu chính phủ có để cho nó được
sống chăng?
- Luật hủy bỏ các dòng tu tôi biết rõ chứ. Ông bộ trưởng
Rattazzi tới lượt mình lại mỉm cười. Còn cha, cha có thể thiết
lập một hội mà không ai có thể làm cho nó chết đi được.
- Bằng cách nào?

40.8 Page 398

▲back to top
- Một Nhà Nước thế tục sẽ không bao giờ nhìn nhận một “Tu
Hội” trong tư cách nó thuộc về Giáo Hội, hay thuộc về một
thẩm quyền khác với nó. Nhưng nếu đó là một Hội trong đó
mỗi thành phần đều duy trì các quyền dân sự, tuân giữ Pháp
Luật nhà nước, đóng thuế đàng hoàng, thì nhà Nước sẽ không
nói gì cả. Trước mặt nhà nước, Tu Hội này không khác chi một
Hiệp Hội của các công dân tự do, những người liên kết lại với
nhau và sống cùng nhau vì một mục đích từ thiện, giống như
các Hội khác qui tụ lại vì mục đích thương mại để cứu trợ lẫn
nhau. Còn như nếu ở trong nội bộ của chúng, những hội viên
này cũng vẫn chấp nhận quyền bính của các Đức Giám mục, và
của Đức Thánh Cha, thì nhà nước vẫn để mặc kệ. Lý do là tất
cả các hội của các người công dân tự do luôn luôn được phép,
miễn là họ tôn trọng luật pháp và quyền bính của nhà nước.
Don Bosco cảm ơn ông bộ trưởng, và hứa chắc với ông là mình
sẽ suy nghĩ kỹ về điều này. Bộ trưởng Rattazzi chỉ làm một
việc là tạo nên một hình thức trong sáng cho các ý tưởng mà
Don Bosco đã ấp ủ từ nhiều năm nay. Ngài đang thực sự
nghiên cứu thiết lập một Tu Hội mà “về mặt Giáo Hội” nó là
Dòng Tu, còn “về mặt Nhà Nước”, nó là một Hội của các công
dân tự do. Cái khó khăn chính là liệu Tòa Thánh có chấp nhận
quan điểm mới này chăng: một quan điểm chấp nhận trên thực
tế việc chia tách giữa Nhà Nước và Giáo Hội (đó là nguyên tắc
của phe tự do), và là một cuộc đổi mới đối với các khung cổ
điển về đời tu sĩ chăng? Cho tới bây giờ thì các tu sĩ đều luôn
là tu sĩ “trước mặt Giáo Hội cũng như trước mặt Nhà Nước”.
Bản Phác thảo viết tay về một Tu Hội mới đang phát sinh
Trong khi suy nghĩ về việc phải dùng công thức viết thế nào,
thì Don Bosco lại quan tâm tới các nhân viên sẽ tạo nên Tu Hội
này. Các cộng sự viên của cha, người này sang người khác, đã
lần lượt bỏ cha. Con đường phải theo đã được Bà lạ trong giấc

40.9 Page 399

▲back to top
mơ chín tuổi chỉ cho cha thấy: Con phải làm phát sinh các mục
tử từ trong đám chiên con.
Thầy Micae Rua vào tháng Ba năm 1855 được tuyên khấn các
lời khấn lần đầu tiên.
Và tháng sau tới lượt cha Alasonatti tuyên khấn.
Trong năm 1856 tới lượt thầy Gioan Baotixita Francesia, người
đã sáng tác một bài hát La-tinh để hát vào dịp đó.
Chẳng có ai trong số những người này lại nghĩ mình là thành
phần của một dòng tu nào cả. Họ chỉ nghĩ qua lời khấn mình
liên kết nhiều hơn với Don Bosco “để dành cho cha một cánh
tay”.
Don Bosco tiếp tục cẩn trọng cách ghê gớm: Dòng tu và thầy tu
không phải là một của thời đại đó. Ngài cẩn thận tránh mọi thứ
“giống với những phong tục của dòng tu: việc nguyện ngắm
thường xuyên, với kinh kệ, và việc tuân giữ nhiệm nhặt” (E.
Ceria).
Hơn thế nữa, vào cuối năm 1859 Don Bosco không được ai cho
phép gì cả để tự phong mình là “người đứng dầu một dòng tu”.
Ngài chỉ được quây quần bởi các thầy tư giáo đã lãnh nhận áo
chùng thâm giáo sĩ. Tất cả chuyện này được phép bởi vì Đức
Tổng Giám Mục nhìn thấy đó là điều cần thiết cho “công cuộc
các Nguyện Xá”. Đàng khác những thầy tư giáo này luôn phải
chịu thi cử tại Tòa Giám Mục, và theo học các lớp học tại
chủng viện, trừ một số ít được miễn chuẩn vì công việc của họ
đang rất cần tại Nguyện Xá. Don Bosco cai quản các Nguyện
Xá, trường Nội Trú Valdocco, các tư giáo, dưới quyền của
Đức Tổng Giám Mục Fransoni của Tổng Giáo Phận Torino.
Vậy là không cần vẻ bề ngoài, nhưng nội dung bên trong thì
dần được cô đọng lại. Cần phải phác họa một đường nét cho

40.10 Page 400

▲back to top
Tu Hội, tức là “một bản Hiến luật” minh định các điểm cốt yếu
của tinh thần và phương pháp hành động.
Don Bosco âm thầm làm công việc này ngay từ năm 1855: kín
múc từ nguồn kinh nghiệm của Ngài, từ “các luật của Nguyện
Xá” vốn đã vạch ra đường nét cho Nguyện Xá, từ việc bàn
thảo, dựa vào các luật của các dòng tu xưa và các Tu hội mới
đây, như Tu Hội Bác ái của cha Rosmini và Tu Hội Tận hiến
của cha Lanteri.
Cuộc trò chuyện với bộ trưởng Rattazzi (trong đó vị bộ trưởng
chỉ nhắc lại điều đã được công khai trình bày tại Hạ viện) là
một luồng sáng lóe lên giúp Ngài hiểu là mình có thể đem điều
cốt yếu của đời sống tu sĩ vào trong những hoàn cảnh mới do
chế độ chính trị mới đề ra. Don Bosco sẽ kiên quyết bảo vệ
quyền dân sự cho các tu sĩ của Ngài.
Vào cuối năm 1857, bản văn đầu tiên của Tu luật Salêdiêng đã
viết xong. Sau này nó sẽ được phân chia thành Hiến luật và Qui
chế. Công tác hoàn tất luật dòng để xin sự chuẩn nhận của giáo
quyền bắt đầu.
Được báo cáo về sáng kiến của Don Bosco, Đức Tổng
Giám
Mục Fransoni từ nơi lưu đày ở Lion nhiệt tình
khích lệ Don Bosco. Để nắm chắc phần thành công, Ngài
khuyên cha đến thưa chuyện về kế hoạch này với Đức Thánh
Cha Piô IX.
Cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha
Trong những ngày đầu tiên của tháng hai năm 1858, Micae
Rua trải qua nhiều giờ thức đêm chép tay cẩn thận và nắn nót
bản viết tay của Luật Tu Hội. Don Bosco nhắn nhủ Rua:
- Con hãy chép cho thật đẹp. Chúng ta sẽ cùng nhau mang nó
đến với Đức Thánh Cha.

41 Pages 401-410

▲back to top

41.1 Page 401

▲back to top
Ngày 18 tháng Hai, hai cha con đi tới Roma. Đây là một cuộc
hành trình đầy khó khăn vào thời đó: khi thì đi đường bộ, khi
thì đi đường biển, với một hộ chiếu đàng hoàng. Trước khi lên
đường, Don Bosco đã nghĩ nên để lại nhà một bản di chúc.
Nguyện Xá được trao phó cho cha Alasonatti.
Ngày 9 tháng Ba, Don Bosco có cuộc bệ kiến Đức Thánh Cha
Piô IX. Đức Thánh Cha tỏ lòng ưu ái mà dấu ấn còn tiếp tục
mãi. Ngài không dấu sự cảm phục trước hoạt động sôi nổi của
vị linh mục Torino này. Ngài chấp thuận ý hướng sáng lập Tu
Hội thích nghi với thời đại, nhưng cũng thêm những lời dạy
bảo: Điều quan trọng nhất con phải liên kết các hội viên lại
bằng “các lời khấn tu sĩ đích thực”, chứ không chỉ bằng “các
lời hứa” như Rattazzi đã gợi ý. Ngài cũng nói với Don Bosco là
chính Đức Thánh Cha cũng cần phải suy nghĩ thêm về công
việc này. “Các con hãy lên đường, hãy cầu nguyện, rồi một ít
ngày nữa các con hãy trở lại để nói cho cha hay ý kiến của
con”.
Hạnh phúc vì sự tiếp nhận ân cần này, Don Bosco tái duyệt lại
Tu luật và cho Rua chép lại.
Ngày 21 tháng Ba có một cuộc bệ kiến Đức Piô IX lần thứ hai.
Đức Thánh Cha đã suy nghĩ và diễn tả ra ý nghĩ của Ngài như
sau:
“Cha tin chắc là kế hoạch này sẽ tạo nhiều lợi ích lớn lao cho
giới trẻ. Con phải thực hiện nó. Tu luật phải nhẹ nhàng và dễ
tuân giữ. Cách thức về tu phục, các việc thực hành đạo đức
không cần phải khác biệt với các giáo dân. Có lẽ để nhằm mục
đích này, con sẽ gọi Tu Hội thay vì Dòng Tu. Nói tóm lại, con
hãy làm sao để mỗi hội viên của Tu Hội này trước mặt Hội
Thánh là một người tu sĩ, còn trong đời sống xã hội họ là người
công dân”.

41.2 Page 402

▲back to top
Don Bosco nghĩ ngay rằng Đức Thánh Cha Piô IX cũng nghĩ
giống Rattazzi. Nên cha trình lên Đức Thánh Cha bản văn ngắn
gọn của Tu luật:
“Trong Tu luật mà con đã sửa lại theo các lời căn dặn của Đức
Thánh Cha này, chỉ chứa đựng tất cả kỷ luật và tinh thần mà
trong suốt 20 năm qua đã hướng dẫn chúng con”.
Tu luật này không có dáng dấp đan sĩ gì cả. Đây chính là một
Hội, hay Tu Hội gồm các giáo sĩ và giáo dân kết hiệp lại với
nhau qua các lời khấn và tất cả họ đều ước muốn tận hiến chính
mình cho lợi ích của giới trẻ nghèo. Đứng trước Nhà Nước họ
là các công dân: “Mỗi người khi vào Tu Hội, không mất đi
quyền dân sự và sau khi đã thực hiện các lời khấn, họ vẫn duy
trì quyền sở hữu các của cải của mình. Trước mặt Hội Thánh
họ là các tu sĩ: “Những hoa quả của cải của họ, trong suốt thời
gian họ sẽ ở lại trong Tu Hội, phải được nhượng lại cho Tu
Hội”.
“Trong cuộc bệ kiến thứ ba vào ngày 6 tháng Tư – theo lời cha
Ceria kể lại trong Biên niên sử Tu Hội Salêdiêng – thì Đức Piô
IX đã trả lại bản thảo cho Don Bosco, nói là Don Bosco hãy
trao nó vào tay Đức Hồng Y Gaude”.
Vị Hồng y người Piemonte này có mối giao hảo hết sức tốt đẹp
với Don Bosco. Ngài đã đọc, sửa lại nó một lần nữa. Sau đó
Ngài khuyên Don Bosco hãy đem thực hành thí nghiệm Tu
Luật đã được sửa lại này. Sau đó hãy trình bày lại với Đức
Thánh Cha.
Vào ngày 14 tháng Tư, Don Bosco rời Roma.
Một tuần lễ để quyết định cuộc sống của Tu Hội
Ngày 9 tháng 12 năm 1859, Don Bosco nghĩ tới lúc công khai
hóa về Tu Hội. Ngài nói với các “người Salêdiêng” qui tụ lại
trong phòng của Ngài gồm 19 người, những lời như sau:

41.3 Page 403

▲back to top
“Từ lâu cha đã nghĩ đến việc sáng lập Tu Hội. Bây giờ là thời
gian đi đến bước cụ thể. Đức Thánh Cha Piô IX đã khích lệ và
ca ngợi đề nghị của cha. Thực ra Tu Hội này không phát sinh
bây giờ: nó đã hiện hữu qua Luật Nguyện Xá mà các con đã
tuân giữ như một truyền thống... Nhưng giờ đây một bước tiến
lên phía trước, để chính thức thiết lập Tu Hội và tiếp nhận Tu
Luật. Tuy nhiên các con phải biết rằng sẽ chỉ được ghi danh
vào Tu Hội này tất cả những ai sau khi đã suy nghĩ chín chắn,
muốn thực hành vào thời gian thích hợp các lời khấn khó
nghèo, khiết tịnh và vâng phục... Cha để cho các con một tuần
lễ để suy nghĩ về điều này”.
Ra khỏi phòng họp, tất cả đều im lặng một cách bất thường.
Thế rồi đột nhiên họ bắt đầu phát biểu rằng Don Bosco đã có lý
để tiến hành một cách chậm rãi và thận trọng. Có tiếng lẩm
bẩm rằng Don Bosco muốn biến họ thành các thầy tu. Cagliero
bước những bước đi trên khu sân phía trong để đắn đo suy nghĩ
những tư tưởng đối nghịch cùng nhau.
Thế rồi ước vọng để “ở lại với Don Bosco” lấn chiếm lấy ý
nghĩ của đa số. Cagliero buột miệng nói ra một câu mang tính
cách lịch sử: “Dù là thầy tu hay không phải thầy tu, tôi quyết ở
lại với Don Bosco”.
Trong “Hội Nghị kết ước” diễn ra vào ngày 18 tháng Mười
Hai, trừ 2 người trong số 19 người nói trên, tất cả họ đều tham
dự vào buổi họp. Sau đây là nội dung cuộc họp được cha
Alasonatti đúc kết lại:
“Trong phòng của linh mục Gioan Bosco, vào lúc 09 giờ tối,
chúng tôi qui tụ lại gồm các thành viên sau: Don Bosco, linh
mục Alasonatti Vittorio, các tư giáo Saviô Angelo phó tế,
Micae Rua phụ phó tế, Gioan Cagliero, Gioan Tẩy giả
Francesia, Phanxicơ Provera, Carlo Ghivarello, Giuse Lazzero,

41.4 Page 404

▲back to top
gioan Bonetti, Gioan Anfossi, Luy Marcellino, Phanxico
Cerruti, Celestino Durando, và thanh niên Luy Chianale.
Tất cả đều đồng ý cùng nhau tạo thành Tu Hội hay Dòng tu...
Họ nhất trí xin Don Bosco, là người khởi xướng và cổ xúy, để
đảm nhận chức danh Bề Trên Cả, và Ngài chấp thuận với điều
kiện là phải có vị Phó bề trên cả gọi là Tổng quản: ý kiến là
chức vụ này do người viết biên bản này đảm nhận...
Họ nhất trí chọn Giám linh là phụ phó tế Micae Rua. Phó tế
Angelo Saviô được chấp thuận làm quản lý. Ba vị cố vấn được
bầu chọn là các tư giáo Gioan Cagliero, Gioan Bonetti và Carlo
Ghivarello. Thế là việc thiết lập cơ quan quản trị được thiết lập
xong cho Tu Hội chúng ta (mà sau này được gọi Thượng Hội
đồng).
“Nếu không làm linh mục, cậu sẽ làm gì tại Nguyện Xá?”
Tu Hội ra đời, Don Bosco rất vui. Nhưng chúng ta có thể chắc
chắn rằng một ngấn buồn vẫn còn in hằn trong sâu thẳm tâm
hồn cha: trong số 17 người đã chấp nhận lời mời gọi, không có
anh Giuse Buzzetti rất thân thiết của cha.
Khi sử dụng khẩu súng lục (để bảo vệ những đồ vật trưng bày
trong cuộc sổ số), cậu ta đã gặp phải tai nạn nghiêm trọng là
mất ngón tay trỏ trái. Điều này vào thời đó được coi là một cản
trở nghiêm trọng để có thể trở thành linh mục. Tai nạn này
“cùng với lòng khiêm cung”, như cha Lemoyne nhận xét, đã
thuyết phục Buzzetti không nhận tu phục giáo sĩ.
Nhưng cậu dâng hiến mọi thời giờ trong ngày của cậu cho Don
Bosco của mình tại Nguyện Xá. Cha Lemoyne kể ra: Cậu chăm
sóc nhà cửa, hộ trực tại phòng ăn, sắp xếp bàn ghế, cung cấp
những gì cần thiết cho việc dọn quét dọn nhà cửa, dạy các lớp
tại trường giáo lý, chăm lo việc quản lý và việc chuyển các Tập
san Công giáo. Cậu cũng điều khiển trường dạy hát cho tới

41.5 Page 405

▲back to top
năm 1860, cho tới khi cậu nhường công việc đó cho anh Gioan
Cagliero. “Với trí minh mẫn và hoạt động nhanh nhạy, cậu là
linh hồn của mọi cuộc sổ số, lo lắng tìm việc làm cho các
xưởng, lo mua lương thực và những thứ cần thiết”.
Cậu cảm nhận Nguyện Xá như là xương thịt của bản thân
mình. Khi tòa nhà gần xây dựng xong bị sụp đổ, cậu đã giám
sát các hóa đơn cách tỉ mỉ và đã tìm ra các mặt hàng mua đã
quá hạn, nên đã mắng nhiếc nặng lời với người chủ thầu. Chính
Don Bosco đã phải làm cậu lắng dịu lại:
- Chúng ta phải kiên nhẫn. Con sẽ xem Chúa sẽ giúp chúng ta.
- Vâng, vâng, Chúa sẽ giúp chúng ta! Nhưng chính cha đã phải
thức khuya, làm việc ngày đêm để kiếm từng đồng một[1], còn
đây họ ăn cắp của cha hàng ngàn đồng trong một lúc. Cần phải
cho họ một bài học quyết liệt.
- Thôi chúng ta để cho sự việc trôi qua. Nếu họ đáng hình phạt,
Chúa sẽ cho họ bài học.
Cha Lemoyne tiếp tục kể rằng Buzzetti giữ vai trò vệ sĩ cho
Don Bosco, đi theo ngài khi có nguy hiểm, tới gặp ngài vào
ban tối. Gương mặt cứng cỏi của cậu, bộ râu đỏ xồm xoàng của
cậu làm biến tan nơi những kẻ ác ôn cái ý định tấn công vị linh
mục của khu Valdocco[2] này.
Hai người em thợ xây của cậu mà một người đã trở thành thợ
cả, nhiều lần nói với cậu:
- Nếu anh không làm linh mục, thì anh ở lại Nguyện Xá làm
gì? Nếu Don Bosco chết đi, mà anh không có nghề nào trong
tay, thì anh xoay sở làm sao?
- Don Bosco đã đảm bảo với anh rằng sau khi ngài chết, thì vẫn
luôn có miếng bánh dành cho anh. Đối với anh, thế là đủ rồi.

41.6 Page 406

▲back to top
Tuy nhiên chàng trai trẻ 27 tuổi này, người vốn sẵn sàng hiến
mạng sống mình cho Don Bosco, lại không cảm thấy phải khấn
dòng và trở thành người Salêdiêng.
Người “giáo dân” thứ nhất được nhận vào Tu Hội Salêdiêng
chính là Giuse Rossi. “Ban Cố Vấn của Tu Hội Salêdiêng”
nhóm họp ngày 2-2-1860 đã quyết định tiếp nhận cậu. Với
Rossi, tiếng “sư huynh” bắt đầu xuất hiện trong ngữ vựng của
Dòng, để chỉ về người Salêdiêng giáo dân.
Cơn khủng hoảng của Giuse Buzetti
Ngày 14 tháng Năm 1862 đánh dấu bước kiện cường Tu Hội
Salêdiêng. Họp nhau lại tại phòng Don Bosco, “các hội viên”
đáp lại lời mời gọi của ngài, “hứa với Thiên Chúa sẽ tuân giữ
Luật Dòng khi họ khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng lời trong
ba năm”. Con số họ là 22 người, không kể Đấng Sáng lập.
Vào cuối buổi họp, Don Bosco nói: “Trong khi anh em tuyên
những lời khấn này trước mặt cha, thì cha cũng tuyên khấn
trước Chúa Chịu Đóng Đinh cho suốt cả đời cha, bằng cách
hiến dâng cha như của lễ hy sinh cho Chúa”.
Trong nhóm 22 người này có hai giáo dân thuộc thành phần rất
khác biệt nhau: một người tên là Giuse Gaia, là đầu bếp trong
nhiều năm tại Nguyện Xá, còn người kia là Feredico Oreglires
thuộc vùng San Tefano [thánh Stêphanô], một nhà quí tộc
thành Torino. Don Bosco đã chinh phục được người này trong
một khóa tĩnh tâm, giúp cho chàng ta khép lại “một giai thoại
cuộc sống mạo hiểm và ăn chơi”. Trong suốt 9 năm trời chàng
đã giúp Nguyện Xá rất nhiều việc, rồi sau đó vào dòng Tên.
Một cám dỗ dễ dàng vào những năm kế tiếp khi thấy các giáo
dân tham gia đời sống Tu Hội, thì người ta ưa coi các hội viên
bậc giáo dân chỉ là “những người đầy tớ giúp việc” cho nhà,
hay ít ra chỉ là “tu sĩ bậc hai”.

41.7 Page 407

▲back to top
Có lẽ chính đó là nguyên nhân phát sinh “cơn khủng hoảng”
của Buzetti. Cuốn năm trong Bộ Hồi Ký đã kể lại chuyện này,
và chúng ta liệt kê lại như sau:
Cậu ta thấy rằng gia đình trong chế độ gia trưởng xưa kia đã bị
biến thể bởi Tu luật; cậu thấy là dần dà việc điều hành nhà
Nguyện Xá và nhiều công việc xưa kia được trao phó cho cậu
được chuyển sang tay các giáo sĩ. Buồn bã và thất vọng, cậu
quyết định ra đi. Cậu đã tìm được một chỗ làm tại Torino và
đến chào biệt Don Bosco. Với sự thẳng thắn vốn có, cậu nói
cho ngài hay rằng đã từ lâu cậu trở thành chiếc bánh xe ở đằng
cuối cùng, phải vâng lời những người mà xưa kia cậu đã thấy
họ vào Nguyện Xá khi còn là những đứa con nít, mà cậu còn
phải dạy chúng hỉ mũi nữa. Cậu biểu lộ nỗi buồn phải lìa xa
căn nhà mà xưa kia cậu đã đến khi nó chỉ là một cái mái dại ra.
Don Bosco không nói với cậu rằng “Con để cha lại một mình
ư? Cha sẽ làm gì nếu không có con?” Ngài không phàn nàn cho
chính bản thân ngài. Ngài nghĩ tới cậu, tới người bạn thân thiết
của ngài: “Con đã tìm được một chỗ làm việc rồi ư? Họ sẽ trả
cho con lương bổng tốt đẹp chứ? Con có tiền không, và chắc là
con đang cần tiền chi trả cho những phí tổn lúc ban đầu”. Ngài
mở ngăn kéo bàn ra: “Con biết rõ hơn cha những ngăn kéo này,
Con cứ lấy đi tất cả những gì con cần, và nếu không đủ, con cứ
nói cho cha, cha sẽ lo liệu, Buzetti yêu mến, cha không muốn
con phải chịu thiếu thốn vì cha”. Thế rồi Don Bosco trìu mến
nhìn cậu, vẻ nhìn mà chỉ có mình ngài mới có thể có được đối
với các trẻ em con cái thân thương của ngài: “Chúng ta đã luôn
luôn yêu thương lẫn nhau. Cha tin rằng con sẽ không bao giờ
quên cha”.
Thế là Buzetti bật khóc. Cậu khóc rất lâu và nói: “Không, con
không muốn rời bỏ Don Bosco. Con sẽ luôn luôn ở với cha”.
Người sư huynh Don Bosco có trong trái tim ngài

41.8 Page 408

▲back to top
Có lẽ biến cố này đã kích thích Don Bosco minh định rõ nét
hơn dung mạo Salêdiêng giáo dân, “người sư huynh” trong Tu
Hội Salêdiêng.
Ngày 31-3-1876, trong một buổi “huấn từ tối” dành cho các
học sinh thợ, ngài đề ra ơn gọi của người Salêdiêng giáo dân là
gì: “Các con hãy chú ý là giữa các hội viên của Tu Hội không
hề có một sự phân biệt nào cả; tất cả đều được đối xử như
nhau, nào là người thợ, tư giáo và linh mục; chúng ta đều coi
nhau tất cả như anh em”.
Năm 1877, Giuse Buzetti quyết định làm đơn xin gia nhập Tu
Hội Salêdiêng. Don Bosco muốn chính mình trình đơn xin của
cậu lên Ban Cố Vấn Tu Hội, được thiết lập hầu như hoàn toàn
từ những đứa bé nhỏ xíu ngày xưa Buzetti “đã dạy hỉ mũi”.
Cậu được chấp thuận với toàn bộ số phiếu và chúng ta tin rằng
đây chính là một trong những ngày tuyệt vời nhất trong cõi
lòng Don Bosco.
Kể từ đó rất nhiều các sư huynh tham gia vào Tu Hội Salêdiêng
với các chức vụ rất khác biệt nhau: Pelazza và Gambino làm
giám xưởng; Marcello Rossi là người gác cổng; Nasi coi phòng
bệnh; Giuse Rossi quản thủ viên; Enria tạp vụ; Falco và
Ruffato nấu ăn. Nhưng tất cả trong vai trò sư huynh đều “phụ
giúp các linh mục” trong trách nhiệm tông đồ: dạy giáo lý, hộ
trực và là nhà giáo dục.
“Cám dỗ hạ thấp vai trò sư huynh Salêdiêng” vào những năm
cuối đời Don Bosco lại quay trở lại. Trong “Tổng Tu Nghị thứ
ba” của Tu Hội vào năm 1883, có người nói: “Cần phải duy trì
trình độ thấp cho các sư huynh”, huấn luyện họ như là một loại
tu sĩ tách biệt”. Don Bosco đã phản ứng mãnh liệt: “Không,
không, không. Các hội viên sư huynh giống như tất cả mọi
người chúng ta”. Và khi nói chuyện với các Salêdiêng giáo dân
này trong cùng năm đó, ngài quả quyết cách mạnh mẽ: “Anh

41.9 Page 409

▲back to top
em không phải là những người trực tiếp làm việc hay phải khó
nhọc, trái lại anh em là người điều hành. Anh em phải như
những chủ nhân trên các người thợ, chứ không phải là các
người đầy tớ...Đấy chính là ý tưởng về người sư huynh
Salêdiêng. Cha thật cần có nhiều người đến giúp đỡ cha theo
cách thức đó! Do đó cha bằng lòng khi thấy các con thích hợp
và tươm tất; anh em cần được ngủ nghỉ trên giường tử tế và
trong khu ngủ xứng đáng, vì anh em không phải là bề dưới mà
là bề trên”.
Cha Braido là một học giả về vấn đề này đã quả quyết: “Dung
mạo sư huynh (Theo Ý Don Bosco) không xuất phát đột xuất
giống như một cuộc tạo nên hoàn toàn mới mẻ và độc đáo, trái
lại nó được nổi lên cách tiệm tiến, giữa những chao đảo và bấp
bênh”.
Chúng ta dám quả quyết rằng “dung mạo sư huynh” mà Don
Bosco mang trong lòng mình qua bao nhiêu năm tháng chính là
dung mạo của Giuse Buzetti: một con người được tín nhiệm,
khiêm nhượng, luôn luôn hiện diện trong những giờ phút khó
khăn và tế nhị, vốn cảm nhận Nguyện Xá là gia đình của mình,
máu thịt của mình, nếu Nguyện Xá được vẻ vang, thì chính bản
thân anh cũng được vẻ vang. Anh không hiểu biết nhiều về
chuyện pháp lý nhưng với bất cứ giá nào “Anh muốn ở lại với
Don Bosco”.

41.10 Page 410

▲back to top
Chương 36
MICAE MAGONE: MỘT ĐỨA BÉ VÀ BẢY CẢNH SÁT
Trong những năm sau năm 1850, Don Bosco cật lực làm nẩy
sinh “Tu Hội Salêdiêng”. Nhưng cũng thực là một sai lầm
nghiêm trọng khi nghĩ rằng những suy nghĩ, các cuộc hành
trình, gặp gỡ để thiết lập Tu Hội lại tách biệt ngài khỏi các trẻ
em của ngài. Don Bosco không bao giờ là “một người đứng
đầu một xí nghiệp”, mà chính là “người cha gia đình”. Và trong
gia đình của ngài, sự hiện diện của trẻ em được ngài coi là yếu
tố thiết yếu.
Vừa khi sau các cuộc hành trình, gặp gỡ, các công chuyện mà
trở về, Don Bosco liền ngồi tòa giải tội tiếp các học sinh. Cha
luôn nghĩ đến đám trẻ từ các căn phòng của cha tại Roma, cũng
như trên các toa xe lửa khi nó ngừng lại tại trạm.
Vào một buổi chiều đầy sương mù, đứng dưới mái ga xe lửa
Carmagnola vào năm 1857, cha đợi chuyến tầu đi Torino. Bất
cứ một khách chờ xe lửa nào khác, trong cái rét ẩm ướt này, thì
cũng đều tìm một nơi kín đáo hơn tại phòng đợi. Nhưng Don
Bosco khi chợt nghe tiếng trẻ con vui chơi, đã nhìn sâu vào
đám sương mù để tìm chúng.
Cha viết rằng: “Giữa những tiếng la hét, cha nghe rõ ràng một
giọng nói át hẳn các tiếng khác. Đó là một giọng nói của một
thủ lĩnh, được mọi đứa trẻ khác nghe theo như một lệnh. Thế là
trong lòng cha nẩy sinh ước muốn xem em nào lại có thể điều
hành lũ trẻ giữa những tiếng la hét vui vẻ này”.
Cha đã lại gần. Vừa khi thấy có bóng áo thâm lộ ra trong đám
sương mù, đám trẻ ba chân bốn cẳng chạy. “Chỉ có một em
đứng lại, tiến lên, tay chống nạnh, vẻ hung hãn, lên tiếng nói
với cha như sau: ‘Ông là ai? Ông muốn gì với tụi con?”.
Phải mất xe lửa hay là mất đứa bé

42 Pages 411-420

▲back to top

42.1 Page 411

▲back to top
Don Bosco nhìn chằm chặp vào đứa bé từ mái tóc bồng bệnh,
cho tới sâu thẳm của con mắt đầy tự hào, và cha thấy nơi em
một sức sống dồn dập, nhưng tiếc là đang trôi dạt vô phương
hướng. Qua cuộc đối thoại ngắn ngủi, sự nghi ngại tan biến, và
cha biết được tên em: “Micae Magone”, hoàn cảnh của em, “13
tuổi, cha chết”, viễn cảnh tương lai, “con đã học nghề vô
phương rỗi nghề”.
Tầu hỏa hú còi, có thể cha không kịp theo chuyến tầu hỏa.
Nhưng mất em bé này còn là một điều không may mắn lớn lao
hơn thế nhiều. Cha liền trao tay em một mẫu ảnh Đức Mẹ và
nói cùng em:
- Con hãy đi tới cha Aricácio, cha phó của con. Hãy nói với cha
ấy là vị linh mục cho con mẫu ảnh này muốn biết thông tin về
con.
Sau ít ngày Don Bosco nhận được lá thư của cha phó xứ
Camagnola nói rằng: “Cậu bé Magone là một đứa trẻ nghèo
khổ, mồ côi cha; mẹ em lo nghĩ kiếm lương thực cho gia đình,
nên không coi sóc em được; tính cuồng vọng và phóng khoáng
thả lỏng của em đã khiến em không ít lần bị đuổi khỏi trường
học; tuy nhiên em đã học khá tốt hết lớp ba tiểu học.
Về luân lý, con nghĩ là em có lòng tốt, và có phong hóa đơn sơ;
nhưng kiềm chế em là một điều rất khó. Trong lớp học cũng
như trong lớp giáo lý, em luôn phá phách khắp chốn; khi nào
em ngưng khuấy động, thì lập tức có sự bình an; khi nào em ra
khỏi nơi đó, thì tất cả cảm thấy hạnh phúc.
Tuổi của em, sự nghèo khổ và tư chất cùng trí thông minh của
em khiến em đáng được hưởng lòng bác ái cưu mang giúp đỡ
em!”.
Don Bosco trả lời thư rằng nếu em bé và mẹ em chấp nhận, thì
ngài sẵn lòng cho em đến ở Nguyện xá.

42.2 Page 412

▲back to top
Cha Aticácio gọi Magone lại, nói với em về vị linh mục hôm
đó. Tại Torino, ngài có một nhà rộng lớn có hằng trăm trẻ em
chạy nhẩy, vui chơi và học chữ hay học nghề chăm chỉ. Rồi
cha kết luận: “Ngài bằng lòng tiếp nhận cả con nữa vào nhà của
ngài. Con có muốn đi tới đó không?”. Ngài nghe em trả lời:
“Gớm thật! Con đi chứ!”.
Bà mẹ đi theo đứa con vai mang tay nải quần áo, mà lòng xe
thắt lại vì cảm động. Thế rồi Magone tới Nguyện Xá tại
Valdocco. Sau đây là cuộc đối thoại đã được Don Bosco ghi
lại:
- “Em chạy tới gặp cha và thưa: - Thưa cha, con đây, con là
Micae Magone mà cha đã gặp ở ga xe lửa Camagnoloa.
- Cha đã biết cả rồi; con vui lòng đến đây chứ?
- Vâng, vâng, thiện chí thì con không thiếu.
- Vậy cha căn dặn con đừng lật đồ lộn xộn tứ tung nhé!
- Ồ, cha cứ yên tâm, con sẽ không làm cha khó chịu. Trong quá
khứ con đã không kiềm chế mình tốt; nhưng trong tương lai
con không muốn sống như thế nữa. Hai bạn của con đã vào tù
rồi, còn con…
- Con cứ yên tâm. Con chỉ nói cho cha hay con muốn học văn
hóa hay nghề nghiệp.
- Con sẵn sàng làm theo ý cha muốn. Tuy nhiên nếu con được
chọn, con thích học văn hóa.
- Và sau khi học xong, con muốn làm gì?
- Nếu một đứa vô lại như con… nói tới đó em bé cúi đầu cười.
- Con nói tiếp đi, nếu một đứa vô lại…

42.3 Page 413

▲back to top
- Nếu một đứa vô lại như con có thể trở thành đủ tốt để làm
linh mục, con sẽ rất vui lòng làm linh mục.
- Vậy chúng ta sẽ xem một đứa vô lại sẽ có thể làm được gì,
Cha cho con học văn hóa”.
- Kể từ lúc đó hát xướng, chạy nhảy, la hét trở thành cuộc sống
của em. Dĩ nhiên em chưa trở thành một vị thánh nhỏ. “Hội
Đức Mẹ Vô Nhiễm” đặt bên em một cậu bé khác để giúp em
sửa chữa với tất cả tấm tình tốt lành. Em bé thiên thần đó còn
phải làm nhiều việc. Có những lời buột phát từ miệng em,
những câu nói thô tục, những lời phạm thượng…Nhưng mỗi
lần người bên em sửa bảo em, Micae dù rất náo nhiệt, cũng đã
lập tức cám ơn và tái bắt đầu lại tốt hơn.
- Có một điều bé Magone ghét nhất: đó là tiếng chuông kết
thúc giờ chơi và gọi em tới việc học hay tới giờ lớp. Cắp sách
dưới cánh tay, Magone đi giống như người đi làm việc khổ sai.
Nỗi buồn của một đứa bé
Nhưng tiếng chuông tan học thì thật là vui cho Magone. Don
Bosco, người đã theo dõi em với sự chăm chú yêu thương,
nhận xét"Em xem ra vọt khỏi lớp học như một phát đại bác: em
bay nhẩy mọi góc, làm cho tất cả quay cuồng vui nhộn”. Trong
trò chơi em là một thủ lĩnh. Kể từ khi em đến, phe của em hầu
như luôn chiến thắng.
Thế là một tháng trôi qua.
Một ngày kia, Magone bắt đầu ngấm buồn. Từ một góc đơn
côi, em nhìn các bạn vui chơi, em lẩn tránh các bạn đang la hét,
và có khi không ai thấy, em nức nở khóc. Xem ra có cả bức
màn sầu muộn rơi xuống trên khuôn mặt em. Chúng ta hãy
nhường lời cho Don Bosco kể:

42.4 Page 414

▲back to top
“Cha theo dõi Magone khi sự việc trên xẩy ra cho em. Một
ngày kia cha cho gọi em tới và nói với em như sau:
- Magone thân mến, cha muốn con làm cho cha một ân huệ
nhé; con đừng từ chối đó.
- Cha cứ nói đi – em trả lời cách cương quyết - con sẵn lòng
làm bất cứ điều gì cho cha.
- Cha cần con để cho cha một thời khắc làm chủ lòng con, và
con hãy tỏ rõ cho cha tại sao mấy ngày nay con buồn bã thế.
- Vâng, đúng thế… Con thất vọng về con và con không biết
làm sao nữa.
Rồi em bé bật khóc. Cha để cho nó khóc xả đi nỗi buồn; rồi cha
vui cười nói diễu:
- Con có biết viên tướng Magone, thủ lãnh của đám trẻ ở
Camagnola chứ? Thế con thuộc loại tướng tá nào? Mà sao con
không nói ra được cái làm con buồn sầu?
- Con muốn lắm, nhưng con không biết diễn tả ra như thế nào.
- Con nói cho cha một lời thôi.
- Con có lương tâm rối rắm.
- Thế là đủ cho cha rồi, con ạ! Cha đã hiểu tất cả. Con có thể
ổn định mọi sự cách hết sức dễ dàng. Con hãy nói cho cha giải
tội là con có điều gì đó phải tái xem lại ở thời đã qua, thế rồi vị
linh mục ấy sẽ nói cho con về đường đời sống của con, con chỉ
còn có việc thưa với ngài là có hay không thôi”.
Có mấy vị linh mục tới giải tội tại Nguyện Xá, nhưng hầu như
tất cả lũ trẻ đến xưng tội với Don Bosco. Buổi chiều hôm đó,
Magone tới gõ cửa văn phòng của cha:

42.5 Page 415

▲back to top
- Don Bosco ơi, chắc là con quấy rối cha... Nhưng Chúa đã đợi
chờ con lâu lắm rồi, và con không thể để cho ngài chờ đợi thêm
nữa cho tới ngày mai.
Với sự giúp đỡ của Don Bosco, Magone đặt dưới chân Chúa
Chịu Đóng đinh những khốn nạn bé nhỏ của em, mà em tưởng
nghĩ là chúng lớn ghê ghớm lắm, và kêu xin Chúa tha thứ cho
em. Don Bosco nhân chứng của sự phục sinh của em, ghi nhận:
“Micae đã mất đi niềm vui vẻ khi em đã bắt đầu hiểu được rằng
sự bằng lòng chân thật không phát sinh từ việc chạy nhẩy, mà
từ tình bạn hữu cùng Chúa và từ sự an bình của lương tâm. Khi
em thấy các bạn em tới rước lễ và trở thành tốt hơn, còn em thì
không cảm thấy lương tâm mình an ổn, nên đã rơi vào cảnh lo
lắng...Sau khi xưng tội xong, em cảm kích thốt lên: “Con hạnh
phúc quá!””.
Ngày hôm sau, tại sân chơi Nguyện Xá, Magone lại trở lại
đứng đầu đội chơi, và dẫn dắt đội tới cuộc chiến thắng đáng ghi
nhớ. Cậu lại trở lại với vai trò của vị vua của niềm vui vẻ.
Những cú đấm tại Quảng Trường Castello[3]
Don Bosco khi kể lại câu chuyện Micae Magone, đã bộc lộ cho
chúng ta thấy diễn tiến qua đó ngài thực hiện hằng trăm và
hằng trăm các cuộc gặp gỡ các bạn trẻ “mà sự dữ đã bắt đầu
hoạt động trong họ”. Ngài biết đến những cách thức hết sức
đơn giản để giao hòa họ lại cùng Thiên Chúa và dẫn dắt họ trên
con đường thánh thiện.
“Đây là lúc – theo lời Don Bosco nói – mà tiếng chuông mời
gọi vào nhà thờ không còn đáng ghét đối với Magone nữa: trái
lại nó gọi em tới gặp gỡ cùng Chúa Giêsu, Đấng đã trở thành
bạn hữu của em”.
Trên mặt trận chinh phục sự tốt lành và niềm vui vẻ, Micae
Magone thực hiện cuộc chiến đấu với phong thái đầy sung lực

42.6 Page 416

▲back to top
và hết sức tự nhiên của mình, khác hẳn với phong thái dịu dàng
của Đaminh Saviô. Giữa nhóm bạn trẻ tụ lại ở mái cổng, có
một bạn trẻ kể chuyện thiếu thanh nhã
Với sự trợ giúp của Don Bosco em vạch ra “một kế hoạch xung
trận” để duy trì và phát huy tình bạn hữu này: đó là quyết tâm
gìn giữ sự trong sạch hoàn toàn của cuộc sống của em; quyết
tâm tới cùng để phổ biến lòng tốt và niềm vui giữa các bạn
hữu”.
Trên cuốn sổ tay, Magone viết bẩy quyết định mà cậu gọi là
bẩy khẩu súng các-bin” để bảo vệ tình bạn hữu cùng Chúa.
Chúng như sau:
1. Thường xuyên gặp gỡ cùng Chúa Giêsu trong việc rước
lễ và trong tòa cáo giải.
2. Yêu mến Mẹ Maria rất thánh với tất cả tình thương yêu
dịu dàng.
3. Cầu nguyện rất nhiều.
4. Năng kêu cầu Chúa Giêsu và Đức Mẹ.
5. Không dễ dãi đối với thân xác của mình.
6. Luôn luôn làm một việc gì đó.
7. Tránh xa các bạn xấu.
(Thật dễ dàng để nhận ra rằng trong 7 điểm này chính là hành
trình mà Don Bosco đề nghị với các bạn trẻ để đảm bảo cho
mình được nên những con người tốt lành).
Trên chiến tuyến của lòng tốt và niềm vui, Magone đã chiến
đấu với sự hăng nồng và vô vị lợi, hoàn toàn khác với cách
thức dịu dàng của Đaminh Saviô. Trong nhóm tách riêng ra
dưới vòm hành lang, có một bạn trẻ kể những chuyện xấu, có
kẻ cười hô hố, kẻ khác thì muốn bỏ đi, nhưng không dám.
Magone hiểu hết, em lại gần phía sau bạn trẻ xấu đó, rồi đưa
bốn ngón tay lên miệng theo kiểu những người chăn cứu, rồi

42.7 Page 417

▲back to top
thổi thành tiếng hét long óc anh bạn đang kể chuyện. Bạn kia
nhẩy lên vì khiếp hãi rồi giận dữ la lên:
- Mày điên hả?
- Tao điên hay mày điên khi kể những chuyện dơ bẩn này?
Một hôm Don Bosco đem Magone đi với ngài để làm một vài
nhiệm vụ. Họ đi vào Quảng Trường Castello. Hai đứa trẻ đang
đánh bạc, và một đứa thốt ra những lời phạm thượng thánh
danh Chúa. Magone liền tiến thẳng tới nó và tát cho nó hai tát.
Đứa bé nguyền rủa Chúa đó sững người ra rồi lập tức tấn công
lại Magone. Cả hai người bắt đầu đấm đá nhau giữa đám đông
đứng vòng quanh theo dõi. Don Bosco buộc phải đến giữa hai
đứa trẻ để tách cả hai người ra. Magone thét lên:
- Mày hãy cảm ơn vị linh mục này đi, nếu không tao đã lột da
mày đề ăn mừng lễ rồi.
Don Bosco phải khuyên nhủ Magone không cần thiết phải đánh
đập người ta mỗi khi nghe họ thốt lên lời phạm thượng đến
Thiên Chúa.
Nhưng em không chỉ có khả năng đánh nhau mà thôi. Em ngày
càng trở nên biết phục vụ và dễ thương, quảng đại. Em giúp
các bạn nhỏ hơn em để xếp lại giường nghỉ cho ngăn nắp, lau
sạch các tấm thảm, ôn lại bài học cho các em kém thông minh.
Don Bosco đặt tay trên đầu Magone
Don Bosco rất bằng lòng với hạnh kiểm của Magone, nên vào
mùa thu, cha dẫn em cùng với các bạn trẻ tốt hơn cả qua một
vài ngày nghỉ hè tại Becchi.
Đến tháng mười năm 1858, Magone bắt đầu năm học thứ hai
tại Valdocco.

42.8 Page 418

▲back to top
Ngày 31 tháng 12 năm đó, khi cho huấn từ tối, Don Bosco
nhắn nhủ tất cả phải bắt đầu và tiếp tục năm học cách tốt lành,
trong ơn sủng của Thiên Chúa, bởi vì có lẽ “đối với một em
nào đó trong chúng con – như lời cha nói – sẽ là năm cuối đời”.
Bàn tay của Don Bosco đặt nhẹ trên đầu Magone khi ngài nói
những lời này. Cậu bé suy nghĩ: “Hay là cha nói tới tôi lời cảnh
báo ấy?”. Em không hãi sợ. Em chỉ nói trong lòng mình rằng:
“Tôi phải chuẩn bị mình đây”.
Ba ngày sau, cậu thấy đau ở bụng: đây là cơn đau cậu đã cảm
thấy trong các năm trước, đôi khi cơn đau lại trở lại. Có lẽ đó là
một cơn đau ruột thừa kinh niên. Cậu đi đến nhà bệnh, và
chuyện này xem ra không đáng lo ngại. Don Bosco nhìn em từ
của sổ và hỏi thăm xem em có chuyện gì. Ngài chỉ nghe em trả
lời: “Không có gì đâu cha. Những cơn đau bình thường ấy
mà!”.
Nhưng chiều tối ngày 19 tháng giêng cơn đau thình lình nổi lên
ghê gớm. Mẹ em được gọi lên khẩn cấp. Bác sĩ chạy tới, nghe
thấy em thở ngột ngạt, mệt nhọc, tay giang ra trong sự bất lực
của thuốc men thời đó. Ông ta chỉ nói được rằng: “Chuyện này
xấu rồi”. (các cuộc giải phẫu ruột thừa chỉ được thử nghiệm
vào cuối thế kỷ đó).
Ngày 21 tháng giêng, Magone đang ở vào những giây phút
cuối cuộc đời. Mẹ em phải trở về quê chăm lo cho các đứa con
nhỏ hơn của bà, nhưng Don Bosco thì vẫn ở đó, bên giường
bệnh của em. Em đột xuất thốt lên:
- Đã đến lúc rồi. Don Bosco xin giúp con với… Cha hãy nói
cho mẹ của con xin mẹ tha cho con vì đã làm phiền lòng mẹ.
Xin cha nói với mẹ rằng con thương mẹ nhiều, rằng mẹ hãy
can đảm lên nhé...Con đợi mẹ trên Thiên đàng...

42.9 Page 419

▲back to top
Đã tới nửa đêm. Magone thiếp đi một lúc. Rồi em như bừng
tỉnh từ giấc ngủ sâu, với vẻ mặt thanh thản, em nói cùng Don
Bosco:
- Cha hãy nói với các bạn con là con đợi chúng trên thiên
đàng... Giêsu, Giuse, Maria...
Gương mặt em lặng im, trong vẻ thanh thản của sự chết.
Nền “chính trị vĩ đại” tức là Việc Thống Nhất Nước Ý
Năm 1859 Nguyện Xá bắt đầu bước vào một thảm cảnh nhỏ
nhưng vô cùng đau đớn là cái chết của Magone, và hoàn tất với
việc chính thức thiết lập Tu Hội Salêdiêng.
Tại nước Ý xẩy ra những biến cố và những thay đổi lớn.
Diễn tiến nước Ý và Âu Châu trong những năm sau năm 1848
đã liên tục có các bước lúc đầu âm thầm, nhưng ngày càng ồn
ào và to lớn lên.
Vào tháng Mười hai năm 1852, Luy Napoleon, cháu của
Napoleon Buonaparte bằng một cuộc đảo chính đã tuyên bố
mình là hoàng đế Nước Pháp, với tên là Napoleon III. Ông tự
giới thiệu với Âu Châu như người tiếp nối vinh quang của Đại
đế Napoleon xưa: sẵn sáng ủng hộ những quốc gia đòi quyền
độc lập khỏi đế quốc Áo.
Vào tháng mười năm 1852, tại Paris, ông Gioberti qua đời.
Năm 1853, tại Torino ông Silvio Pellico và Cesare Balbo qua
đời. Cùng với họ kết thúc thời kỳ Phục Hưng lãng mạn và thời
kỳ ủng hộ Đức Giáo Hoàng và phản đối việc Đức - Áo cai
quản Ý. Giai đoạn mới của thời kỳ Phục Hưng được thống trị
bởi ông Cavour, vừa quỉ quyệt vừa bất cần đạo lý. Năm 1855,
ông ta đã phái một đạo quân Piemonte tham gia cuộc chiến tại
đảo Crimea bên cạnh cánh quân Pháp và Anh đang thực hiện
cuộc chiến tranh với quân Nga. Chống lại “kế hoạch quân sự

42.10 Page 420

▲back to top
điên” này, tại nghị viện Piemonte nổ ra cuộc tranh cãi xôi nổi
giữa cánh tả và cánh hữu. Tại Luân Đôn Mazzini nguyền rủa.
Sao lại đem quân đội mình vào chỗ chết trong một cuộc chiến
xa xôi đó trong khi xứ Piemonte đang sống trong cảnh bần
cùng (bánh ăn giá 80 xu [tức gần một đồng lire] một kí lô trong
khi lương công nhật của một người thợ chỉ là ba hay bốn đồng
lire), trong khi những khát vọng của người ý còn nằm trong
tương lai?
Nhưng Cavour nhìn xa hơn. Vào mùa xuân năm 1856 trong
Hội Nghị Hòa Bình ở Paris, ông ta đã có thể ngồi bàn Hội nghị
với các lãnh tụ của các “cường quốc Châu Âu”. Những chiến sĩ
chết tại đảo Crimea là tấm vé tham dự hội nghị cho ông ta, và
cho phép ông ta “mở ra cuộc thảo luận về vấn đế Nước Ý”.
Ngày 14 tháng giêng 1858, Orsini thuộc phe Mazzini cho nổ
bom tại Paris vào lúc Napoleon III đi tới nhà Hát Lớn. Một
trăm người bị thương, Napoleon an toàn. Orsini bị hành hình
vào ngày 13 tháng Ba, nhưng trước đó trong nhà tù ông ta đã
viết hai lá thư cho vị Hoàng đế : ông ta lên án “sự sai lầm tai
hại của tâm trí ông ta” và mời gọi Hoàng đế hãy giải phóng cho
Nước Ý.
Cavour lợi dụng các thời điểm này. Ông lôi kéo chú ý của
Hoàng đế Pháp tới nỗi hoang mang rất nguy hiểm liên quan
đến bán đảo Ý. Hoặc là phải giải quyết hoặc là để nổ ra cuộc
cách mạng của những phần tử quá khích (những người như
Orsini quả thật rất nhiều).
Vào tháng Bảy 1858 có một cuộc họp bí mật tại Plombìere. Cả
Napoleon III và Cavour đều đồng ý một cuộc chiến tranh
chống lại nước Áo và một trật tự tương lai cho Nước Ý phía
Bắc là Vương Quốc Piemonte – Lombardia – Venetia, dưới
quyền hoàng gia Savoia; ở Trung ý là vương quốc dành cho
một hoàng tử Pháp; phía Nam là vương quốc thứ ba cho một

43 Pages 421-430

▲back to top

43.1 Page 421

▲back to top
người cháu của đại tướng Gioakim Murat. Nước Đức Giáo
Hoàng sẽ thu hẹp lại tại vùng Latium, và Đức giáo Hoàng tồn
tại như chủ tịch của liên bang ba vương quốc. Nước Pháp sẽ
nhận được phần thưởng là vùng Nice và vùng Savoia.
“Nếu cần thì hãy dựng các hàng rào cản tại Torino”
Ngày 10 tháng Giêng 1859, vua Vitor Emmanuel II ngỏ với Hạ
Viện bài diễn văn về “tiếng kêu đau đớn”. “…Chúng ta không
thể vô cảm với tiếng kêu đau đớn đang âm vang lên tại khắp
các miền Nước Ý.” Napoleon III đồng ý với câu nói này; đây là
lời tuyên bố chiến tranh với Nước Áo.
Ngày 23 tháng Tư, đáp lại cuộc tập hợp của các tình nguyện
quân tại Piemonte, Nước Áo gửi tối hậu thư. Nó bị từ chối vào
ngày 26. Chiến tranh khởi sự. Quân đội Piemonte gồm 60.000
quân tràn sang biên giới. Từ nước Pháp, ngày 30 tháng Tư sư
đoàn Bataille [Chiến Trận], đội quân tiên phong của đạo quân
120.000 do chính vị hoàng đế đích thân chỉ huy.
Khi quân Pháp tới, Torino như say sưa. Constanza d’ Azeglio
đã viết: “Tôi đã thấy họ diễu hành trên Quảng Trường Castello
giữa tiếng reo hò của quần chúng. Tôi nhìn từ ban-công của bộ
cùng với ông Farina và Ricasoli. Bá tước Cavour được đám
đông nhận ra, đã được chào đón nồng nhiệt. Tôi không còn
nhận ra thành phố rất yên lặng và buồn chán của Torino xưa
nữa: nào là ánh sáng thắp sáng từ các của sổ, nào là những
tiếng hát hò, kêu la, hoan hô nhiệt liệt.”
Quân Áo gồm 160.000 người cố gắng chiến đấu chống quân
Piemonte trước khi đoàn quân của Napoleon đến. Với bước
hành quân ồ ạt, họ tiến tới Novara, Vercelli, Trino, đe dọa
Ivrea. Và đoàn quân tiên phong của họ tiến tới Chivasso (25
cây số cách Torino). Lũ lụt ở cánh đồng hạ lưu đã làm chậm
bước tiến của họ, nhưng không chận họ lại được. Thành phố
Torino hốt hoảng. Tướng Sonnaz buộc phải tập họp mặt trận tự

43.2 Page 422

▲back to top
vệ tại Doire Batee. Bá tước Cavour báo điện tín cho đức Vua:
nếu cần chúng ta sẽ chiến đấu tại Stura, và chúng ta sẽ dựng
hàng rào cản tại các đường phố Torino.
Nhưng Napoleon đã tới. Ông ta chuyển quân rất nhanh bằng
đường hỏa xa. Cuộc chiến lớn đầu tiên giữa quân Pháp và quân
Áo xẩy ra tại Magenta (vào ngày mùng 4 tháng Sáu). Sau một
ngày bất bấp bênh, quân Pháp đã nắm phần chiến thắng.
Bốn ngày sau một tin vĩ đại báo tới Torino: Ngày 8 tháng Sáu,
Hoàng đế Pháp và Đức vua Piemonte hội kiến tại Milano.
Sau đó một tin mới: Hoàng đế Áo là Francois Joseph đã rời
Vienna nước Áo để đích thân nắm quyền chỉ huy đạo quân của
mình. Một trận chiến kinh khủng đang được chuẩn bị.
Phêrô Enria lúc đó 18 tuổi đã nhắc nhớ lại rằng: “Vào năm
1858, giống như đã xẩy ra trong những năm 1848 - 1849, một
nhiệt tình chiến tranh đốt nóng lên giữa các trẻ con của dân
chúng Torino. Hàng trăm trong số chúng trải rộng ra nơi những
khu đất trống vắng bao quanh thành phố, chia ra thành hai mặt
trận và chơi trò chiến tranh. Các cuộc chiến chỉ là trận giả,
nhưng tinh thần rốt cuộc cháy bùng lên và cả những trận mưa
đá diễn ra. Điều đó xẩy ra trong suốt những ngày Chúa Nhật và
các ngày lễ.
Tôi nhớ lại là vào một Chúa Nhật kia, Don Bosco đi vào nhà
nguyện để nói chuyện với các trẻ em Nguyện Xá. Nhưng ngài
ngạc nhiên vì chỉ thấy có các em nội trú. “Những đứa khác đi
đâu cả rồi?” Ngài hỏi. Không ai biết cả. Ngài đi ra ngoài và
tiến về phía các cánh đồng cỏ: ngài tìm thấy lũ trẻ Nguyện Xá
chiến đấu cùng nhau xối xả. Có tất cả ba trăm đứa với những
cục đá lớn bay trong không khí. Don Bosco tiến vào đám hỗn
chiến này. Từ xa tôi đứng nhìn ngài. Tôi sợ là ngài sẽ phải ăn
các cục đá ném ra. Nhưng ngài bước 50 bước tới giữa đám trẻ.
Khi chúng thấy ngài, chúng ngừng tay. Ngài nói trong khi mỉm

43.3 Page 423

▲back to top
cười: “Bây giơ chúng con đã chiến đấu rồi, đã tới giờ vào học
giáo lý.” Không đứa nào chạy trốn cả. Chúng theo ngài vào
trong nhà thờ.
Thảm cảnh Hỏa ngục trong suốt 12 giờ
Cuộc chiến kinh hoàng giữa quân Áo vá quân Pháp- Piemonte
diễn ra trong ngày 24 tháng Sáu, ở phía nam hồ Garda. Vào
rạng sáng, sư đoàn thứ nhất của Piemonte do tướng Durando
chỉ huy, đã tấn công quân Áo tại “Madona thuộc vùng
Scoperta”, rồi đến sư đoàn ba và năm, dưới lệnh của tướng
Durando và Cucáchiari, đã tung các đợt tấn công khủng khiếp
lên cao nguyên San Martino đang đầy các lưỡi lê của quân Áo.
Napoleon III, đứng ở dưới các ngọn đồi Solferino, tiếp tục gửi
các sư đoàn tiến về phía trung tâm điểm của đạo binh Áo,
quyết chọc thủng nó bằng mọi giá.
Vào khoảng 10 giờ, cuộc chiến hỏa ngục diễn ra: tiếng canôn
rền rĩ, tiếng súng nổ ran, hàng chục ngàn chiến sĩ thét gào.
Đống hỗn độn thật kinh khủng: nào là tiếng la hét của các
thương binh hòa với những tiếng la hét xung trận của các trung
đoàn, tiếng ngựa phi của các đoàn kỵ binh mang những lưỡi
gươm lấp loáng, những tiếng nổ điếc tai, những ánh lửa phát ra
từ các trái lựu đạn nổ trên các tuyến chiến trường. Các cuộc
phản công khủng khiếp của đạo quân áo trắng của người Áo
diễn ra khốc liệt. Cả một rừng lưỡi lê tiến lên với sức mạnh của
sự tuyệt vọng. Từng đợt sóng người của các tay súng Pháp bị
đẩy lùi rồi lại buộc phải dồn lên tấn công trong đám hỗn độn
của các tay gươm của kỵ binh. Những binh lính tái tấn công tới
lần thứ mười, lần thứ mười lăm. Rất nhiều người tay siết cây
súng, vừa khóc vừa chạy. Những người khác thì hét lên để lấy
can đảm.
Lập tức sau trưa, cuộc tấn công của quân Pháp biến thành một
chuỗi các cuộc đánh sát lá cà dữ tợn để dành cuộc chiếm nghĩa

43.4 Page 424

▲back to top
trang, ngọn đồi Bạch dương và tháp Solferino. Đội quân
Zouave Anêrie của Napoleon III tiến công như điên: họ tung
mình vào đoàn quân Áo và thực hiện các cuộc tàn sát.
Vào 3 giờ trưa, lá cờ Pháp bay phất phới trên đồi Solferino.
Nhưng tại cánh trái, quân Piemonte không thể tiến thêm một
bước. Cuộc tiến công toàn bộ được quyết định vào lúc 5 giờ
chiều. Trong khi cuộc tấn công diễn ra, bầu trời đầy mây đen.
Những ánh chớp đầu tiên lóe sáng khắp trời. Trong khi các lữ
đoàn Piemonte tấn công cách tuyệt vọng các hàng ngũ quân đội
của thống chế chỉ huy trận Benedek của Áo, thì cơn mưa đậm
hòa với mưa đá tràn ngập chiến trường. Sau cơn bão, xuyên
qua lớp mây mù gió thổi tạt đi, người ta đã thấy lấp ló ánh các
vì sao đầu tiên, và quanh đỉnh núi San Martino, người ta lại tái
bắt đầu cuộc tấn công. Vào lúc 9 giờ tối, Vittore Emmanuel
tung đội kỵ binh tuần tiễu của xứ Montferrato. Cú sốc cuối
cùng thật là kinh khủng. Những người Áo bại trận sau 14 giờ
chiến đấu.
Kết trận chiến, trên các cánh đồng Solferino, 30.000 người nằm
la liệt. Những tiếng kêu của các thương binh và những người
hấp hối vang lên đồng một lúc, như một đám hát hãi hùng.
Henri Dunant, một chàng trai Thụy Sĩ, người sáng lập viện
tương lai của Hội Chữ Thập Đỏ đi vòng quanh với cây đèn
lồng để thăm chiến trường. “Đó thật là một cuộc quan sát thảm
cảnh hỏa ngục, chàng ta thốt lên, vâng thật đúng là ở trong
chốn thâm cung của hỏa ngục: Những tử thi méo mó, tan nát,
biến dạng, cụt tay, chân đang khóc lóc, cầu nguyện, nguyền
rủa; những người bị thương lết mình đây đó tìm những sự trợ
giúp bao có thể.” Vào lúc mặt trời mọc của tháng Sáu, bầu
không khí trở thành ghê sợ: Mùi thối của tử thi, các đám mây
của ruồi nhặng, các vết thương hôi thối, các tiếng kêu man dại.
Vâng, đây chính là cảnh chiến tranh, chiến tranh thực sự, chứ
không phải cảnh chiến tranh mà báo chí Torino hôm đó tôn

43.5 Page 425

▲back to top
vinh như là một buổi đại lễ. Trong một tờ báo xuất bản vào
cuối năm 1859, Don Bosco lên tiếng chống lại tất cả những lời
hồ hởi của lúc đó. Ngài viết: “Sau trận chiến tại Solferino, tôi
luôn luôn nói chiến tranh là điều khủng khiếp, và tôi tin rằng
nó thật là điều nghịch lại đức bác ái.”
Sự thành công của “chính trị thực dụng”
Napoleon nhận ra ngay mọi khía cạnh của cuộc tàn sát này.
những tin tức khác đến làm ông bối rối: vùng Toscana, Parma,
Modena và các lãnh thổ thuộc Tòa Thánh đều nổi dậy và biểu
lộ sự gắn bó của họ với xứ Piemonte. Điều này loại bỏ kế
hoạch đã được lấy tại Hội nghị Plombìeres về “một vương
quốc ở miền Trung ý” sẽ được trao phó cho một vị hoàng từ
Pháp. Hơn nữa cuộc đại bại của quân Áo tạo nên phản ứng của
họ là đem quân Áo-Phổ tập trung tại bờ sông Rhin.
Không báo trước cho các đồng minh Piemonte, Napoleon ký
hiệp ước đình chiến tại Villafranca ngày 11 tháng Bảy. Vittor
Emmanuel chỉ thâu nhận được vùng Lombardia[4] mà thôi.
Tin này tới Torino như một gáo nước lạnh. Trong lúc phiền
muộn, Cavour đã định tự tử. Napoleon III trở về Pháp đi ngang
qua Torino. Tại đó người ta tiếp đón ông cách lạnh nhạt. Vua
Emmanuel tháp tùng hoàng đế Napoleon cho tới Susa, cám ơn
ông vì tất cả những gì ông đã làm cho nước Ý. Nhưng vừa khi
ông lấy xe lửa trở về Torino, ông nói nhỏ: “Rốt cuộc, hắn đã đi
khỏi rồi!”
Trong những tháng dấy động tiếp theo, xứ Toscana (thủ phủ là
thành phố Firenza), rồi xứ Emilires-Romagna (thủ phủ là
Bologna) kết hợp lại với Piemonte, Liguria, Sardegna và với xứ
Lombardia. Năm sau, Garibaldi xuất chính với đạo quân của
Đạo Binh Một Ngàn Người Lính đã chinh phục Sicilires và
Nam Ý. Vào tháng Hai năm 1961 Hạ viện mới sẽ tuyên bố
Vittore Emmanuel là “vua nước Ý”.

43.6 Page 426

▲back to top
Nền chính trị thực dụng của Cavour đã chiến thắng. Grazia
Mancini, người đã sống trong những tháng đầu tiên của năm
1861, khi ông đi dạo tại San Carlo, đã viết: “Khuôn mặt tốt
lành, có sức diễn đạt, mãn nguyện của ông ta đã nói lên thật rõ
ràng: Mọi sự đã diễn tiến tốt đẹp. Đôi mắt nhỏ bé rực sáng qua
mắt kính; ông bước đi khoan thai, cân bằng cơ thể to béo của
ông trên đôi chân mỏng manh, xoa xoa đôi bàn tày nhỏ nhắn
quí phái không đeo găng của ông.”
Ngày 7 tháng Sáu năm ấy (1861), một tin bất ngờ không ai
tưởng tượng nổi lan ra khắp Torino: Bá tước Cavour đã chết.
Đây là một cú đau điếng cho vương quốc Ý non trẻ.
Giấc mơ lên chín tuổi: Gioan Bosco được trao sứ mệnh biến
thú dữ thành chiên hiền, tức là biến các trẻ nghèo, bị bỏ rơi ,
thiếu giáo dục thành những Kitô hữu tốt và những công dân
lương thiện.

43.7 Page 427

▲back to top
Chương 37
NHỮNG CUỘC DÃ NGOẠI TỚI
CÁC VÙNG MIỀN MONTEFERRATO
VÀ CUỘC SỐNG TẠI NGUYỆN XÁ
Mỗi năm vào Lễ Mân Côi, Don Bosco đem những học sinh tốt
nhất của ngài tới Becchi. Những năm đầu con số chúng khoảng
20 người. Thế rồi con số đó tăng lên. Năm 1858, nó đạt đến
trăm em.
Cha Lemoyne viết: “Trong những ngày đầu tiên của tháng
Mười, từ Nguyện Xá, các nhóm ca viên, nhạc viên và những
em khác lên đường. Mỗi người mang một túi đựng quần áo để
thay đổi trong kỳ hè, ít bánh, phó mát và trái cây”.
Tại Becchi người anh của Don Bosco là Giuse Bosco luôn luôn
niềm nở tiếp đón họ, mắt nhắm lại mỗi khi thấy đám trẻ chạy
vào vườn nho của ông, dĩ nhiên là chúng làm giảm bớt sự thu
hoạch của mùa hái nho.
Chúa nhật đầu tháng Mười họ mừng lễ mẹ Mân Côi, sau đó là
các cuộc hành trình dã ngoại kéo dài suốt mười hoặc hai mươi
ngày, hay hơn nữa.
Cho tới năm 1858, tổng hành dinh luôn luôn là Becchi: họ khởi
hành sáng sớm tới một xứ sở không quá xa, rồi tối họ trở về
nhà. Bắt đầu từ năm 1859, các cuộc dã ngoại thực sự chuyển
mình thành các cuộc “hành trình đường dài” xuyên qua núi đồi
của vùng Monteferrato.
Don Bosco chuẩn bị trước cho cuộc hành trình. Các cha xứ và
các vị ân nhân đã sẵn sàng đón nhận các nhóm đã ngoại mệt
nhọc và đói bụng. Cuộc hành trình đi xuyên qua các con đường
miền quê, các ngọn dồi và các vườn nho. Họ đi thành từng

43.8 Page 428

▲back to top
nhóm, hát xướng và đánh trống, trong khi thúc đẩy các chú lừa
tiến bước, mang trên lưng chúng các dụng cụ trang trí và những
gì cần thiết cho buổi diễn kịch. Luôn luôn Don Bosco đi sau
cùng, bao quanh bởi một đám trẻ luôn để tai lắng nghe các mẩu
chuyện cha kể về các xứ sở mà họ đi qua.
Và đội quân nhỏ dàn thành hàng, với ban nhạc đi trước, khi họ
đến gần xứ sở định đến. Họ muốn long trọng tiến vào đó.
Cha Anfossi viết: “Tôi luôn luôn nhớ lại các cuộc du hành mạo
hiểm này. Chúng luôn đem lại cho tôi muôn điều kỳ diệu và
thỏa mãn.Tôi đã đi theo Don Bosco qua các ngọn đồi
Monteferrato từ năm 1854 đến 1860. Chúng tôi gồm hằng trăm
đứa trẻ và chúng tôi thấy được danh tiếng thánh thiện mà Don
Bosco được hưởng. Các hoạt động tại các làng mạc này chính
là một khải hoàn. Các cha xứ ở vùng phụ cận đón tiếp ngài khi
ngài đi qua và nói chung cả chính quyền dân sự nữa. Dân
chúng ngó qua cửa sổ hay đi ra khỏi nhà, những nông dân
ngưng công việc của họ để xem vị thánh đi qua, các bà mẹ tiến
lại gần ngài, giới thiệu các con mình cho ngài và quì gối xin
phép lành của ngài. Theo thói quen chúng tôi thường đi thẳng
tới nhà thờ tại mỗi địa phương để thờ lạy Chúa Giêsu Thánh
Thể. Thế là nhà thờ chật ních người đến. Don Bosco liền lên
tòa giảng, ngỏ lời cùng giáo dân. Sau đó chúng tôi hát bài “Đây
Nhiệm Tích Vô cùng Cao Quí” với âm nhạc đi kèm. Sau cùng
Don Bosco ban phép lành Thánh Thể.
Nhóm trẻ ăn đồ khô, nhưng thật là dư giả, theo lối nhà quê.
Dân chúng vui vẻ mang tới cho các chú bé của Don Bosco
những giỏ hoa trái, bánh nông thôn, pho mát và những bình
rượu nho.
Họ ngụ tại hiên những nhà có mái dài hay những căn phòng,
trên những bao đan bằng lá hay cói.
Một em bé lên năm tuổi có tên là Philip Rinaldi

43.9 Page 429

▲back to top
Trong những năm 1859-1860 họ đến các xứ Villa San
Secondo, Montiglio, Pica, Marcucáco, Albugnano, Montafia,
Primeglio, Cortazzone, Pino d’ Asti…
Năm 1861, Nhóm hành trình vui vẻ này đi tới Casale
Monteferrato, Mirabello, Lu, San Salvatore và Valenza. Họ
tiếp tục lên xe lửa đi tới Alexandria và từ Alexandria tới
Torino.
Năm 1862, họ hành trình đi Calliresno, Grana, Montemagno,
Vignale, Casorzo, Camagna và Mirabello. Các con đường sắt
của Nhà Nước năm đó còn dành cho Don Bosco cả hai toa xe
lửa để trở về Torino xuất phát từ nhà ga Alexandria.
Năm 1863 và 1864, một chuỗi nhưng khó khăn làm ngưng lại
các cuộc dã ngoại này. Các trẻ em chỉ còn thực hiện các cuộc
dã ngoại tới Becchi, Mondonio là quê hương của Đaminh
Saviô thôi.
Những cuộc dã ngoại này ghi ấn không thể nào quên nơi các
trẻ em của con Don Bosco, và chính là “thư giới thiệu” Don
Bosco với các xứ sở vùng Menteferrato. Từ đây Ngài đưa được
vào Nguyện Xá biết bao nhiêu ơn gọi rực rỡ.
Khi ngài đến Lu vào năm 1861, trước căn nhà của gia đình
Rinaldi, ngài thấy chín bạn trẻ đứng xếp hàng như chín ống kèn
dương cầm. Đứa thứ tám là một đứa bé năm tuổi tên là Philip
Rinaldi. Cậu bé cảm phục ngước nhìn vị linh mục bằng một
dấu vẫy tay đã làm dậy lên cả một dàn nhạc kèn đồng, và khi
tiếng kèn ngưng, cậu ta vỗ tay thật to. Don Bosco gặp lại cậu
bé này nửa tiếng sau, tại sân phía trong khu nhà Rinaldi, nơi
cha của cậu là ông Cristoforo Rinaldi cho cha mượn một chiếc
xe ngựa đưa cha đi tới San Salvatore. Trước khi đi, ngài vuốt
ve các đứa trẻ nhút nhát đang ngạc nhiên ngó ngài, rồi nhìn
một lúc lâu vào đôi mắt của đứa bé Philip Rinaldi. Chú bé sau

43.10 Page 430

▲back to top
này sẽ trở thành Đấng Kế Vị thứ ba của Don Bosco, để đứng
đầu Tu Hội Salêdiêng.
Một cậu bé có mái tóc hung và trời mưa
Vào năm 1862, ban nhạc tới Montemagno. Một em bé chơi tại
thung lũng; em nghe thấy tiếng kèn trổi của ban nhạc, bỏ các
bạn và giầy lại và chạy tới Quảng Trường của xứ sở đó. Em
dùng khuỷu tay đưa đẩy để len lỏi tới hàng đầu. Don Bosco
xem đứa bé lạ lùng có mái tóc hung đó, và trước khi để cho em
bé đi, ngài đã hỏi em:
- Con là ai?
- Con là Lu-y Lasagna.
- Con có muốn đến Torino với cha không?
- Để làm gì cơ?
- Để học như những em nhỏ khác.
- Có.
- Vậy con hãy nói với mẹ con mai đến nói chuyện với cha tại
Vignale, tại nhà cha xứ nhé.?
Lu-y Lasagna lên 12 tuổi. Em vào Nguyện Xá vào cuối tháng
Mười. Em lanh lẹ như tia sét, nhưng vô cùng nhạy cảm. Em
nhớ nhà quá, và ít ngày sau em trốn về nhà. Một trong những
bề trên có ý không đón em trở lại nữa, nhưng Don Bosco đảm
bảo với ngài rằng: “Đứa bé này là một tấm vải tốt, cha sẽ thấy
đấy.”
Lu-y trở lại, gắn bó với Don Bosco. Cậu trở thành vị giám mục
Salêdiêng thứ hai và một vị truyền giáo rất vĩ đại.
Trời không mưa đã ba tháng. Các vườn nho trên các sườn đồi
khô hạn. Don Bosco đến giảng tuần tĩnh tâm trong ba ngày để

44 Pages 431-440

▲back to top

44.1 Page 431

▲back to top
chuẩn bị cho lễ Đức Mẹ Lên Trời và ngài thình lình loan báo ở
giữa bài giảng rằng:
“Nếu trong vòng ba ngày anh chị em giải hòa cùng Thiên Chúa
bằng một lần xưng tội và đi chịu lễ vào chính ngày lễ, thì tôi
xin hứa cùng anh chị em, nhân danh Đức Mẹ rằng trời sẽ mưa
thật to.”
Khi ngài xuống khỏi tòa giảng, cha xứ liền đến vẻ mặt cau có
nói với ngài rằng:
- Này cha, cha can đảm lắm đấy chứ?
- Về chuyện gì thưa cha?
- Cha đã dám hứa công khai rằng sẽ có mưa vào chính ngày lễ.
- Con, con nói chuyện đó ư?
- Tất cả mọi người đều đã nghe rõ. Và đấy là những chuyện
con không thích thú lắm!
Dân chúng thì tin vào lời Don Bosco. Nhiều năm sau đó, Cha
Rua và cha Cagliero là những vị đi theo Don Bosco còn nhắc
nhở tới nỗi nhọc nhằn của những giờ dài giải tội cho dân
chúng.
Lời tiên tri đã lan rộng sang các xứ bên cạnh. Nhiều người tò
chờ đợi, những người khác thì hoài nghi.
Ngày lễ Mẹ Lên Trời đến, nhằm vào ngày thứ Năm. Bầu trời
thật quang đãng. Vào ban trưa chẳng một chút mây bay trên
bầu trời.
Cha Lu-y Porta làm chứng rằng: “Trong khi chúng tôi tới nhà
thờ để đọc kinh chiều với bá tước Fassati, chúng tôi nói về cơn
mưa Don Bosco đã hứa đó. Dù cho từ lâu đài của bá tước tới

44.2 Page 432

▲back to top
nhà thờ chúng tôi chỉ mất mười phút đi bộ, mà mồ hôi vẫn chảy
nhễ nhãi trên trán. Tới phòng áo, vị bá tước nói với Don Bosco:
“Don Bosco thân mến, lần này cha đã phải cam chịu một thất
bại rồi. Cha đã hứa một trận mưa rào và bây giờ thì một cái gì
khác hẳn một trận mưa đang xẩy ra.”
Cuối giờ kinh chiều, Don Bosco mặc áo lễ ngắn mầu trắng và
quàng dây các phép, rồi bước lên tòa giảng. Và trong khi ngài
đọc kinh Kính Mừng trước khi giảng, thì ánh sáng mặt trời bắt
đầu tối nhạt lại. Cha nói được vài phút thì sấm chớp bắt đầu.
Don Bosco ngưng nói một chút, trong niềm cảm kích sâu xa.
Một trận mưa rào to và dài đập vào các cửa kính nhà thờ.
Cha Porta tiếp tục kể lại chuyện trên: “Các bạn hãy nghĩ hôm
đó từ lòng Don Bosco tuôn ra những lời hùng hồn như thế nào
vào đúng lúc mưa nhu trút đổ xuống. Đó chính là bài thánh ca
tạ ơn Đức Nữ Trinh Maria.
Sau Chầu Thánh Thể, dân chúng ở lại trong nhà thờ và dưới
vòm phía cuối nhà thờ chờ đợi vì mưa còn tiếp tục đổ xuống.
Những trận bão mùa hè tại Monteferatto thường đi kèm theo
mưa đá. Quả là cũng có chút mưa đá rơi xuống vào hôm đó.
Những người nhiệt tình đã đi tìm hiểu ngay lập tức và cắt nghĩa
rằng “trước đó mưa đá đã đổ xuống trên các vườn nho của xứ
Grana”, một làng bên cạnh xứ Montemagno hôm đó đang
mừng lễ Bổn mạng của mình, khi có một cuộc khiêu vũ diễn ra
tại Gana, là điều luôn làm các cha xứ hết sức bực mình.
Cô gái xứ Mornese có tên là Maria Mazzarello
Trong cuộc dã ngoại mùa thu năm 1864 đó, Don Bosco cùng
đám trẻ tới Mornese. Trời đã tối. Dân chúng đến gặp họ dẫn
đầu là cha xứ Valle và cha Pestarino. Ban kèn đồng trổi nhạc,
nhiều người quì xuống khi Don Bosco đi qua để xin cha chúc

44.3 Page 433

▲back to top
lành. Các bạn trẻ và dân chúng đi vào nhà thờ dự chầu Thánh
Thể, rồi ăn tối.
Sau đó được khích lệ bởi các tràng vỗ tay nhiệt liệt, các trẻ của
Don Bosco đã có một buổi hòa nhạc ngắn bằng các khúc quân
hành và nhạc nhẹ. Ở hàng đầu có cô gái 27 tuổi Maria
Mazzarello. Cuối buổi hòa nhạc, Don Bosco nói đôi lời: “Bọn
cha đã thấm mệt và các trẻ của cha ước ao một giấc ngủ ngon
lành... Ngày mai, chúng ta sẽ nói chuyện dài với nhau”.
Hôm sau, vào ban sáng, cha Pestarino giới thiệu “Các Con Đức
Mẹ Vô Nhiễm” với Don Bosco. Don Bosco rất ấn tượng bởi
lòng tốt và quảng đại của các cô gái trẻ này. Ngài nói đôi lời
với họ, khích lệ họ hãy bền đỗ trong cuộc sống họ đã chọn và
trong thực hành việc thiện.
Maria Mazzarello sẽ trở thành Mẹ Bề Trên đầu tiên của Tu Hội
Con Đức Mẹ Phù Hộ (tức các sơ Salêdiêng).
Một người kế vị thứ ba của Don Bosco: cha Philip Rinaldi; một
giám mục: Đức Cha Lu-y Lasagna; một Đồng Sáng Lập Tu
Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ; tất cả điều đó là thành quả tuyệt diệu
của các cuộc dã ngoại vào các tháng Mười: thật là tuyệt vời.
Khi nói về các cuộc dã ngoại tại vùng Monteferrato, chúng tôi
đã phải nói quá sớm về một vài diễn tiến của lịch sử. Chúng tôi
thành thật cáo lỗi và xin tuần tự tái lấy lại diễn trình tường
thuật của chúng tôi.
Thánh lễ đầu tiên của Don Rua
Ngày 28 tháng Bẩy năm 1860 Don Rua được thụ phong linh
mục.
Don Bosco đã sai ngài chuẩn bị mình chịu chức trong cuộc tĩnh
tâm tại Hội các Linh mục Thừa sai. Vào cuối cuộc tĩnh tâm,
Micae Rua viết cho Don Bosco một lá thư bằng tiếng Pháp

44.4 Page 434

▲back to top
(vào thời đó ngôn ngữ được dùng của các cha thừa sai là tiếng
Pháp), xin Don Bosco ban cho mình một kỷ niệm vào ngày
quan trọng nhất của cuộc đời của mình.
Don Bosco khi ấy đang ở Nhà Thờ Thánh Inhaxio gần Torino,
và chính ngài cũng đang dự tuần tĩnh tâm. Ngài đã trả lời Don
Rua bằng tiếng La-tinh:
“Con đã viết cho cha bằng tiếng Pháp và con đã làm điều tốt
đẹp. Vậy con hãy là người Pháp trong ngôn ngữ và lời nói; còn
tâm hồn con, trái tim con, và hành động của con thì phải luôn
là người Roma can trường và kiên quyết”.
Cha Gioan Baotixita Francesia viết lại rằng:
“Ngày 29 tháng Bảy đó, Don Bosco trở về nhà từ Tu viện
thánh Inhaxiô. Tôi cùng đi với ngài. Bởi lý do Don Bosco
không chịu nổi việc đi lại trên xe đò công cộng, nên tôi đi xe
ngựa với ngài, và ngồi gần đánh xe ngựa. Chúng tôi thật ngạc
nhiên khi thấy từ xa bóng ba người mặc áo chùng đen mà dần
dần chúng tôi nhận ra đó là thầy Rua, thầy Durando và thầy
Anfossi. Don Bosco xin người đánh xe ngựa dừng xe lại và
hỏi:
- Các ngài đi đâu thế?
Cha Rua trả lời:
- Chúng con tới Casale nơi có Đức Cha Balma có nhiệm
vụ phong chức linh mục cho con.
- Ồ! Cha hy vọng Chúa sẽ nhận lời con. Xin con thay mặt cha,
chào Đức Cha Balma nhé.
Chúng tôi vui vẻ nhìn ba người bạn này đang đi bộ, như những
người nghèo, đi đến Đức Cha để lãnh nhận chức thánh.

44.5 Page 435

▲back to top
Thánh lễ mở tay của Don Rua được tổ chức lớn tại Nguyện Xá
vào Chúa nhật tới. Bàn thờ được trang trí với những cụm hoa
trắng toát do các bạn nhỏ quét ống khói lò sưởi của Nguyện Xá
Thánh Lu-y mang tới.
Khi trở về căn phòng nhỏ của mình, sau ngày vui lớn, Don Rua
tìm thấy trên bàn viết nhỏ nhắn của mình lá thư của Don
Bosco. Ngài đọc: “Con sẽ thấy rõ hơn cha về công cuộc
Salêdiêng vượt qua biên giới nước Ý và được thiết lập trên
nhiều phần trên thế giới. Con sẽ phải làm việc nhiều và phải
chịu đau khổ nhiều; nhưng con biết đó, chỉ có bằng việc vượt
qua Biển Đỏ và sa mạc, thì mới tới được Đất hứa. Hãy chịu đau
khổ với lòng can đảm; và ngay cả dưới thế này, con sẽ không
thiếu những an ủi và sự trợ giúp của Chúa”.
Sau lễ mở tay của Don Rua, Don Bosco có được sự thanh thản
rõ rệt hơn, một cảm thức vững vàng gây ấn tượng mạnh.
Nguyện Xá giờ đây đã là một nhà lớn rộng. Các thanh thiếu
niên nội trú lên đến 500 em. Trong bốn xưởng thợ đang hoạt
động rất hữu hiệu, có tới ba trăm học sinh thợ học nghề. Don
Bosco thường xuyên phải vắng mặt: cho tất cả được ăn no
không phải là một chuyện dễ. Nhưng Don Bosco bình thản
thực hiện những chuyến đi vòng quanh để xin lòng từ thiện:
Don Rua kể từ nay đã là một Don Bosco thứ hai tại Nguyện
Xá.
Ngày 23 tháng 6 năm 1860, một tin đau đớn đến với Don
Bosco: cha Cafasso qua đời. Ngài biết được quá trễ về tình
hình nguy kịch của người bạn vĩ đại của ngài. Ngài vội cùng
thầy Phanxico Cerruti trẻ trung lên đường, nhưng khi tới thì
cha Cafasso vừa qua đời. Ngài quì xuống bên giường và cầu
nguyện lâu giờ. Người Ngài mắc nợ ít ai bằng chính là cha
Cafasso. Cha đã tin nơi ngài, tin vào sứ mệnh của ngài, ngay cả
khi ngài nghi ngờ về nó. Cha đã luôn giúp đỡ ngài, luôn khích

44.6 Page 436

▲back to top
lệ ngài. Ngài chính là vị cha tinh thần của ngài theo nghĩa
chính xác của từ ngữ.
400 chiếc bánh mì trong một thúng bánh
Ngày 22 tháng 10 năm 1860. Phanxicô Dalmazzo 15 tuổi gia
nhập Nguyện Xá. Cậu sinh tại Cavour, đã theo học những năm
đầu tiên của mình tại Pinerolo, nhưng ở đó “cậu đã được đọc
những tập san “Báo đọc Công giáo”, nên cậu đã hỏi xem Don
Bosco là ai. Sau khi biết được rằng tại Torino có nhà nội trú
cho các bạn trẻ, nên cậu quyết đến đó tham gia đời sống các
con cái Don Bosco”. Cậu được tiếp nhận để theo học năm cuối
cùng của trung học cấp II.
Tuy nhiên sau 20 ngày theo học, Dalmazzo thất vọng. “Tôi đã
quen sống sung sướng tại nhà tôi, tới đấy, tôi không thể nào
làm quen với những bữa cơm thanh đạm được, rồi lại còn phải
thích nghi với những thói quen của nhà Nguyện Xá. Thế là tôi
viết thư cho mẹ lên đón tôi về nhà, bởi vì tôi đã quyết chí trở về
nhà rồi”.
Ngày 11 tháng Mười một, mẹ cậu đã lên đón cậu. “Trước khi
ra đi, tôi muốn xưng tội lần chót với Don Bosco. Tôi đợi tới
phiên mình trong giờ thánh lễ. Sau đó, khi ra khỏi thánh lễ, mỗi
đứa trẻ đều nhận được một cái bánh mì để ăn điểm tâm sáng.
Trong khi tôi chờ đợi tới phiên mình xưng tội, thì hai bạn trẻ đi
tới vì họ phải phân phối các ổ bánh mì. Chúng nói với Don
Bosco:
- Thưa cha, không còn bánh để ăn sáng nữa.
- Cha phải làm gì bây giờ? – Don Bosco trả lời - Các con hãy
đi tới nhà ông Magra, người làm bánh mì, và nói ông đưa bánh
thêm cho.

44.7 Page 437

▲back to top
- Ông Magra đã nói là ông không trao bánh cho chúng con nữa,
vì chưa trả ông tiền bánh.
- Vậy thì để đấy, chúng ta sẽ tính. Các con hãy để cha giải tội
xong đã.
Tôi nghe rõ những câu thì thầm trao đổi đó. Thế rồi tới lượt tôi
xưng tội, và tôi bắt đầu xưng tội. Thánh Lễ đã tới lúc truyền
phép Mình Máu Thánh, và hai đứa trẻ lại trở lại:
- Don Bosco ơi, chẳng còn gì cho bữa ăn sáng cả.
- Nhưng chúng con hãy để cha giải tội đã, rồi chúng ta sẽ xem.
Các con hãy vào nhà kho hay nhà cơm xem, liệu có cái gì giúp
ta giải quyết chăng?
Trong khi chúng đi, thì tôi tiếp tục xưng tội. Tôi vừa xưng tội
xong, thì một trong hai đứa trở lại lần thứ ba:
Chúng con đã thu gom mọi sự, nhưng có rất ít bánh.
Các con hãy đem đặt chúng trong thúng bánh. Chính cha sẽ
phân phát bánh. Các con hãy để cha yên để giải tội đã. Don
Bosco tiếp tục giải tội cho những đứa trẻ còn lại. Trong khi đó,
gần cửa mở ở phía sau bàn thờ Đức Mẹ, có đặt sẵn thúng bánh.
Tôi thì nghĩ lại các câu chuyện phép lạ người ta đã kể về Don
Bosco, nên tôi tò mò, đi đến một chỗ thuận lợi để xem chuyện
gì xẩy ra.
Bên cửa đó, có mẹ tôi đứng chờ tôi:
- Phanxicô con, hãy đến với mẹ đi. Nhưng tôi ra dấu cho mẹ
hãy đợi tôi một chút. Khi Don Bosco đến, lấy từ thúng ra một
chiếc bánh, thì tôi nhìn vào thúng bánh, và thấy thúng ấy chỉ
chứa độ 15 hay hai mươi cái bánh. Do đó tôi cố đứng ở bậc cầu
thang phía sau Don Bosco, không cho ngài thấy tôi, với đôi
mắt mở thật to. Don Bosco bắt đầu phát bánh. Các trẻ con xếp
thành hàng tiến lên phía ngài, vui vẻ nhận lấy bánh từ ngài và

44.8 Page 438

▲back to top
hôn tay ngài, trong khi ngài nói với mỗi đứa một lời hay mỉm
cười với chúng.
- Tất cả các học sinh, với con số khoảng 400 em, đều đã nhận
được bánh. Kết thúc việc phân phát bánh, tôi lại muốn xem lại
thúng bánh, và tôi vô cùng kinh ngạc vì thấy thúng bánh vẫn
còn y nguyên số bánh lúc ban đầu. Tôi ngỡ ngàng qúa, liền vụt
chạy lại cùng mẹ tôi và nói với mẹ:
- Con không đi về nhà nữa, con không muốn rời khỏi đây, con
ở lại đây. Mẹ tha thứ cho con vì con đã làm cho mẹ phải đến
tận Torino. Vậy đấy, tôi xin kể lại cho các bạn tất cả những
điều chính mắt tôi đã thấy và tôi xin nói cho các bạn: Đừng rời
bỏ một vị thánh như Don Bosco.
- Đó là lý do duy nhất khiến tôi ở lại Nguyện Xá và sau này ghi
tên tôi vào số các con cái của Don Bosco”.
- Phanxicô Dalmazzo đã trở thành Salêdiêng, và 8 năm làm
Giám đốc trường Trung Học Valsalice, và 7 năm là Tổng đại
diện Tu Hội Salêdiêng tại Tòa Thánh.
Thi hành đức ái vì các người nghèo mà thôi
Trước lúc khởi đầu năm học 1860-1861, Don Bosco nhận thấy
con số học sinh ghi danh vào Nguyện Xá quá đông. Ngài sợ
rằng mình sẽ “trao ban những hoa trái của đức bác ái” cho
những kẻ thực sự không là đối tượng chính đáng của đức bác
ái. Nhằm đạt được mục đích đó, ngài cho tái in vào

44.9 Page 439

▲back to top
Chương trình của nhà nội trú một câu ngắn mới này: Các học
sinh trong hai tháng đầu phải đóng tiền học và tiền ăn chính
xác. Chỉ sau khi các em đã chứng tỏ hạnh kiểm tốt, xứng đáng
được hưởng sự trợ giúp của lòng bác ái, thì món tiền phải đóng
đó sẽ được giảm xuống hay miễn hẳn. Cha Lemoyne kể lại
thông tin này, có ghi nhận: “Tuy nhiên Don Bosco với lòng bác
ái của ngài đã làm không ít luật trừ”.
Và đây là các điều kiện ngài đã in ấn và phân phát cho niên
khóa 1860 1861:
Cho các học sinh thợ:
- Phải mồ côi cả cha lẫn mẹ.
- Đủ trọn 12 tuổi và không quá 18 tuổi.
- Nghèo khổ và bị bỏ rơi.
Cho các học sinh học văn hóa:
- Phải hoàn tất các lớp tiểu học và muốn học lên các lớp cấp II.
- Đáng được nhận vì trí thông minh và đời sống luân lý tốt.
- Đã qua hai tháng thử với tiền đóng là 24 lire mỗi tháng, sau
đó những điều kiện đối xử được thể hiện tùy theo sự xứng đáng
em tỏ ra.
- Trong số các “qui định tổng quát” được kể ra kế tiếp đó, thì
đáng kể là qui định sau đây: “Tất cả quần áo thì các em phải tự
lo liệu, trừ phi các em có thể chứng tỏ được rằng chuyện đó các
em không thể làm được vì hoàn cảnh nghèo túng”.
“ Một ban được qui tụ bí mật” vào năm 1861
Trong năm 1861 có một chuyện xẩy ra rất lạ lùng, hầu như độc
nhất, và hết sức quan trọng. Cha Alasonatti, cha Rua, thầy
Cagliero, thầy Francesia và 10 Salêdiêng khác tập hợp lại thành

44.10 Page 440

▲back to top
“một ban bí mật”. Tất cả đều xác tín rằng những gì xẩy ra xung
quanh Don Bosco thường có một tính cách ngoại thường và
thậm chí còn thật sự là siêu nhiên. Không ghi nhớ lại được các
biến cố đó sẽ là bỏ qua đi một kho tàng. Vì thế mỗi người phải
“duy trì lấy những ý niệm này” cách trung thành. Vậy mỗi
người hãy ghi chú lại. Trong các cuộc họp đều đặn của phân
ban này, các ghi chú được đọc cho mọi người nghe và được
sửa lại để cho chứng từ của mỗi người thật sự chính xác với sự
việc xẩy ra.
Cha Lemoyne kể lại sự kiện này trong cuốn thứ mười của Bộ
Hồi Sử, ghi nhận rằng: “Chúng ta có thể yên tâm về sự thật mà
những nhân chứng này truyền lại. Trong nhiều năm trôi qua, có
những người mới đến thế chỗ cho những người cũ với cùng
một công việc được thực hiện như ban bí mật này đã đề ra, vì
tấm lòng yêu mến Don Bosco và vì sự thật của các sự việc
được ghi lại”.
Chúng ta rất biết ơn các người Salêdiêng đầu tiên này. Họ đã
đầy ắp các công việc, mà còn cố gắng giành giật thời gian từ
giấc ngủ để thực hiện công trình đáng ghi nhớ, vô cùng quí giá
đó. Nếu không có nó, rất nhiều ghi nhận về Don Bosco sẽ bị
đánh mất hay sẽ bị chìm vào trong lớp sương mù của các huyền
thoại.
Điều ấy không ngăn cản chúng ta có thể và phải làm một số
những nhận định về các dữ liệu đã được ghi lại này và về
những người đã viết chuyện đời sống Don Bosco dựa trên các
chứng từ của họ. Không phải để trách cứ các thành viên trong
ban “lịch sử” này (đó chắc chắn là một chuyện điên rồ), nhưng
là để giúp chúng ta hiểu rõ hơn câu chuyện thực về Don Bosco.
Thứ nhất: Thường Don Bosco nói nhiều và thoải mái trong tình
thân mật với các con cái của mình, và ngài hoàn toàn có quyền
làm như thế. Người đích thân nói chuyện với các học trò thì ở

45 Pages 441-450

▲back to top

45.1 Page 441

▲back to top
trong tư thế khác với người “đọc để cho người ta ghi lại chính
xác lịch sử”. Vậy ta phải coi những lời Don Bosco nói như là
những lời thân tình, dễ dãi, chứ không phải những tài liệu lịch
sử đúng luật. Điều đó giống những chuyện anh hùng Napoleon
kể lại tại hòn đảo Saint Helena, nơi ông bị cầm tù, hay giống
như những chuyện Lutero nêu lên trong bàn ăn, hay nhiều
chuyện khác nữa. Những tường thuật Napoleon kể lại tất nhiên
đầy ắp mối cảm kích, những tia lóe sáng của vinh quang,
những kỷ niệm anh hùng, nhưng thật là một lầm lẫn lớn nếu có
ai đó coi đấy như là những lời chứng được tuyên thệ là đúng
thật một cách chi li với lịch sử. Chúng ta cần phải luôn luôn
đem đối chiếu chúng với các tài liệu ta thu thập được, những
bản đồ chiến trận, những thư từ đã được viết và những khế ước.
Có thể đã xẩy ra là những chuyện Don Bosco kể lại tuy không
có tầm mức lớn lao lại đã được nhận định như là tuyệt đối
chính xác và nghiêm chỉnh cho đến các chi tiết nhỏ của chúng.
Thứ hai: Những người thu lượm lại các sự kiện và những lời
nói của Don Bosco do công việc nặng nhọc họ đã phải làm tại
Nguyện Xá và do sự thiếu hiểu biết về các công việc Don
Bosco đã làm ở ngoài thành phố, nên họ đã ghi nhận lại tất cả
những điều Don Bosco đã làm, nhưng đồng thời họ hầu như
không ghi lại gì cả một chút gì về điều cùng lúc đó đang xẩy ra
tại thành phố Torino và các vùng xung quanh. Vì lý do đó, tuy
tất cả những điều Don Bosco nói đều tuyệt đối chính xác,
nhưng toát ra từ các tường thuật của họ một cảm nghĩ là chỉ có
mình Don Bosco mới làm nổi những chuyện này trong khi tại
Torino chỉ có Thiên Chúa mới biết còn có biết bao nhiều người
đang nỗ lực làm thử các kinh nghiệm tông đồ khác nhau và
quyết theo đuổi các quyền xã hội mà dân chúng cần có được.
Ai được nhìn như có một mình, thì luôn được coi như là đứng
hàng nhất; Don Bosco cũng thế, dựa theo các lời ghi chú của
các con cái của mình, thì xem ra như là người duy nhất có
những trực giác lớn về giáo dục này, và chỉ duy mình ngài mới

45.2 Page 442

▲back to top
dám có những sáng kiến trên. Nhưng nếu chúng ta xét duyệt
các sự kiện trong tổng thể của chúng, ta sẽ thấy được rằng Don
Bosco quả thật vĩ đại, nhưng bên cạnh ngài, trước và sau ngài,
còn có rất nhiều người đã nỗ lực làm việc trong cùng một
đường nét trên.
Chẳng hạn trong công cuộc xây cất Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hô
Các Giáo Hữu (mà chúng ta sẽ nói đến trong

45.3 Page 443

▲back to top
Chương sau), ta thấy như có vẻ đây là một công trình có tính
cách độc nhất: nào là chi phí thật quá lớn lao, những quà dâng
thật vĩ đại, sự hoàn thành quá mau chóng trong việc xây dựng,
con số dân chúng vô cùng đông đảo vào ngày khánh thành.
Nhưng khi ta xét kỹ lại lịch sử của Torino, thì ta cũng thấy
cùng một lúc có biết bao nhiêu nhà thờ đã được xây dựng, mà
các chi phí cũng xít sao ngang nhau:
Nhà thờ
Năm
Phí tổn
Giáo xứ Thánh Giulires
1863
650,000 lires
Giáo xứ Thánh Phêrô và Phaolô 1865
540,000 lires
Giáo xứ Đức Mẹ Vô Nhiễm
1867
220,000 lires
Đền Đức Mẹ Phù Hộ
1868
890,000 lires
Giáo xứ Thánh Barbara
1869
336,000 lires
Giáo xứ Thánh Maxime
1853
1,500,000 lires
Với so sánh ở trên, Đền thờ Đức Maria phù Hội không mất đi
chút nào tầm quan trọng của nó. Nó vẫn tồn tại như một phép
lạ của lòng can đảm, của đức tin, và đức ái. Nhưng được đặt
trong bối cảnh của bốn nhà thờ khác, ta nhận ra được bình diện
chính xác của Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hộ này. Cho nên nhìn một
mình, nó giống như một cây thông mọc ngoài sa mạc, nhưng
nhìn trong bối cảnh chung, nó là một cây thông giữa một khu
rừng. Luôn luôn vẫn là một cây thông, nhưng trong trường hợp
thứ hai, thì cây thông này chẳng phải là độc tôn, chỉ mình nó
mới đáng được ngưỡng mộ.
Chúng ta cũng có thể nói như thế về các lớp học tối, các xưởng
thợ, việc gửi các nhà truyền giáo lên đường, tất cả đều là những
chuyện đáng kinh ngạc của cả một tổng thể những việc phi
thường trong Hội Thánh Công giáo. Như thế, Don Bosco hiện
n không phải như “một hiện tượng”, mà như là một vị thánh

45.4 Page 444

▲back to top
trong một bối cảnh Công giáo đầy dấn thân, đã biết dùng đức
tin của mình mà khơi dậy những phép lạ chân chính. Ngài bên
cạnh các linh mục can trường khác (dù không phải là một vị
thánh như ngài đi nữa) đã cùng nhau làm việc với cùng một
lòng tin và lòng can đảm như nhau.
Thứ ba: Thiên Chúa đã ban ân huệ huyền nhiệm cho Don
Bosco. Ngài mơ được những giấc mơ bộc lộ tương lai cho
ngài, loan báo các biến cố sẽ được thực hiện đúng như vậy tới
từng chi tiết. Nhưng ngài cũng vẫn là một con người, một linh
mục khốn khổ, mà thường khi vẫn phải tìm kiếm một cách
khiêm cung như mỗi người trong chúng ta, chỉ thấy được một
chút xa hơn cái đầu mũi của ngài. Cũng xẩy ra là ngài cho các
ý kiến, nuôi những hy vọng, thực hiện những tiên đoán lúc thì
xẩy ra đúng vậy, lúc thì không (chẳng hạn như trong trường
hợp cha Guanella mà Don Bosco cố giữ lại ở Nguyện xá trong
khi sứ mạng của cha lại ở nơi khác). Việc ghi nhận các dự kiến
của Don Bosco, các niềm hy vọng của ngài, để rồi chắc chắn
rằng chúng buộc phải xẩy ra đúng như vậy làm ta không đánh
giá đúng mức về Don Bosco. Đó là cất đi khỏi ngài quyền được
là con người phải qui phục như bất cứ những con người nào
khác cho các bước thăng trầm của cuộc sống. Đó là một thứ sai
lầm của “tâm trí” qua đó người ta đã lượm lặt những dữ kiện,
những lời nói của Don Bosco và trao cho chúng cái gía trị tuyệt
đối. Cách riêng ngày hôm nay, chúng ta phải biết ơn các nhân
chứng đã thuật lại cho chúng ta những thành công phi thường
và cả những sự e dè, ái ngại, những phân vân và những sai lầm
của mẫu người “thật mênh mông” mà cũng thật “người
thường” của Don Bosco, cha của chúng ta.
Nhưng tất cả những nhận định ở trên không thể được coi là
những lời quở trách. Các Salêdiêng đầu tiên mà các công việc
ghi chép của họ dù cho bất toàn, nhưng quả có một giá trị đáng
kể giúp chúng ta biết về Don Bosco.

45.5 Page 445

▲back to top

45.6 Page 446

▲back to top
Chương 38
ĐỀN THỜ LỚN
ĐƯỢC NHÌN THẤY TRONG GIẤC MƠ
Vào tháng Mười 1844, Don Bosco có hai giấc mơ. Chúng ta đã
nói đến chúng trong

45.7 Page 447

▲back to top
Chương 18, nhưng bây giờ chúng ta phải tái trở lại với chúng,
và trích dẫn chúng dài hơn. Giấc mơ thứ nhất, chúng ta trích nó
từ cuốn sách Hồi Ký Nguyện Xá do chính Don Bosco viết, còn
giấc mơ thứ hai chúng ta trích từ cuốn sách do cha Barberis và
cha Lemoyne viết.
“Người nữ mục tử mời cha nhìn về phía Nam. Đưa mắt nhìn,
cha thấy một cánh đồng, tại đó người ta đã gieo trồng hạt bắp,
các củ khoai tây, cải bắp, xà lách và nhiều loại rau cỏ khác.. Bà
còn nói với cha: “Con hãy nhìn thêm nữa”, và cha nhìn trở lại.
Khi ấy cha thấy một nhà thờ cao và tuyệt đẹp. Một ban nhạc,
dàn nhạc hòa tấu và hát xướng đang mời gọi cha hát lễ. Quanh
nhà thờ có một băng chữ màu trắng với hàng chữ: Hic domus
mea, inde gloria mea “Ở đây là nhà của ta, từ đấy tỏa sáng vinh
quang của Ta” (Hồi Ký Nguyện Xá, bản tiếng ý của do cha
Ceria ấn hành, tr. 136).
Giấc mơ ba nhà thờ
“Cha như thấy mình trên một cánh đồng bằng chứa đầy một
đám rất đông các thanh thiếu niên. Có những trẻ đánh nhau, và
những kẻ khác thì nguyền rủa và nói phạm thương. Một đám
mây gồm những viên đá bay trong không khí, do đám trẻ đang
đánh nhau. Cha định rời xa nơi này thì thình lình cha thấy một
Bà bên cạnh cha và nói với cha:
- Con hãy tiến lên phía trước giữa các trẻ này và làm việc.
Cha tiến lên, nhưng để làm gì? Chẳng có chỗ nào cả để tiếp
nhận bất cứ trẻ nào. Thế là cha quay đầu về phía Bà đó, bà nói
với cha:
- Đây là nơi chốn! – Bà chỉ cho cha thấy một cánh đồng cỏ.
- Nhưng đây đâu phải là cánh đồng cỏ - Cha nói. Bà trả lời:

45.8 Page 448

▲back to top
- Con ta và các Tông đồ đã không có lấy một mãnh đất nhỏ để
tựa đầu.
Cha bắt đầu làm việc trên cánh đồng cỏ đó, khích lệ, rao giảng,
giải tội. Nhưng tất cả những cố gắng đó sẽ vô ích thôi nếu cha
không tìm thấy một khu có một tòa nhà nào đó để qui tụ các
trẻ.
Khi ấy Bà nói cho cha:
- Con hãy nhìn kìa.
Cha nhìn thấy một nhà thờ thấp và nhỏ, ở cuối một cái sân và
có rất đông trẻ. Cha tái làm việc trở lại. Nhưng nhà thờ trở nên
quá chật, nên cha chạy lại với Bà, và Bà chỉ cho cha thấy một
nhà thờ khác lớn hơn nhà thờ trước nhiều, với một căn nhà bên
cạnh. Sau đó cha đi ra xa khỏi đó một chút, trong một khoảng
đất đang canh tác, gần như ở trước mặt nhà thờ thứ hai. Bà nói
thêm:
“Ở nơi này, nơi các vị tử đạo quang vinh của Torino là
Aventore và Ottavio đã chịu chết vì đạo tại đây, trên các chỏm
đất cao đã từng thấm máu và được thánh hóa bởi máu của các
ngài, Ta muốn Thiên Chúa được tôn vinh một cách phi
thường”.
Trong khi nói vậy, Bà bước thêm một bước, đặt chân ngay tại
chỗ xẩy ra cuộc tử đạo, rồi Bà chỉ cho cha một cách chính xác
nơi đó[5].
Trong thời gian đó cha thấy mình được bao bọc bởi một số rất
đông các trẻ, với con số càng lúc cáng gia tăng; nhưng trong
khi nhìn Bà Nữ Chăn Chiên, thì các phương tiện và các nơi
chốn dành cho cha sử dụng cũng tăng lên; thế rồi cha thấy một
nhà thờ thật rộng lớn ở chính nơi mà Bà đã chỉ cho cha như là
nơi xẩy ra cuộc tử đạo của các vị thánh trong đạo binh Tebea,

45.9 Page 449

▲back to top
với rất nhiều tòa nhà xung quanh và một đài kỷ niệm tuyệt đẹp
ở giữa” (M. B. cuốn II, tr. 289).
Don Bosco đã luôn luôn để mắt đến “cánh đồng gieo trồng hạt
bắp, các củ khoai tây, cải bắp, xà lách và nhiều loại rau cỏ
khác”, mà ngài đã nhận ra nó chính xác ở phía bên ngoài bức
tường xây quanh Nguyện Xá. Ngài đã đặt cho nó một tên mới
là “cánh đồng của các giấc mơ”. Vừa khi có đủ tiền, ngài liền
mua lại mảnh đất vào ngày 20 tháng Sáu 1850. Nhưng năm
1854 (năm xẩy ra nạn dịch hạch, trong đó ngài buộc phải thâu
nhận cùng một lúc 20 em mồ côi), ngài lại phải bán mảnh đất
đó đi để trả các món nợ gấp gáp. Sau đó mảnh đất lại trở thành
sở hữu của ngài vào ngày 11 tháng Hai 1863. Nhưng vào
những tháng cuối cùng của năm 1863, đã xẩy ra những chuyện
mới.
"Đây sẽ là Nhà Thờ Mẹ cuả Tu Hội chúng ta”
Một buổi chiều tháng Mười Hai năm 1862, Phaolô Albera (một
cậu trai 17 tuổi năm đó được nhận vào Tu Hội Salêdiêng) nghe
lời tâm sự của Don Bosco. Vào một thứ Bẩy, Don Bosco giải
tội cho tới 23 giờ, và chỉ vào giờ muộn như thế, ngài mới
xuống nhà cơm với cậu bé Phaolô Albera để ăn chút gì đó.
Ngài rất lo lắng và thình lình ngài bắt đầu kể: “Cha đã giải tội
cho nhiều bạn trẻ, và cha chả còn biết rõ những gì cha đã làm
và đã nói, tới mức cha bị thu hút bởi một ý tưởng. Nó khiến
cho cha chia trí và cứ ám ảnh lấy cha. Cha đã nghĩ: nhà thờ của
chúng ta quá nhỏ, không chứa nổi tất cả các bạn trẻ của chúng
ta. Vì thế chúng ta phải xây dựng một nhà thờ khác, đẹp hơn,
lớn hơn, huy hoàng hơn. Chúng ta sẽ gọi nó là nhà thờ Đức
Maria Phù Hộ. Cha không có lấy một xu, cha cũng chẳng biết
cha sẽ lấy tiền từ đâu, nhưng điều đó không quan trọng. Nếu
Thiên Chúa muốn, chúng ta sẽ làm”.

45.10 Page 450

▲back to top
Ít lâu sau đó, ngài lại nói về kế hoạch này với Gioan Cagliero.
Và đây là chứng từ của Cagliero: “Vào năm 1862, Don Bosco
nói với tôi là ngài nghĩ đến xây dựng một nhà thờ to lớn và
xứng đáng với Đức Nữ Trinh rất thánh.
Ngài nói: “Cho tới bây giờ, chúng ta đã cử hành đại lễ kính
Đức Mẹ Vô Nhiễm. Nhưng Đức Mẹ muốn là chúng ta tôn kính
Mẹ dưới tước hiệu Đức Maria Phù Hộ: thời đại của chúng ta
thật khốn quẫn khiến chúng ta thực sự cần đến Đức Trinh Nữ
rất thánh phù hộ chúng ta để gìn giữ và bảo vệ đức tin Kitô
giáo. Và con còn biết tại sao không?
- Tôi mới trả lời: Con tin đó sẽ là Nhà Thờ Mẹ của Tu Hội
tương lai của chúng ta và là trung tâm từ đó phát xuất tất cả các
công cuộc khác của chúng ta phục vụ cho giới trẻ.
- Con đã đoán đúng - ngài nói với tôi. Đức Maria phù Hộ chính
là Người Sáng Lập và là sự nâng đỡ các công cuộc của chúng
ta” (M. B.,Cuốn VII, tr. 334).
Một nhà thờ lớn hơn có khả năng chứa các thanh thiếu niên,
“nhà thờ mẹ” của Tu Hội; đó là hai lý do khiến Don Bosco lên
kế hoạch xây dựng Đền Thờ Đức Mẹ Phù Hộ. Nhưng ngài còn
nêu lên lý do thứ ba: Thời đại chúng ta thật khốn
quẫn… Chúng ta tin rằng cần phải cắt nghĩa các từ ngữ này để
người ta không liệt chúng vào loại “các lời phàn nàn đại để”
mà vào mỗi thời lại rộ lên nơi miệng các chuyên viên than
phiền.
Những biến cố tại Spoleto và Đức Maria Phù Hộ
Sử gia Giacono Martina viết rằng lịch sử Hội Thánh vào giữa
những năm 1800 “ghi đậm dấu của một cú sốc dữ tợn giữa cái
cũ và cái mới, giữa những cơ cấu của một xã hội chính thức là
Kitô giáo và sự khẳng định ngày càng rõ nét của một nền thế
tục hóa đời sống xã hội. Do đó hiện lên một hình ảnh của một

46 Pages 451-460

▲back to top

46.1 Page 451

▲back to top
thời kỳ then chốt trong lịch sử Hội Thánh được diễn tả bằng
những hạn từ mới như là cuộc đối đầu giữa Kitô giáo và các
nền văn hóa của các thời kỳ lịch sử khác nhau mà Kitô giáo
gặp phải.
Một trong những thời điểm dữ dằn nhất của “cú sốc ghê gớm
đó” là thời điểm xẩy ra vấn đế về Roma và về Quốc gia của
Đức Giáo Hoàng. Sau cuộc chiến tranh thứ hai vì nền độc lập
của Nước Ý, theo như tác giả Pietro Stella, thì Nước Đức Giáo
hoàng (hay các bang thuộc Đức giáo Hoàng) mà các người
Công giáo coi là cần thiết cho sự độc lập của Đức Thánh Cha,
xem ra đã bị “Vương Quốc Ý chinh phục”. Các Đức giám mục
của miền Trung Ý tức là miền Umbria[6] vào ngày 2 tháng Hai
1860 đã mời gọi các tín hữu cầu nguyện Thiên Chúa “qua sự
chuyển cầu của Trái Tim vẹn sạch Đức Mẹ Maria, Mẹ Thiên
Chúa, Đấng Phù Hộ Các Giáo hữu”.
Tại Spoleto, một thành phố nhỏ miền Umbria, có tin đồn một
phép lạ cả thể trong dân chúng. Trong tháng Ba năm 1862, qua
một bức ảnh cổ xưa, được lưu giữ tại một nhà thờ hoang tàn,
Đức Mẹ có nói chuyện với một em bé lên năm tuổi và chữa
lành một nông dân trẻ. Các khách hành hương tuôn về nhà thờ
này.
Đức Tổng Giám Mục Spoleto, đức Cha Arnaldi, gửi tới tờ báo
Công giáo mang tên Sự hài Hòa, một bài viết hồ hởi về những
biến cố này. Ngài nói đến những cuộc hành hương quan trọng
đến từ miền Todi, Perugia, Foligno, Nocera, Narni, Norcia.
Cũng Đức Giám mục trên vào tháng Chín 1862 đã đề xuất ý
tưởng xây một đền thờ lớn tại những nơi xẩy ra các phép lạ, và
trao cho bức ảnh Đức Mẹ (cho tới khi đó còn gọi là “Đức Mẹ
Sao Sáng”) này cái tên “Phù Hộ Các Giáo Hữu” (Auxilium
christianorum).

46.2 Page 452

▲back to top
Don Bosco “rất hài lòng” khi đọc bài viết của Đức Cha
Arnaldi. Cũng đồng thời Ngài có giấc mơ quan trọng về Hai
i neo "tựa vào hai cột trụ". Sự kiện diễn tiến như Pietro
Braido tổng kết lại trong

46.3 Page 453

▲back to top
Chương XIV của cuốn “Don Bosco Vi Linh Mục Của Các Bạn
Trẻ Trong Thế Kỷ Của Tự Do” của ngài như sau:
Lá thư viết cho Đức Piô IX ngày 13-2-1863 kết thúc với
việc hình dung ra một trong các khía cạnh đặc trưng của lòng
sùng kính Đức Maria dưới tước hiệu Phù Hộ là sự gắn kết
không thể tách lìa của nó với việc thờ phượng phép Thánh Thể.
Don Bosco gợi ý rằng "Đức Thánh Cha làm sáng tỏ tư tưởng
cao vời cho rằng Thiên Chúa gợi hứng trong lòng con người
trong khi ngài công bố khắp nơi lòng tôn sùng Bí tích rất thánh
và lòng sùng kính Đức Nữ Trinh là hai chiếc neo đem đến ơn
cứu độ cho nhân loại lầm than"[7]. Để báo trước các biến cố
đau thương, Don Bosco cũng gợi ý trong thư viết ngày 10-3-
1863 rằng: "Mẹ Hội Thánh lại một lần nữa phải đương đầu và
gánh chịu những sự khuấy động của các con cái bội bạc của
mình. Ở đây chúng con tăng cường cầu nguyện và đặt tất cả
niềm cậy trông của chúng con nơi Chúa Giêsu Thánh Thể và
nơi Đức Maria Vô nhiễm rất thánh. Con hy vọng là Chúa Quan
Phòng sẽ kéo dài đời sống của Đức Thánh Cha, và sau những
cơn bão táp, Đức Thánh Cha có thể thấy được những ngày
quang đãng và bình an cho Hội Thánh"[8]. Các cuộc giao chiến,
các nơi ẩn náu và các cuộc chiến thắng dưới hai dấu hiệu cao
cả trên đã được chính Don Bosco trình bày một cách thật huy
hoàng trong bài giảng ngắn vào buổi chiều 30 - 5 - 1862 cho
500 em Nguyện Xá. Ngài đã áp dụng vài hình phạt, vừa thích
đáng vừa đúng thời đúng lúc và đúng dịp cho một vài em vào
ngày trước lễ Chúa Lên Trời, những em này "đã trốn khỏi
Nguyện Xá mà không có phép của bề trên", "bằng cách leo
tường". Ngài đã huấn từ cho các em như sau:
Cha sẽ kể cho chúng con một chuyện dụ ngôn, vậy các con hãy
chăm chú nghe xem các con sẽ hiểu nó ra sao nhé (...). Các
con hãy tưởng tượng thấy mình bên bờ biển và không cảm thấy
rõ đâu là khoảng đất xung quanh mình ngoại trừ ngay chỗ chân

46.4 Page 454

▲back to top
mình đứng. Trên toàn thể mặt biển có vô số những thuyền bè
có mang chiếc mỏ sắt nhọn hoắc để đi tới đâu, chúng đục thủng
các thuyền bè khác tới đó. Trong số những chiếc tầu này, có
những chiếc mang vũ khí, ca-nông, súng, những chiếc khác thì
mang những sách vở, những đồ dễ cháy, thế rồi tất cả chúng
quay mũi tầu tới tấn công một chiếc tầu khá lớn, nhằm húc đổ
nó, đốt cháy nó và gây tại hại cho nó bao có thể. Giữa biển các
con hãy tưởng tượng mình thấy hai cột cao lớn: trên một cây
cột có tượng Đức Trinh Nữ Vô Nhiễm rất thánh, ở dưới có ghi
chữ: Auxilium Christionorum (Đấng Phù Hộ Các Giáo Hữu).
Trên chiếc cột kia, một cây cột còn to hơn và cao hơn, có Mình
Thánh ngự trên đó, to tương ứng với cây cột, có ghi các
lời: Salus Credentium (Ơn Cứu Độ cho các tín hữu). Ở chân
cột còn có biết bao nhiêu sợi dây xích khác được cột vào các
neo, chờ đón các tàu chạy tới cột vào. Chiếc tàu lớn hơn do
Đức Thánh Cha hướng dẫn, và ngài làm hết sức để đưa tàu tới
giữa hai cây cột trụ này. Nhưng những chiếc thuyền khác đã
tìm mọi cách tấn công và phá hoại chiếc tàu này, với khí giới,
với những chiếc mỏ sắt nhằm xuyên thủng, với những đám
cháy đốt lên bằng các sách báo, nhưng tất cả đều thất bại và
luống công; tất cả các khí giới và vật dụng đều bị xé nát và
chìm lỉm. Có khi những viên đạn ca-nông xuyên thủng chỗ này
chỗ khác của cạnh tàu, nhưng chỉ một cơn gió thổi từ hai cột
trụ ào tới là các lỗ thủng lành lại ngay, và con tàu tiếp tục chạy.
Trên hành trình, Đức Thánh Cha một lần ngã xuống, thì lại
đứng dậy, một lần nữa ngã gục rồi chết. Ngài vừa chết một vị
khác đã lên thay ngay lập tức, và vị này dẫn con tàu đến giữa
hai cột trụ, và ngài cột dây sắt với neo vào chiếc cột Bánh
Thánh Thể và vào cột Đức Maria Thụ Thai Vô Nhiễm. -Thế rồi
một cơn chấn động lớn lao trên toàn mặt biển. Tất cả những
chiếc tàu đã tấn cống tàu của Đức Thánh Cha đã bị phân tán và
trốn chạy, va chạm vào nhau, tàu nào chìm thì tìm cách làm
chìm luôn các tàu khác. Những tàu đậu ở xa thì cẩn thận đi lùi

46.5 Page 455

▲back to top
lại, và sau khi những con tàu khác đã bị chìm vào trong vòng
nước xoáy, thì những chiếc tàu còn lại vội vàng chèo về phía
chiếc tàu lớn: và khi chúng tới đó, chúng cũng vội cột mình
vào những chiếc neo treo ở hai chiếc cột và tại đó chúng tìm
được sự yên hàn tuyệt đối". Kể tới đây, Don Bosco giúp tìm lời
giải thích khi hỏi cha Rua, và cha Rua đã trả lời một cách đơn
giản là "Con thấy chiếc tàu lớn của Đức Thánh Cha chính là
Hội Thánh (...) Còn những người bảo vệ Hội Thánh chính là
những người tốt, yêu mến Toà Thánh, còn những người khác là
những kẻ thù". Don Bosco đồng ý và thêm: "những chiếc tàu
của kẻ thù chính là những cuộc bách hại đang được chuẩn bị
chống lại Hội Thánh. Điều đã xẩy ra cho tới bây giờ chưa là gì
cả"[9].
Lời kỷ niệm Don Bosco gửi cho các học sinh Mirabello ngày
30-12-1863 chính là "Lòng sùng kính Đức Maria rất thánh".
Ngài đã bình luận: "Các con rất thân mến, các con hãy tin rằng
cha không nghĩ là mình nói quá khi quả quyết rằng việc chịu lễ
thường xuyên là một cột trụ lớn trên đó một cực trái đất được
cột vào, và lòng sùng kinh Đức Mẹ là một cột trụ khác nữa mà
cực bên kia của trái đất được cột vào"[10].
Với những niềm xác tín về Đức Mẹ Phù Hộ như thế, năm 1863
Don Bosco đã tậu thêm đất để xây tường vòng quanh Đền thờ
tương lai. Năm 1864, ngài cho thực hiện công việc đào bới, tậu
vật liệu, và tiến hành công việc xây dựng Thánh Đường Đức
Mẹ Phù Hộ.
Một Tên gọi của Thánh Đường khiến người ta phải nhăn mặt
Don Bosco trao cho kỹ sư Antôn Spezia lo việc lập họa đồ Đền
thờ dưới hình thập giá La-tinh trên một diện tích 1,200 mét
vuông. Chiều dài nhất của thánh đường là 48 mét. Với cuộn
họa đồ trong tay, Don Bosco đem tới tòa thị chính để xin sự
chấp thuận. Về bảng vẽ chính quyền không có ý kiến gì; ngược

46.6 Page 456

▲back to top
lại họ còn hứa (dù chỉ thuần túy bằng miệng) tài trợ cho thánh
đường một món trợ cấp ngoại thường là 30,000 lires mà tòa thị
chánh ban cho một nhà thờ giáo xứ mới.
Điều làm cho người ta nhăn mặt chính là tước hiệu của nó
thánh đường kính Đức Mẹ Maria Phù Hộ. Các sự kiện tại
Spoleto, lá thư của các Đức Giám mục vùng Umbria, các cuộc
tranh luận với tờ báo Sự hài Hòa đều khiến cho chính quyền thị
chánh e ngại. Tước hiệu này xem ra có tính cách phản bác.
“Vậy liệu chúng ta có thể đổi cái tước hiệu lạ kỳ này chăng? Ví
dụ gọi nó là Nhà Thờ Đức Mẹ Mân Côi, hay Đức Mẹ Hòa
bình, hay Đức Mẹ Núi Các-men?... Đức Mẹ quả có lắm tước
hiệu cơ mà”.
Don Bosco mỉm cười.
“Các vị cứ chấp thuận dự án của tôi đi. Còn về tước hiệu, thì
chúng ta luôn luôn có thể thỏa thuận với nhau”.
Nhưng người ta đã chẳng bao giờ đi tới thỏa thuận về điều đó
cả: Don Bosco vẫn giữ nguyên tước hiệu trên.
Bắt đầu với tám đồng xu
Sau khi nhận được phép xây cất, Don Bosco trao nhiệm vụ xây
cất cho nhà thầu Carlo Buzzetti (anh của Giuse Buzzetti. Người
có tên Carlo này Don Bosco đã gặp tại nhà thờ thánh Phanxicô
Assisi, đã trở thành người dẫn dắt công trình xây dựng đáng tin
cậy. Thế rồi Don Bosco gọi cha quản lý Saviô và lệnh cho cha
khởi sự công việc chuẩn bị đất đai.
“Nhưng thưa Don Bosco, chúng ta sẽ làm sao đây? Đây đâu có
phải là một nhà nguyện, mà là một nhà thờ rất lớn và tốn phí
rất nhiều tiền. Sáng hôm nay tại nhà chúng ta thậm chí còn
chưa có tiền để trả tiền tem cho các lá thứ gửi đi.

46.7 Page 457

▲back to top
- Con hãy bắt đầu chuẩn bị đất đai, Don Bosco trả lời. Có bao
giờ chúng ta đã bắt đầu một công việc mà có sẵn những món
tiền cần thiết đâu? Con hãy để cho Chúa quan Phòng còn có
việc phải làm chứ”.
Các công việc đã khởi sự vào mùa thu năm 1863, rồi tái bắt
đầu lại vào tháng Ba 1864.
Vào cuối tháng Tư, do lời mời của người thầy, Don Bosco
cùng với các linh mục của ngài và nhiều học sinh khác, đi
xuống hầm đào để đặt viên đá đầu tiên. Sau lễ nghi này, Don
Bosco quay về phía Carlo Buzzetti và nói với anh ta:
“Cha muốn ngay lập tức trao tiền cho các công việc to lớn
này”.
Ngài lấy cái ví của ngài ra và mở nó, và đổ hết tất cả những gì
có trong đó vào tay chủ thầu là 8 xu, tức là chưa tới được nửa
lire Thấy Buzzetti há hốc mồn ra, ngài lập tức nói thêm:
“Con cứ an tâm. Đức Mẹ sẽ nghĩ đến chuyện đem tiền bạc cần
thiết tới”.
Dĩ nhiên là Đức Mẹ sẽ nghĩ cách, nhưng để có tiền bạc đến, thì
cũng luôn cần mồ hôi cùng sự mệt nhọc của Don Bosco.
Ai đã nghiên cứu dung mạo của hai vị thánh đồng thời tại
Torino: là Cottolengo và Don Bosco, tất thấy mình bị đánh
động bởi sự khác biệt của các ngài: Cả vị này lẫn vị kia đều
nhận được sự trợ giúp của Chúa Quan Phòng. Nhưng trong khi
cha Cottolengo nói: “Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị sẵn số tiền
mà chúng ta đang cần. Chúng ta hãy đợi tiền sẽ đến”; thì Don
Bosco lại nói: “Chúa Quan Phòng đã chuẩn bị tiền sẵn mà
chúng ta đang cần. Chúng ta hãy đi tìm tiền đó đi”.
Cha Phaolô Albera, người kế vị thứ hai của Don Bosco, vốn
sống gần ngài trong thời gian đó, đã nói rằng: “Chỉ những ai

46.8 Page 458

▲back to top
chứng kiến mới có một ý niệm chính xác về công việc và
những hy sinh cha chúng ta đã đảm nhận lấy cho mình trong
suốt những năm hoàn thành ngôi thánh đường Đức Mẹ Maria
Phù Hộ Các Giáo Hữu, được nhiều người coi là một công cuộc
táo bạo, vượt lên trên sức lực của một linh mục khiêm nhượng
đã phải chịu trách nhiệm hoàn thành nó”.
Don Bosco ráng ép trí tưởng tượng của mình để ép buộc lòng
quảng đại của dân chúng. Ngài gửi khắp cả Torino và sứ
Piemonte bằng vô số những thư từ và thư luân lưu; ngài tung
những lời kêu gọi quyên góp; ngài kêu mời những người nặng
ký của trần gian ở Torino, Firenza, Roma đóng góp. Vào tháng
Năm 1866 Don Bosco viết cho kỵ sĩ Oreglires: “Số người thợ
xây phải tiếp tục làm việc tại nhà thờ đã bị giảm xuống thành
tám người, vì thiếu các phương tiện. Đây là lúc nguy kịch cần
đến bàn tay Ngài cứu vớt chúng tôi”.
Đức Mẹ đi quyên góp cho Don Bosco
Nếu “Don Bosco khổ sở” vượt thắng được những khó khăn, đó
chính là nhờ sự trợ giúp của đức Maria Phù Hộ vì Người đứng
ra thực hiện “những việc quyến góp kết quả nhất”. Tin đồn về
“những ân huệ” lớn nhỏ mà Đức Mẹ ban cho những ai giúp đỡ
xây dựng thánh đường lan tỏa mau chóng tại Torino và tại
nhiều miền Nước Ý.
Ơn có tiếng vang lớn nhất có lẽ là ơn mà thượng nghị sĩ Giuse
Cotta nhận được. Ông vốn là ân nhân của Don Bosco và rất
được biết đến trong những môi trường chính trị và tài chánh tại
Torino.
Cha Lemoyne kể rằng trong khi vị thượng nghị sĩ 90 tuổi ốm
liệt giường mà các bác sĩ không hé lộ một tia hy vọng, thì Don
Bosco đến tìm ông. Ông chỉ còn thều thào nói với Don Bosco:
- Chỉ còn ít phút nữa là con phải đi vào cõi vĩnh cửu.

46.9 Page 459

▲back to top
- Không, thưa thượng nghị sĩ! Don Bosco vui vẻ trả lời. Đức
Mẹ hãy còn cần thượng nghị sĩ trên trần gian này. Ngài còn
phải giúp tôi xây dựng nhà thờ.
- Không còn hy vọng nữa, thưa cha, vị thượng nghị sĩ nói nhỏ.
Đức tin của Don Bosco đưa ngài tới chỗ vững tâm lạ thường.
Ngài nói như diễu:
- Thượng nghị sĩ sẽ làm gì nếu Đức Mẹ cho nghị sĩ ơn lành
bệnh?
Ông cười, cố lấy sức bình sinh, giơ hai ngón tay ra phía Don
Bosco:
- Hai ngàn lires nhé. Nếu con khỏi bệnh, con chuyển hai ngàn
lires trong sáu tháng cho công trình xây dựng nhà thờ
Valdocco.
Ba ngày sau vị thượng nghị sĩ xuất hiện trước Don Bosco lành
lặn:
- Con đây, ông nói cùng Don Bosco. Đức Mẹ đã chữa con và
con đến cùng cha để trả phần nợ thứ nhất của con.
Chúng ta sẽ chỉ đan cử ra ở đây hai ơn lạ nữa, khi mà Don
Bosco vào ngày 11 tháng Hai 1868 viết cho kỵ sĩ Oreglires
rằng: “Mỗi ngày Đức Maria Phù Hộ đều làm những chuyện
ngày càng nổi bật để giúp nhà thờ. Điều đó lấp đầy hằng cuốn
sách…” Vào dịp điều tra để tôn phong chân phước cho Don
Bosco, Đức Cha Bertagna làm chứng qua tuyên thệ rằng:
“Trong cuộc tĩnh tâm tại Tu viện thánh Inhaxiô, Don Bosco xin
tôi lời khuyên để biết ngài có nên tiếp tục ban các phép lành
cho những người bệnh với các ảnh của Đức Maria Phù Hộ và
của Chúa Cứu thế chăng, bởi vì ngài nói người ta đồn rất dữ về
rất nhiều các trường hợp chữa lành tiếp nối nhau và chúng
giống như những việc diệu kỳ. Liệu điều này xấu hay tốt? Tôi

46.10 Page 460

▲back to top
đã nghĩ là nên khuyên Don Bosco tiếp tục ban các phép lành
của Đức Mẹ Phù Hộ”.
Người mẹ, đứa trẻ thơ và những đồ trang sức của người nghèo
Một hôm Don Bosco đi phố. Khi trở về Nguyện Xá, ngài thấy
ở gần cửa ra vào có một người đàn bà nghèo ẵm một đứa bé
khoảng một tuổi trong vòng tay mình. Đức bé gầy gò, đầy mụn
nhọt, bất động và câm như chết rồi. Don Bosco ngừng lại rồi
hỏi người mẹ:
- Em bé ốm bao lâu rồi?
- Nó luôn như vậy từ lúc mới sinh.
- Bà có đem em tới bác sĩ khám bệnh chăng?
- Có, nhưng bác sĩ nói là không thể làm gì cho nó được.
- Và bà có bằng lòng thấy nó khỏe mạnh lại chăng?
- Có, nhưng con không đáng hưởng một ơn huệ như vậy. Nếu
con bé khỏi, con sẽ dâng tất cả những gì quí giá nhất con có.
- Vậy bà chuẩn bị nhé, khi bà có thể, bà hãy đi xưng tội và chịu
lễ. Trong vòng 9 ngày bà hãy đọc một kinh Lạy Cha và một
Kinh Kính Mừng, và xin chồng bà cùng đọc với bà. Đức Mẹ sẽ
nhận lời bà.
Rồi ngài chúc lành đứa bé bằng phép lành Đức Mẹ Phù Hộ.
Mười lăm ngày sau, vào một Chúa Nhật, tại phòng áo của nhà
thờ, giữa những người tìm gặp để nói chuyện với Don Bosco,
có một người đàn bà mang theo một đứa bé có đôi mắt sáng và
rất sinh động. Khi bà ta tới với Don Bosco, bà ta đã thốt lên
tươi tỉnh:
- Này cha, đây là đứa con của con.

47 Pages 461-470

▲back to top

47.1 Page 461

▲back to top
- Bà muốn gì, thưa bà?
Don Bosco không nhớ được về phép lành cha đã ban cho bà.
Người đàn bà nhắc lại và kể cho ngài là vào ngày thứ ba hay
thứ tư của tuần chín ngày, đứa bé trai của bà đã được lành
bệnh. Rồi bà ta nói thêm:
- Bây giờ con đến để thi hành lời con đã hứa.
Trong khi nói vậy, bà ta lấy ra một cái hộp trong đó có những
đồ trang sức của người nghèo: một cái vòng đeo cổ, một chiếc
nhẫn và một đôi hoa tai. Don Bosco bối rối, chắc hẳn ngài đã
nghĩ đến những đồ trang sức của mẹ ngài. Nhưng người đàn bà
nói tiếp:
- Con đã hứa với Đức Mẹ là con sẽ dâng hiến những cái gì quí
hóa nhất đối với con. Và con xin cha vui lòng nhận lấy.
Don Bosco lắc đầu:
- Bà thân mến, thế bà lấy gì để đương đầu với cuộc sống chứ?
- Không, chúng con sống ngày này qua ngày khác với tiền
lương của chồng con, người đang làm việc tại lò đúc.
- Vậy hai ông bà có thể giữ lại được gì chăng?
- Làm sao cha nghĩ chúng con có thể giữ lại được gì với có 3
lires một ngày công thôi?
- Còn chồng bà có vui lòng để bà dâng những vật này chăng?
- Vâng, ông ấy biết và ông ấy bằng lòng.
- Nhưng như thế ông bà sẽ chẳng còn lại gì cả. Ông bà sẽ làm
gì khi ốm đau hay gặp tai nạn?
- Chúa biết chúng con nghèo và Ngài sẽ lo liệu. Còn con, con
phải làm điều con đã hứa.

47.2 Page 462

▲back to top
Don Bosco hết sức cảm động:
- Này bà nhé, chúng ta sẽ làm như sau: Đức Mẹ không đòi ở bà
một hy sinh quá lớn như vậy. Nếu bà thật sự muốn dâng cho
Đức Mẹ một dấu của lòng biết ơn của bà, thì bà chỉ cần cho tôi
chiếc nhẫn thôi, còn chiếc vòng đeo cổ và đôi hoa tai thì bà giữ
lại.
- Ồ không! Con đã hứa là dâng tất cả và con phải cho đi tất cả.
- Bà hãy cứ làm như tôi nói với bà. Đức Mẹ bằng lòng với
chuyện đó mà.
- Có thật không cha? Con không muốn nuốt lời của mình.
- Bà không nuốt lời của mình đâu. Tôi quả quyết với bà như
vậy nhân danh Đức Mẹ.
Người đàn bà xem ra còn có chút ít hoài nghi, sau cùng bà ta
kết luận:
- Vậy, con làm như vậy. Nhưng nếu cha có muốn cầm hết số
vàng của con, thì cha cứ lấy nhé.
Don Bosco nhắc lại với bà ta là đừng ái ngại và đưa tay vuốt
nhẹ đứa bé (M.B., Cuốn X, các trang 94-95).
Người làm công nhật xứ Alba
Một người từ xứ Alba đến với Don Bosco sau cả một ngày một
đêm cuốc bộ. Ông ta xưng tội, rước lễ, rồi trình diện với Don
Bosco để thi hành một lời hứa. Ông ta kể lại rằng ông ta đã ốm,
bác sĩ đã nói thế là xong đời rồi; thế là ông ta hứa với Đức Mẹ
là ông ta sẽ đem đến cho Đức Mẹ tất cả những gì ông ta có nếu
ông ta được khỏi bệnh. Rồi bỗng nhiên ông ta khỏi bệnh. Don
Bosco thấy người này ăn vận khốn khổ quá; ông ta rút ra một
mảnh giấy từ trong túi, cẩn thận gỡ nó ra. Giữa tờ giấy có một

47.3 Page 463

▲back to top
đồng bạc: một lire. Ông ta đưa nó cho Don Bosco rồi trịnh
trọng lên tiếng:
- Đây là tất cả những gì con có, tất cả của cải của con.
- Ông làm nghề gì?
- Làm công tại vườn. Con làm việc mỗi ngày.
- Ông sẽ trở về nhà thế nào?
- Con sẽ trở về nhà y như con đến đây: tức là đi bộ.
- Ông không mệt ư?
- Cũng khá mệt, vì cuộc hành trình khá dài.
- Ông chưa ăn gì cả chứ?
- Dĩ nhiên rồi, vì con muốn chịu lễ. Trước nửa đêm con có ăn
một mẩu bánh mì con mang trong túi.
- Và bây giờ ông còn gì để ăn chăng?
- Không còn gì cả, thưa cha.
- Vậy chúng ta sẽ làm như vầy nhé: hôm nay ông ở lại đây với
cha. Cha cho ông ăn bữa trưa và bữa tối. Ngày mai, nếu tiện,
ông sẽ trở về nhà.
- Thật là tuyệt vời! Con đem đến đây một đồng lire, và cha cho
con ăn tốn tới hai hay ba lires!
- Này nhé: ông đã dâng cho Đức Mẹ một món quà. Còn bây
giờ, Don Bosco thực hiện món quà dâng của mình: đó là một ít
cháo và một ly rượu thôi, chứ có gì?
- Con xin thưa rõ với cha là con không nhận. Con biết Don
Bosco và Đức Mẹ có duy một túi tiền chung thôi. Vậy nên bây
giờ con xin cuốc bộ về nhà của con. Nếu con đói, con sẽ ăn

47.4 Page 464

▲back to top
xin. Nếu con mệt, con sẽ ngồi nghỉ dưới bóng cây. Nếu con
muốn ngủ, người ta sẽ vui lòng cho con nằm trên rạ mà ngủ.
Còn lời hứa của con với Đức Mẹ, thì con phải hoàn tất nó một
cách đúng mức. Con xin chào cha và xin cha cầu nguyện cho
con”.
Và rồi không thêm một lời nào nữa, ông ta lên đường
(M.B., Cuốn X, các trang 97-98).[11]

47.5 Page 465

▲back to top
Chương 39
DON RUA: TỪ MIRABELLO CHO TỚI
HỒI KHÁNH THÀNH VƯƠNG CUNG
THÁNH ĐƯỜNG ĐỨC MẸ PHÙ HỘ
Tại Mirabello, thuộc giáo phận Casale Monferrato, cha xứ có
một trường trung học trong khuôn viên giáo xứ. Ngài mời Don
Bosco tới nhận nhà trường. Sau khi chắc chắn được rằng mình
sẽ là “chủ nhân ông tại trường của mình” và được quyết định
rằng trường sẽ nhận ưu tiên các ứng sinh trẻ tới chức linh mục,
Don Bosco tiếp nhận trường học đó.
Khi đó ngài bận tới tận cổ trong công cuộc xây dựng thánh
đường Đức Mẹ Phù Hộ, nhưng ngài cũng quyết tìm mọi biện
pháp để sáng kiến thành lập trường Mirabello đi tới thành
công. Đức Cha Calabiana, Giám mục Casale, lúc ấy đang có rất
ít ơn gọi tới chức linh mục, đã hoàn toàn chấp thuận dự án. Do
đó trường này được gọi là “ tiểu chủng viện”.
Vào mùa thu năm 1863, Don Bosco gọi Don Rua đến và bảo:
- Cha xin con một hy sinh lớn. Người ta đã đề nghị chúng ta
mở một “tiểu chủng viện” tại Mirabello, trong vùng
Monteferato. Cha tính sai con tới đó để điều hành trường. Đây
là nhà Salêdiêng đầu tiên được mở ngoài vùng Torino. Hằng
ngàn con mắt bám sát chúng ta xem “chúng ta tiến hành ra
sao”. Cha hoàn toàn tín nhiệm vào con. Cha sẽ cho con các hội
viên cần thiết để cho nhà này bắt đầu tốt đẹp”.
Cha Rua lúc đó 26 tuổi. Don Bosco cùng ngài nghiên cứu danh
sách các Salêdiêng sẽ đi theo cha Rua. Các tư giáo Provera,
Bonetti, Cerruti,Albera, Dalmazzo và Cuffia đã được chọn.

47.6 Page 466

▲back to top
Họ cũng nghiên cứu một công thức sẽ sớm đem lại cho họ
những kết quả tốt: Đó là sẽ có một số những em tốt hơn cả
được chọn ra từ Nguyện Xá để đem tới trường trung học
Mirabello để là; “men tốt” giữa con số 90 em học sinh nam
được nhận trong năm đầu tiên tại đó.
Bốn trang giấy mang giá trị của một di chúc
Cha Rua tới Mirabello sau lễ Đức Mẹ Mân Côi vào đầu tháng
mười. Ngài đem theo bốn trang giấy gồm các lời khuyên quí
báu mà Don Bosco đã viết cho ngài.
Cha Pietro Stella nói là “Bốn trang giấy này có giá trị của một
bản di chúc. Don Bosco phản ánh tại đây toàn bộ cung cách
của các mối quan tâm chính yếu của một người cha, một nhà
giáo dục, một linh mục đang mưu cầu ơn cứu độ của các linh
hồn”.
Chính Don Bosco cũng rất ý thức là mình đã thành công trong
việc vạch ra trong những dòng chữ này một trong các bản tóm
lược tốt nhất của hệ thống giáo dục của ngài, đến độ sau đó
ngài đã viết lại những trang này (có thêm bớt và thay đổi đôi
chút) cho các Giám đốc Salêdiêng, dưới đề tài: Các lời tâm
niệm ký thác lại cho các Giám đốc.
Chúng ta thử ghi nhận lại một bản tổng hợp sau đây:
"Cha nói với con tiếng nói của một người cha dịu dàng muốn
mở lòng mình cho một trong các con cái thân thương nhất của
cha.
Với chính mình con
- Đừng sợ gì cả.
- Hãy tránh các việc hãm mình trong của ăn của uống.
Mỗi đêm con nghỉ ít là sáu tiếng.

47.7 Page 467

▲back to top
- Con hãy cử hành Thánh Lễ và Đọc Kinh Thần vụ với lòng
đạo đức, sùng tín và chăm chú.
- Mỗi buổi sáng hãy nguyện gẫm một chút, và trong ngày hãy
đi viếng Thánh Thể một lần.
- Hãy cố gắng làm cho mình được yêu mến trước khi làm cho
các trẻ nể sợ mình; khi con ra lệnh hay sửa trị, hãy lo làm cho
mọi người hiểu được rằng đó là vì lợi ích chứ không phải do sự
nổi nóng và ý riêng của con. Hãy chịu đựng mọi sự khi phải
đứng ra ngăn ngừa tội lỗi.
- Hãy suy nghĩ kỹ càng trước khi lấy các quyết định quan
trọng.
- Khi con phải làm một báo cáo về một người nào, con hãy cố
gắng làm sáng tỏ vấn đề trước khi đưa ra một phán quyết.
Với các thầy giáo
- Hãy cố gắng thường xuyên nói chuyện với họ. Nếu con hay
được rằng họ cần bất cứ một điều gì, thì hãy làm hết sức để lo
liệu cho họ chuyện đó.
- Hãy lo sao để họ tránh các tình yêu riêng tư và thiên vị đối
với các học trò.
Với các giám thị
- Hãy cố gắng liên hệ với họ để biết quan điểm của họ về hạnh
kiểm của các trẻ em. Hãy lo sao cho họ mau mắn trong nhiệm
vụ của họ. Họ cần phải tham gia trò chơi của các trẻ em.
Với các học sinh
- Không nhận dưới bất cứ lý do nào một học sinh từng bị đuổi
khỏi các trường khác hay qua những cách thức khác, học sinh
này đã được báo cho con là có những thói quen xấu.

47.8 Page 468

▲back to top
- Con hãy tìm mọi cách để có thể dự các giờ chơi giữa các trẻ.
Hãy lợi dụng dịp để nói đôi lời rỉ tai thân ái, mà con biết nói ra
khi có cơ hội trong lúc này hay lúc khác và khi con cảm thấy
điều đó nên làm. Đây chính là một bí mật để con làm chủ trái
tim của các trẻ.
- Con hãy lo liệu khai sinh Hội Bạn Đức Mẹ Vô Nhiễm
Nguyên Tội.
Với các học sinh ngoại trú
- Đức ái và sự lịch thiệp là những đặc tính của một giám đốc,
đối với các học sinh nội trú lẫn ngoại trú.
- Liên quan đến những vấn đề vật chất, con hãy hết sức nhường
nhịn bao có thể, dù mình có phải chịu thiệt thòi, miễn là duy trì
được tình bác ái.
- Trong những chuyện thiêng liêng, hay luân lý mà thôi, thì
mọi sự phải được giải quyết vì vinh danh cao cả của Thiên
Chúa và ích lợi của các linh hồn. Những công việc, sự cứng
cỏi, tinh thần trả thù, tự ái, lý lẽ, yêu sách, và thậm chí cả danh
dự nữa, ta đều phải hy sinh tất cả trong trường hợp này.
Và sau đây là những điều được thêm vào mà Don Bosco đã
thực hiện khi ngài chép lại những điều trên để làm
thành Những lời tâm huyết dành cho các giám đốc:
- Con hãy lo sao để không ra lệnh làm những việc vượt quá sức
hay nguy hại cho sức khỏe.
- Trước bất cứ một quyết định nào, con hãy nâng lòng lên cùng
Thiên Chúa trong ít phút giây.
- Hãy hết sức lo liệu để các học sinh biết đến con và con biết
đến chúng bằng việc trải qua những thời gian con có được để ở
bên chúng.

47.9 Page 469

▲back to top
- Con hãy để lại cho người khác các biện pháp trấn áp và kỷ
luật.
- Hãy hết sức lo liệu để nương theo các khuynh hướng của mỗi
người, trong khi ưu tiên trao phó các nhiệm vụ cho những
người mà con biết là họ ưa thích các nhiệm vụ đó nhất.
- Mình phải cố gắng cần kiệm trong mọi sự, nhưng hãy lo liệu
sao để những người đau ốm không thiếu thốn gì cả.
- Sự suy xét, thời gian, kinh nghiệm cho cha chạm tới được
bằng tay là thói tham ăn, ham muốn, sự khoe khoang đã tạo
nên sự đổ vỡ của các Tu Hội rất phồn vinh và các dòng tu quan
trọng. Những năm tháng trôi qua sẽ làm cho con được biết các
chân lý mà có lẽ giờ đây con coi là không thể tin nổi”.
Những lời nói rỉ vào tai của Don Bosco
Don Bosco gợi ý với Don Rua: “Hãy tìm cách nói nhỏ vào tai
những lời thân ái mà con có thể nói ra...”. Những lời nói nhỏ
của Don Bosco chính là một trong những bí quyết của công
việc giáo dục, theo như chứng từ của các học trò của ngài. Cha
Lemoyne đã cố gắng thu thập “các lời nói nhỏ” này qua việc
hỏi han các học trò của Don Bosco. Dây là một số các ví dụ:
- Con có khỏe không? Và linh hồn con thì sao?
- Con giúp cha một chuyện lớn nhé, Con có biết chuyện gì
chăng? Đó là chuyện giúp con nên tốt đó mà!
- Khi nào con sẽ trở nên niềm an ủi lớn cho cha?
- Con có muốn đập tan các cái sừng của con quỉ bằng một cuộc
xưng tội tốt chăng?
- Con có muốn chúng ta trở nên những người bạn tốt của nhau
trong các công chuyện của linh hồn con không?

47.10 Page 470

▲back to top
- Con có sợ Chúa sẽ tức giận với con không? Nếu sợ, con cứ
chạy tới Đức Mẹ.
- Thiên đàng đâu phải cho những kẻ lười biếng.
- Hãy cầu nguyện, cầu nguyện tốt đẹp và con chắc chắn sẽ cứu
rỗi được mình.
- Con có cảm thấy mình ở trong cơn bão táp chăng? Hãy kêu
cầu Đức Mẹ là Ngôi sao Biển.
- Con hãy nghĩ đến sự phán xét của Thiên Chúa.
- Đừng tin tưởng quá vào sức mạnh của mình.
- Con hãy nghĩ đến Chúa và con sẽ làm cho mình trở nên tốt
hơn và hạnh phúc hơn.
- Con hãy giúp cha nhé. Cha muốn làm cho con trở nên hạnh
phúc bây giờ và trong đời sau.
- Nếu con giúp cha, cha sẽ làm cho con trở nên một thánh Lu-y
mới.
- Ai bền đỗ đến cùng sẽ được ơn cứu rỗi.
- Các con hãy làm việc, hãy làm việc thật nhiều, và chúng ta sẽ
nghỉ ở trên thiên đàng.
- Can đảm lên! Một góc thiên đàng sẽ làm mọi chuyện khó
khăn được ổn định trở lại.
Một bà mẹ, và biết bao nhiêu chuyện phải làm
Don Bosco ước ao mẹ của Don Rua đi theo ngài tới Mirabello.
Đây là một sự để ý đầy tế nhị đến cha Rua. Bà chăm sóc đến
việc giặt dũ quần áo cho các trẻ, nhưng nhất là bà chính là yếu
tố tạo sự quân bình trong những thời điểm xuống tinh thần
không tránh khỏi được của người con còn trẻ của bà.

48 Pages 471-480

▲back to top

48.1 Page 471

▲back to top
Có một số vấn đề vào lúc khởi đầu liên quan đến các văn bằng,
nhưng Các Salêdiêng tại Mirabello đã sớm nhận được các kết
quả mỹ mãn, nhất là trong việc đánh thức các ơn gọi linh mục.
Một lịch sử biên niên đã kể lại với tất cả lời khen ngợi rằng
“Don Rua tại Mirabello hành xử y như là một Don Bosco tại
Torino”.
Vào đầu năm 1865,Tu Hội Salêdiêng đạt đến con số 80 hội
viên, trong đó có 11 linh mục. Các thầy giáo sĩ được sai đến
Mirabello với cha Rua – là Bonetti và Provera – đã trở thành
các linh mục. Tại Torino, bên cạnh Don Bosco và Don
Alasonatti cũng có các cha Cagliero, Saviô, Francesia, Ruffino,
Ghivarello, durando cũng đã được thụ phong linh mục.
Tuy nhiên cũng trong năm đó Tu Hội Salêdiêng phải trải qua
một thử thánh cam go. Trong vòng vài tháng, năm thành viên
Salêdiêng đầu tiên đã bị loại ra khỏi vòng chiến, các trẻ nội trú
đạt tới con số 500 em, đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ đã nuốt trửng
những số tiền khổng lồ và khiến cho Don Rua tới mức kiệt sức.
Bức họa Đức Maria Phù Hộ
Trong những tháng đầu tiên của năm 1865, Don Bosco bận tâm
nghĩ đến bức họa Đức Maria Phù Hộ thật vĩ đại phải được đặt
trên vòm đền thờ mới. Ngài trao cho họa sĩ Lorenzone thực
hiện và cố gắng diễn tả cho vị họa sĩ những điều ngài muốn
được thấy trong bức họa này:
- “Trên cao có Đức Thánh Trinh Nữ ngự giữa các thiên thần,
được bao quanh bởi các Thánh Tông đồ, các Ngôn sứ, các
Trinh nữ, các Thánh Hiển tu. Ở phía dưới sẽ là dân Thiên Chúa
thuộc các miền khác nhau trên trái đất đang đưa cao tay lên Mẹ
để kêu cầu Mẹ trợ giúp”.
Họa sĩ Lorensô để cho ngài nói xong, mới hỏi:
- Thế bức họa này cha sẽ đặt ở đâu?

48.2 Page 472

▲back to top
- Trong nhà thờ mới.
- Thế cha nghĩ như thế là ổn à? Chúng ta tìm ra khu phòng nào
để mà vẽ nó đây? Chúng ta cần cả một Quảng Trường Pháo
Đài (Castello)!
Don Bosco phải nhìn nhận là vị họa sĩ có lý. Nên cuối cùng
phải quyết định là quanh Đức Mẹ chỉ vẽ có các Tông đồ và các
Vị tác giả các Tin Mừng. Ở dưới bức họa, chỉ vẽ có Nguyện Xá
mà thôi.
Họa sĩ Lorenzone chọn nơi vẽ là căn phòng lớn của dinh thự
Madama (Dinh Bà) và ông bắt đầu công trình kéo dài trong
suốt ba năm.
Ông thành công tạo nên khuôn mặt từ mẫu của Đức Mẹ Maria
Phù Hộ với cả một sự dịu dàng lớn lao. Một linh mục của
Nguyện Xá kể lại:
“Một hôm tôi vào xưởng vẽ để nhìn bức họa. Họa sĩ Lorenzone
trèo trên một cái thang, vẽ những nét vẽ cuối cùng trên dung
mạo Đức Mẹ. Ông ta không quay lại khi tiếng chân tôi lao xao
bước vào phòng vẽ, mà tiếp tục làm việc. Ít lâu sau đó, ông ta
xuống khỏi thang và bắt đầu chiêm ngắm. Thình lình, ông ta
nhận ra tôi có mặt, ông liền cầm lấy cánh tay tôi và dẫn tôi đến
một chỗ nào đó có đủ ánh áng.
- Em hãy nhìn Mẹ đẹp biết bao! Ông ta nói với tôi. Đây không
phải là công trình của tôi. Không phải là tôi vẽ. Có một bàn tay
khác hướng dẫn tay tôi. Cháu hãy nói với Don Bosco là bức
họa sẽ thật là tuyệt vời!
Ông vô cùng phấn khởi. Thế rồi ông lại tiếp tục công việc vẽ
vời.

48.3 Page 473

▲back to top
Khi bức họa được đưa vào thánh đường và dựng ở nơi đã được
định trước, thì họa sĩ Lorenzone đã quì gối xuống và bắt đầu
khóc to lên như một đứa trẻ.
Chào biệt Don Alasonnati sang thế giới bên kia và chào đón
Don Rua trở lại Nguyện Xá
Vào buổi sáng ngày 8 tháng Mười năm 1865, thầy tư giáo
Cibrario từ Lanzo đến Valdocco, báo tin cho Don Bosco hay
Don Alasonatti dưỡng bệnh tại đó đã qua đời vào ban đêm, và
có đem đến cho Don Bosco một trong số các lá thư của ngài.
Ngài đã trải qua 11 năm cuối đời trong một công việc đầy
những hy sinh âm thầm. Cả đống những hồ sơ, biên nhận, các
sổ sách bề bộn khiến cho ngài đã phải thức trắng nhiều đêm.
Thiên đàng là nơi ngài đã xin Chúa trước khi đến Nguyện Xá,
và ngài đã quyết đảm bảo cho mình chỗ ấy một cách nghiêm
chỉnh. Vào tháng Chín, một mụn lớn ở cổ đã làm cho ngài phải
chịu đau đớn kinh khủng.
Don Bosco nhắc nhớ đến kỷ niệm về ngài cho các bạn trẻ với
tất cả sự cảm động của một người anh thương nhớ người em
của mình. Đối với Nguyện Xá, đây là một sự mất mát quá
nghiêm trọng.
Tại Mirabello, Don Rua đã chuẩn bị

48.4 Page 474

▲back to top
Chương trình của ngài cho một năm học mới. Nhưng cha
Rovera đã từ Torinmo đến đó báo tin:
- Don Bosco muốn cha trở lại Nguyện Xá. Cha Bonetti sẽ đảm
nhận công việc điều hành trường học. Xin cha sớm lên đường
bao có thể.
Cha Rovera kể lại rằng:
- Khi đó Don Rua đang viết lách tại bàn giấy. Nhưng ngài
không một chút do dự: không nêu một câu hỏi nào hay xin một
lời cắt nghĩa. Ngài đứng dậy liền, lấy sách nguyện của mình và
nói: “Nào chúng ta đi!” Ngài để mẹ ngài ở lại Mirabello, cho
tới khi tìm được một người khác lo việc giặt giũ cho các học
sinh.
- Tại Torino, Don Bosco nói cho ngài một cách thật đơn giản:
Những gì cha đã làm tại Mirabello, bây giờ hãy tiếp tục tại
Valdocco.
Don Bosco trao phó cho ngài mọi sự: các xưởng với 350 em
học sinh học nghề, công trình xây dựng Vương Cung Thánh
Đường, việc xuất bản Báo Đọc Công giáo (12,000 ấn bản)
cùng với nhiệm vụ đọc và trả lời phần lớn các thư từ người ta
viết cho Don Bosco.
Ban sáng Don Bosco phải gặp gỡ liên tục khách viếng thăm
Cha Lemoyne kể lại rằng: “Các cuộc gặp gỡ này bắt đầu có từ
năm 1846, và tăng dần, tăng dần. Trong năm 1858, Don Bosco
còn có thể ra khỏi nhà vào lúc 10g30 hay 11 giờ sáng. Nhưng
vào năm 1860, số người đến đông đến độ ngài phải ở lại trong
phòng suốt ban sáng, từ 9 giờ sáng tới 1 giờ sau trưa, và điều
này cứ tiếp tục như thế cho tới cơn bệnh cuồi cùng của ngài.
Khi Don Cafasso qua đời, Don Bosco được coi như người kế
tục tinh thần của Don Cafasso. Tất cả những gì có ở Torino,

48.5 Page 475

▲back to top
gồm những người tốt lành, nổi nang, trổi vượt trong mọi giai
tầng xã hội Torino đều chạy đến với Don Bosco”.
Don Cagliero còn thêm: “Tôi luôn luôn trông thấy rất nhiều
người tới đó để gặp ngài. Họ xin ngài cầu nguyện cho họ, đón
nhận chúc lành của ngài, xin ngài lời khuyên bảo về các việc
lành phải thực hiện, mang tới cho ngài những quà dâng vì lợi
ích của các con cái của ngài, hoặc chỉ vì một mục đích duy
nhất là được thấy ngài và nói chuyện với ngài. Đó là những
người thuộc mọi tầng lớp dân chúng, nhưng cũng có cả các
khách chính quyền và các vị bộ trưởng, các bề trên của các
chủng viện và các đức Giám mục”.
Một trạng sư năng được Don Bosco tiếp đón đã kể lại rằng:
“Ngài có nhiều việc khẩn trương phải làm. Bất chấp điều đó,
ngài không bao giờ nôn nóng để cắt ngắn các cuộc nói chuyện.
Ngài vừa đáng kính trọng, vừa đơn giản vừa thân ái. Tôi được
nghe rất nhiều lần rằng: Ồ, Don Bosco đón tiếp tôi tốt đẹp biết
mấy!”
Don Gioakim Berto, thư ký của ngài, thường nghe ngài khích
lệ các bệnh nhân rằng Thiên Chúa luôn nâng đỡ những người
tới nhà của Người. Don Bosco luôn nhắc lại rằng: “Chúa là một
người Cha tốt lành không bao giờ cho phép chúng ta phải chịu
đau khổ vượt quá sức lực của ta”. Nếu các bệnh nhận gợi lại
những việc lành họ đã làm, thì Don Bosco thốt lên: “Thiên
Chúa không quên một điều gì cả. Ngài trả cho họ dồi dào trên
thiên đàng. Thiên Chúa là Đấng trả công khôn sánh”.
Cha Dalmanzo kể lại rằng:
- Một hôm, có một người buôn bán giàu có, nhưng vô tín
ngưỡng, đến gặp Don Bosco. Ông ta chỉ đến đó vì tò mò. Thế
rồi tôi thấy ông ta ra khỏi phòng Don Bosco mà rất hồi hộp, đã
thốt lên hết thảy ba hay bốn lần rằng: “Ôi, thật là một con
người, một con người tuyệt vời!”. Lúc đó tôi mới hỏi ông ta

48.6 Page 476

▲back to top
xem ông ta đã nhận được từ Don Bosco những lời lẽ nào. Ông
ta trả lời: “Tôi đã học ở Don Bosco những chuyện tôi không
được nghe thấy từ miệng các linh mục khác. Trong khi ngài
đưa tôi ra cửa, ngài nói với tôi: “Chúng ta hãy làm sao để một
ngày kia, ông với tiền bạc của ông, và tôi với sự khó nghèo của
mình, chúng ta đều có thể gặp gỡ nhau trên thiên đàng”.
Ông De Amicis nhìn thấy tượng Đức Mẹ Phù Hộ vĩ đại trên
vòm của Đền Thờ
Vào năm 1866, các công việc xây dựng Đền Thánh tiến tới
việc hoàn thành vòm chính của nhà thờ, rồi ngừng lại. Don
Bosco chẳng còn tiền nữa. Ngài liền ra lệnh thay thế vòm chính
của thánh đường bằng một mái vòng cong đơn giản và hoàn
thành công trình theo cách đó. Nhà thầu Buzetti, cha quản lý
Saviô, hoàn toàn kinh ngạc trong nỗi đau đớn: Một thánh
đường được xây dựng như thế sẽ mất đi một phần lớn vẻ đẹp
của nó. Họ quyết định dời lại lại công việc dựng mái vòm này
khoảng một tháng, để tiến sang các công trình phụ khác, chờ
xem may ra Don Bosco đổi ý kiến. Chính lúc đó thượng nghị sĩ
Cotta tới:
- Vậy cha quyết định bỏ vòm chính hả?
- Nào có ai muốn bỏ đi một cái gì đâu; Chúng tôi thiếu các
phương tiện, và bây giờ thì phải lo việc đóng lại mái che trước
khi mùa đông tới.
- Vậy thì các cha hãy cứ thi hành bản vẽ của nhà thờ y như nó
đã là. Các phương tiện sẽ không thiếu đâu.
Rồi ông thượng nghị sĩ nói thêm với Don Bosco:
- Tôi có các dữ kiện để khẳng định rằng Chúa giờ đây đã ban
cho tôi gấp trăm lần những gì tôi đã dâng cúng vì tình yêu mến
Ngài.

48.7 Page 477

▲back to top
Mái vòm chính được nâng cao lên. Ngày 25 tháng Chín 1866,
Don Bosco với một học sinh nhỏ, leo lên trên giàn giáo. Họ
cùng nhau đặt viên đá đóng lại ổ chốt cuối cùng của toàn bộ
các tảng đá của mái vòm.
Vào năm 1867, một bức tượng vĩ đại của Đức Mẹ được đặt trên
đỉnh của vòm chính nhà thờ. Don Bosco viết rằng: “Tượng này
cao khoảng 4 mét và tượng Mẹ ở phía đầu được bao quanh bởi
12 ngôi sao bằng đồng mạ vàng. Khi được dọi sáng lên, Tượng
Mẹ trở nên rực rỡ cho những ai ngắm nhìn từ xa vào lúc tượng
Mẹ được soi sáng bởi những luồng ánh sáng của mặt
trời. Người ta phải thốt lên rằng chính tượng Mẹ đã nói lên
rằng: Mẹ ở lại đây để đón nhận các lời cầu nguyện của các con
cái mẹ, để đổ đầy ân sủng và các chúc lành cho những người
yêu mến Mẹ”.
- Vùng Valdocco và vùng Borgo Dora tiếp tục là một vùng
ngoại ô nghèo nàn, đôi khi có dáng dấp buồn thảm: nào là
những cánh đồng để hoang, các mái nhà và các lều trú của các
dân nghèo, rồi đến một mái nhà lớn chứa sự đau đớn, tức là
những đứa bé và những bệnh nhân khốn khổ, gọi là “nhà
Cottolengo”, nhà chứa các người cùng khổ, kế đến là các công
cuộc của bà bá tước Barolo và của Don Bosco.
- Khi lái các chiếc xe ngựa để đi về các miền quê, các gia đình
quí tộc và giàu có của thành phố thường đi xuống khu phố
nghèo khổ này.
- Edmondo De Amicis, một văn sĩ nổi tiếng và theo đúng mốt,
cùng xuống khu phố lạ lùng này. Trong cuốn sách tả lại Thành
Phố Torino, ông ta viết: “Tiếp nối với khu phố lạ lùng và buồn
thảm này, là một vùng quê bao quanh nó, bằng phẳng và im
lặng, nhất là vào mùa đông, vào giờ phút hoàng hôn, khi ở phía
trên các mái nhà và các cánh đồng phủ đầy tuyết – đang chìm
vào trong bóng mờ nhạt của buổi chiều – ta vẫn còn thấy nhấp

48.8 Page 478

▲back to top
nháy nhờ các tia sáng cuối cùng của mặt trời, bức tượng mạ
vàng của Đức Mẹ Maria Phù Hộ, đứng thẳng trên mái vòm
chính của nhà thờ đơn độc đó, với hai tay của tượng dang ra
ôm lấy dẫy núi Alpe.
Đây chính là lúc những lời tiên tri “điên” đã trở thành hiện thực
Ngày 9 tháng Sáu 1868, tượng Mẹ Phù Hộ được thánh hiến.
Vào 10 giờ 30, Đức Cha Ricácardi, Tổng giám mục Torino
bước lên bàn thờ chính để dâng thánh lễ Đầu tiên. Ngày sau đó,
Don Bosco cử hành thánh lễ, có Don Francesia và Don
Lemoyne giúp lễ. Tại nhà thờ, 1200 bạn trẻ tham dự.
Đây là lúc vô cùng cảm kích. “Những lời tiên tri điên rồ” của
Don Bosco đã trở thành thực tại trước tất cả mọi con mắt.
“Thánh đường kỳ diệu và cao trổi” vươn cao lên cách lạ lùng
trong “một cánh đồng gieo cây bắp và khoai tây”. Quanh vòm
chính nhà thờ, trên một tấm biển bằng vải trắng, người ta đọc
thấy dòng chữ: HIC DOMUS MEA, INDE GLORIA MEA
(ĐÂY LÀ NHÀ CỦA MẸ, TỪ ĐẤY GIÃI TỎA VINH
QUANG CỦA MẸ). Bàn thờ thì được bao quanh bởi một con
số mênh mông các trẻ em”.
Có người cao giọng nhắc đến Don Bosco vào ngày hôm ấy,
như để tưởng thưởng ngài vì những cay đắng ngài đã từng phải
uống cạn trong suốt những năm cuối cùng. Ngài đã đáp lời
cách khiêm cung: “Cha không phải là tác giả của những công
trình lớn lao này. Chính Chúa, chính Đức Maria Phù Hộ đã
đoái thương sử dụng đến một linh mục thấp hèn là Don Bosco
để thực hiện chúng. Mỗi một viên đá của ngôi nhà thờ này là
một ân huệ của Đức Mẹ Maria”.
Hai ngày hôm sau báo Unità Catolica (Công giáo thống
nhất) trong bài tường thuật về lễ cung hiến, đã viết một câu làm
Don Bosco vô cùng hài lòng: “Ngôi thánh đường này được

48.9 Page 479

▲back to top
chính những người nghèo dựng nên, và phục vụ những người
nghèo”.
Ngày lễ lớn lao đó chắc chắn đã không làm cho Don Bosco
“mất khôn”. Nếu ngài có bị cám dỗ rơi vào cảnh đó, thì những
khó khăn bức bách lại bắt đầu giữ cho ngài khỏi sa vào cảnh
đó. Ngài viết trong vòng những ngày đó rằng: “Cái giá của gian
khổ khiến chúng ta kinh ngạc. Giữa Torino, Mirabello và
Lanzo (một trường trung học thứ ba mà ngài đã mở trong thời
kỳ này) mỗi tháng khiến chúng ta phải trả 12 ngàn lires duy
nhất cho bánh ăn”.
Cha Rua suy sụp
Người đã phải hy sinh bản thân nhiều nhất trong thời gian đó
(và luôn luôn trong sự thinh lặng) chính là Don Rua. Trong
vòng hơn một tháng, ngài chỉ ngủ không hơn ba hay bốn giờ
hằng đêm. Công việc quá mức đã kết thúc bằng việc nắm phần
thắng trên cơ thể ngài.
Ngày 29-7-1868, ngài ngã qụy. Ngài ngã xuống theo đúng
nghĩa chữ trên vòng tay của một người bạn khi đi vào Nguyện
Xá. Được đưa vào phòng, một bác sĩ đã xét nghiệm ngài và báo
động: Đây là chứng viêm màng bụng cao độ.
Don Bosco khi ấy vắng mặt; người ta cho tìm ngài ngay lập
tức. Và buổi chiều Don Bosco trở về, nhưng khi vừa thấy ngài
các trẻ em liền ào tới xưng tội với ngài. Don Bosco vẫn giữ vẻ
rạng rỡ ngoại thường.
Don Saviô nói với ngài:
- Xin cha đến gặp Don Rua ngay lập tức; cha ấy có thể ra đi bất
cứ lúc nào.

48.10 Page 480

▲back to top
- Không thể, không thể được. Don Rua sẽ không bao giờ ra đi
mà không xin phép cha. Cha còn phải giải tội cho các trẻ em
đã.
Ngài giải tội cho tới nửa đêm. Rồi thay vì tới bệnh xá, ngài đi
dùng bữa tối. Quanh ngài mọi người giữ sự thinh lặng nặng nề.
Người ta không thể hiểu được tại sao ngài thông thường vẫn tỏ
ra rất lo lắng cho các bệnh nhân, mà lúc này lại tỏ ra rất không
tế nhị với người cộng tác viên chính của mình đang đang tha
thiết xin gặp ngài.
Sau khi đã ăn xong, Don Bosco lên phòng của mình để cất túi
đồ của mình, và rồi sau đó ngài mới quyết định tới gặp Don
Rua. Người bệnh đang đổ mồ hôi lạnh trên trán. Cha đang cảm
thấy thật sự khó chịu. Thấy Don Bosco, cha liền thì thầm:
- Nếu đây là giờ của con, xin cha nói cho con. Con không sợ
chết đâu.
- Chết sao? Don Bosco thốt lên. Rua thân mến, cha không
muốn thế; con có hiểu chăng? Cha sẽ cảm thấy lạnh nếu không
có con! Chúng ta còn phải làm việc và làm việc, không có vấn
đề chết gì cả!
Ngài nhìn thấy trên bàn có bình dầu để cử hành bí tích xức dầu
bệnh nhân, liền hỏi:
- Ai là người tốt lành muốn cử hành bí tích xức dầu kẻ liệt cho
Don Rua?
- Chính con đó, Don Saviô trả lời.
- Con thật là những người ít đức tin. Hãy can đảm lên Don Rua
ạ! Nghe này: ngay cả khi cha có vất con qua cửa sổ, con cũng
sẽ không chết. Bây giờ, các con hãy đem đặt dầu bệnh nhân
vào chỗ của nó và để nó ở yên chỗ ấy.

49 Pages 481-490

▲back to top

49.1 Page 481

▲back to top
Ba tuần sau, Don Rua khỏi bệnh. Sau một tháng rưỡi dưỡng
bệnh, ngài trở lại sân lớn chơi như một trong số các trẻ em.
Ngài chưa hoàn toàn trong tình trạng chạy nhẩy được, nhưng
ngài chơi cùng với các em nhỏ nhất. Cùi xuống sát đất, ngài
nhắm những trái banh nhỏ bằng đất nung với ngón tay cái còn
thiếu bình tĩnh.
Tháng 8-1876, sau bữa ăn tối, một Salêdiêng đột xuất hỏi Don
Bosco:
- Phải chăng những người Salêdiêng chết vì làm việc quá
nhiều?
- Điều này đúng, Don Bosco trả lời, Tu Hội chúng ta không vì
thế mà phải chịu bất cứ một tai hại nào, trái lại là đàng khác.
Nhưng không phải hoàn toàn đúng thế. Chỉ có một người xưng
đáng danh hiệu là nạn nhân của công việc, đó chính là Don
Rua. Nhưng tạ ơn Thiên Chúa! Chúa vẫn gìn giữ ngài vững
mạnh và khỏe khoắn.

49.2 Page 482

▲back to top
Chương 40
MỘT GIAI ĐOẠN MỚI
CHO CÁC NGƯỜI SALÊDIÊNG
Kể từ khi Don Bosco lo việc xây dựng đền thờ Đức Mẹ Phù
Hộ, người ta có cảm tưởng rằng ngài như bị nén lại, hầu như bị
tù hãm bởi công cuộc của ngài. Lịch sử diễn ra bên cạnh ngài
không có vẻ là lịch sử của riêng ngài nữa.
Có vẻ như “Lịch sử Salêdiêng” bắt đầu như thể đang tiến hành
song song, nhưng trong tính cách độc lập với một lịch sử
“khác”, (tức là lịch sử của nước Ý), với những giai đoạn những
thành công, những cuộc chiến cá biệt của nó: việc thiết lập
dòng Con Đức Mẹ Phù Hộ, cuộc xuất phát truyền giáo, việc
khởi đầu Hội Cộng Tác Viên, cuộc chiến xứng đáng trong danh
dự nhưng cam go, trắc trở với hàng giáo phẩm Torino cho sự
độc lập của Tu Hội, những bước hành động vắt cạn sức lực tại
Roma để đạt được sự phê chuẩn Hiến Luật Salêdiêng.
Lịch sử diễn ra ở bên ngoài cổng lớn của Nguyện Xá
Ấn tượng kể trên là không đúng. Lịch sử của nước Ý với
những bước nặng nhọc tiến tới việc thống nhất, những cú đụng
độ đầy giận dữ của các quyền bính chính trị chống lại Giáo
Hội, lịch sử “không chính thức” của các cuộc chiến thợ thuyền,
cuộc di cư khổng lồ, sức căn thẳng của khối đống quần chúng
nhằm đạt tới một sự chuyển biến tốt đẹp hơn của ngành giáo
dục và của văn hóa hòa trộn vào hoạt động của Don Bosco như
là một hệ thống các đường mạch máu, định hướng cho ngài,
gợi ý cho ngài các cách thức mới để cảm nhận các sự việc.
Vì lý do này, mà xem ra thật nguy hiểm (và hời hợt) nếu mình
bỏ hẳn qua một bên các biến cố lớn đang diễn ra ở ngoài cánh
cổng của Nguyện Xá.

49.3 Page 483

▲back to top
Sau cái chết của ông Cavour (6-6-1861), một nhóm các nhân
vật được gọi là “cánh hữu lịch sử” kế tục ông trên đỉnh cao
quyền lực trong vòng 15 năm. Họ đã trưởng thành bên cạnh
ông Cavour, nhưng dù cho họ đã hấp thụ được nghiệp chính trị
của Cavour, họ lại không có được sự chói sáng của thiên tài
Cavour. Đó là những ông Sella, Lanza và Rattazzi của vùng
Piemonte (Torino); Jacini và Visoconti Venosta của vùng
Lombardia (Milano); Minghetti và Farini của vùng Emilires
(Bologna); Ricasoli và Peruzzi của vùng Toscana (Firenza);
Spaventa và Massari của vùng nam Ý. Họ có khuynh hướng và
những quan tâm của giới trưởng giả giàu có và của giới quí tộc
chủ sở hữu đất đai nông nghiệp.
Đối diện với Giáo Hội, họ kiên định theo đường lối của Cavour
tách Giáo Hội ra khỏi Nhà Nước, và không e ngại giáng đòn
mạnh trên giới giáo sĩ và các Đức Giám Mục bị nghi ngờ là
đứng ra bảo vệ các quyền giáo hoàng.
Đối mặt với “cánh hữu lịch sử này”, cánh tả năm Hạ viện. Họ
khác hẳn với cái chúng ta gọi ngày hôm nay là cánh tả. Những
thành phần của cánh tả xưa này cũng xuất thân từ giới quí tộc
và giàu có (trên con số 22 triệu người Ý, chỉ có 400,000 người
có quyền bầu cử, và chỉ có 200,000 người thi hành quyền bầu
cử này mà thôi).
Crispi, Depretis, Bertani, và những người lãnh đạo chính của
cánh tả coi những việc cải tạo dân chủ ôn hòa là

49.4 Page 484

▲back to top
Chương trình hành động của họ (tức là việc mở rộng quyền bầu
cử) và một hành động chống giáo sĩ quyết liệt hơn.
Nước Ý, trước khi chiếm đóng vùng Latium (tức là những bang
thuộc Giáo Hoàng) và ba vùng Vennezie có 22 triệu dân. 80%
trong số họ không biết đọc biết viết, và con số các học sinh đại
học chỉ là 6500 người. 70% người Ý sống tại miền quê và canh
tác đất đai. Chỉ có 18% dân số làm việc trong ngành kỹ nghệ.
Các tập đoàn kỹ nghệ lớn nhất là Ansaldo, tại vùng Ligurie
(vùng ven biển của xứ Genes) sử dụng đến 1000 công nhân.
Các đường xe lửa đạt tới 2,000 cây số. Thương thuyền Ý đứng
thứ ba trên thế giới, sau nước Anh và Nước Pháp.
Cuộc chiến chống lại bọn cướp và cuộc di dân vĩ đại
Trong năm 1861, tại miền nam nước ý khởi sự cuộc chiến
chống lại các băng đảng cướp. Có lẽ đây là trang sử bi thảm
nhất và đau đớn nhất của lịch sử Nước Ý.
Các “tên cướp” là những băng nhóm có võ trang là một số
người trung thành với dòng tộc vua chúa tại Napoli và Hai
vùng Cicilie gọi là Borboni; nhưng phần đa các băng nhóm nói
chung là những băng nhóm lang thang, sống ngầm trong xã
hội, cướp bóc và nhận tiền chuộc các con tin. Francesco
Traniello viết rằng “Sự nở rộ của các băng đảng đưa ra ánh
sáng những giới hạn của nền chính trị mà cánh hữu tự do theo
đuổi. Cuộc thống nhất quốc gia đã bị coi như là một việc lạm
dụng quyền lực, một cuộc đô hộ thực sự các xứ sở ở miền Nam
nước Ý”.
Các nhà chính trị Cánh Hữu biểu lộ một sự khinh bỉ đối với
miền nam nước Ý: Ông bộ trưởng Farini viết: “Đó không phải
Nước Ý, mà là châu Phi. Những người Beduin so với những
người thô lỗ (Nam Ý) này, phải được kể như tinh hoa của các
nhân đức chân chính”. Cho nên cánh hữu chống lại các băng
đảng mà không động tới cái nguyên nhân đích thực của nạn

49.5 Page 485

▲back to top
bằng đảng: đó là việc vô chữ nghĩa chạm tới 90% dân chúng,
cảnh khốn cùng xã hội, cuộc nổi dậy trong tuyệt vọng của cư
dân thành phố chống lại một Nhà nước yêu sách thuế má nặng
nề và đưa thanh niên đi xa qua các cuộc động viên bó buộc.
Cuộc chiến đấu chống lại các băng đảng cướp quả là một cuộc
chiến tranh thực sự, được thực hiện với một đội quân 120,000
người, với các trận chiến, tình hình bao vây, các tòa án quân
sự, các cuộc hành hình bằng vũ khí.
Hơn 5,000 tên cướp bị giết trong 5 năm từ 1860 đến 1865.
Cuộc chiến tranh đi đến thắng trận, nhưng những vấn đề miền
Nam Ý vẫn còn y nguyên. Những cư dân miền nam bị đè bẹp
và hạ nhục, đã bám víu một phong trào trốn tránh dưới cái tên
“cuộc di dân”. “Trong những năm liền sau 1861, tác giả Micae
Marotta viết, cuộc di dân của người Ý mang lấy đặc tính của cả
một khối đông, với mức trung bình hằng năm là 500,000
người”.
Trong khi sai các nhà thừa sai đầu tiên của mình đi Achentina,
Don Bosco nói với họ: “Các con hãy ra đi tìm những người anh
em của chúng ta tại đó mà sự cùng khốn và mạo hiểm đã dẫn
họ tới những miền đất xa lạ”.
Chiến tranh du kích tại Torino
Năm 1862 cuộc chiến giữa Nước Ý và Tòa Thánh nhằm chiến
được Roma tái bắt đầu. Garibaldi với sự thỏa thuận của thủ
tướng Rattazzi, rời Caprera, xuống tàu Palerme và chuẩn bị
một cuộc xuất quân để chinh phục vùng Latium (là tỉnh Tòa
Thánh) và thành phố Roma. Một mình đối diện với những phản
ứng mãnh liệt của Napoleon III và các người Công giáo Ý,
chính phủ quyết định cho quân đội ngoại quốc đem lực lượng
võ trang thường trực ra chặn đường tiến quân của Garibaldi,
người đã xuống tàu tại Calabra.

49.6 Page 486

▲back to top
Ngày 29 tháng 8 xảy ra cuộc đụng độ tại chân núi Aspromonte
(một ngọn núi cao 1,956 mét trên đỉnh dãy núi Calabre).
Những lính kỵ binh của quân đội Ý do đại tá Pallavicini chỉ
huy tấn công và bắt giam Garibaldi.
Ngày 15-9-1864, Nước Ý ký hiệp ước với Napoleon III. Hoàng
đế chấp nhận rút quân Pháp đang đóng tại Roma để bảo vệ Đức
Thánh Cha và chính phủ Ý hứa tôn trọng chủ quyền của Đức
Giáo Hoàng trên thành Roma. Để chứng tỏ thiện chí, chính phủ
thực hiện việc chuyển thủ đô từ Torino lên Firenza.
Vừa khi quyết định này được thông báo đến Torino, thì thành
phố này bừng bừng lửa giận dữ. Ngày 20 tháng 9, sáu ngàn
người tập họp tại Quảng Trường Castello và la hét: Đả đảo nhà
vua, hoan hô Nước Cộng Hòa!”
Ngày hôm sau, một đám đông đằng đằng sát khí tập hợp tai
San Carlo để la hét phản đối tờ bào Gazetta del Popolo (Báo
tin của quần chúng). Thình lình, trên những đường phố bên
cạnh, đám dân đụng phải lính an ninh công cộng đi tuần tiễu
với lưỡi lê mờ sẵn. Bị thương và chết. Đám đông buộc phải
phân tán, nhưng sau đó lại tập hợp lại được một vài giờ sau đó,
và bắt đầu tấn công tổng hành dinh của cảnh sát. Trong thời
gian đó tại Quảng Trường Castello, đang diễn ra một cuộc biểu
tình hòa bình. Nhưng thần kinh lúc ấy hết sức căn thẳng. Một
đội lính cảnh sát nhận được lệnh bắn vào đám đông: mười
người chết nằm trên những vỉa hè. Khi ấy cơn giận của quần
chúng nổi dậy: Các văn phòng tòa báo Gazzetta bị phá hủy
dưới lằn mưa đá gạch, các cửa tiệm buôn bàn ghế bị tấn công.
Dân chúng cầm lấy khi giới. Ông bộ trưởng nội vụ sợ xảy ra
một cuộc nội chiến, nên ra lệnh cho 28,000 binh lính và một
trăm khẩu ca nông tràn vào. Các đại bác được đặt trên Đồi Các
thầy Capuxin, miệng các khẩu đại bác quay về phía trung tâm
thành phố.

49.7 Page 487

▲back to top
Buổi chiều ngày 21 tháng chín, Don Bosco tập hợp tất cả các
thanh thiếu niên lại dưới các lớp hành lang của nhà Valdocco
để cầu nguyện cho Torino và cho dân chúng của nó.
Ngày 22, cuộc loạn đả lại bắt đầu từ 9g30 sáng. Một hàng
những người lính cảnh sát mang khí giới canh gác tổng hành
dinh của cảnh sát lại bị một trận ném đá tấn công. Hai người
cảnh sát bị thương trầm trọng. Bị bức tới đường cùng, các ông
bạn cảnh sát liền nã súng ngang tầm vai con người: Kết quả là
26 người chết.
Đức vua nổi giận, yêu cầu chính phủ từ chức. Vị thủ tướng mới
được bổ nhiệm là tướng La Marmora. Những cuộc náo loạn
ngừng lại, nhưng sau đó thành phố thủ đô đã sớm được đưa về
Firenze.
Torino cảm thấy mình bị phản bội.
Cơn khủng hoảng tôn giáo: Kinh Thánh và lớp học về thị
trường chứng khoán
Và chính Đức Thánh Cha cũng cảm thấy mình bị phản bội.
Đức Piô IX thấy mình không còn được sự che chở về mặt quân
sự của Napoleon III nữa, đã trở nên cứng cỏi trong các lập
trường chống chủ nghĩa tự do của ngài. Xuyên qua văn
bản Syllabus (Bản liệt kê các tà thuyết), ngài lên án tổng thể
các “giáo thuyết hiện đại”. Trong các dòng cuối cùng của tập
tài liệu, Đức Thánh Cha chối việc Hội Thánh “có thể và phải
dung hòa mình và liên minh với sự tiến bộ, với chủ nghĩa tự do
và với nền văn minh hiện đại”.
Đức Thánh Cha cùng với rất nhiều môi trường Công giáo, đã
cảm thấy e ngại trước cơn khủng hoàng tôn giáo như có vẻ
đang thay đổi bộ mặt thế giới.
Tác giả Traniello đã trích dẫn đoạn văn sau đây: “Các giới lãnh
đạo mới và các chủ xí nghiệp thích chọn các lớp học về thị

49.8 Page 488

▲back to top
trường chứng khoán hơn là lớp học Kinh Thánh. Các khối đông
quần chúng vô sản mới bị mất gốc và bị bóc lột, đã cải hồi một
cách dễ dàng để gia nhập cuộc đấu tranh giai cấp hơn là sống
theo các mối phúc của Tin Mừng. Việc rời bỏ các miền quê để
lên các thành phố, những sự thay đổi chỗ ở do đòi hỏi của nghề
nghiệp và nơi làm việc, các điều kiện sống mới và nói chung sự
tan vỡ của cơ chế xã hội cũ tạo nên những thay đổi sâu xa trong
lối suy nghĩ, làm quay ngược những đoàn lũ dân chúng quan
trọng khỏi các vị cha xứ và mục tử của họ. Toàn bộ sự thể này
mang dáng dấp một cuộc từ chối các nguyên tắc Công giáo
truyền thống, một sự từ bỏ hay giảm thiểu việc thực hành Kitô
giáo, và trên hết, một sự chống đối lại giáo quyền vẫn còn gắn
chặt với một thế giới kể từ nay đã lỗi thời rồi”.
Hoàn cảnh khủng hoảng này, vốn đã đạt tới tột đỉnh của nó
trong cuộc chinh phục Roma của các nhóm quân đội Ý vào
năm 1870, đẩy những người Công giáo tái bố trí lại lực lượng
của mình, tự tổ chức mình như là “một quốc gia trong một
quốc gia”. Để bảo toàn các giá trị riêng của mình và tạo nên
những thế hệ mới trong bầu khí Kitô giáo, (trong sự song hành
với các tổ chức của Nhà Nước chống giáo sĩ) các người Công
giáo tạo nên các Hội “Công giáo” cứu trợ lẫn nhau, các nhà
băng “Công giáo”, các chi nhánh bảo hiểm “Công giáo”, các
trường trung học cấp II và III “Công giáo” để giáo dục con em
của họ.
Don Bosco đã sống cách thâm sâu cái thời điểm lịch sử nước Ý
này. Ngài động viên phần lớn các nỗ lực của ngài để mở “các
trường Công giáo” tới mức đưa Tu Hội của ngài vào trong
“giai đoạn mới”: là giai đoạn của các trường học. Chúng ta sẽ
nói rộng rãi hơn về đề tài này trong phần thứ hai của

49.9 Page 489

▲back to top
Chương này.
Lịch sử không chính thức của giới thợ thuyền
Bên cạnh dòng lịch sử chính thức của nước Ý, diễn ra các biến
cố khác, thường bị quên lãng bởi các sách kể lại lịch sử vĩ đại
của nước Ý.
Những năm này chứng kiến “nỗi khổ to lớn” của dân nghèo.
Các thợ thuyền tại Piemonte phải làm việc trong các xưởng thợ
12 giờ mỗi ngày với những đồng tiền lương buộc người ta phải
ăn đói, không có sự tương trợ lẫn nhau, không có bảo hiểm xã
hội. Những nông dân tạo thành một đa số rất lớn của dân chúng
như chúng ta đã nói tới. Ngay vào tháng Ba, họ đã dẫn con cái
khoảng 12 tuổi của họ tới chợ búa, để các chủ đất thuê chúng
đi làm việc. Chuyện này đã xảy ra ngay vào thời Don Bosco
còn là một em bé. Và chuyện này còn kéo dài rất lâu (và nó còn
kéo dài cho tới tận năm 1981 trong một số vùng của nước Ý
như Puglires, tức là vùng bàn chân của bán đảo Ý). Các người
con gái thì chăm sóc “các bện tóc tóc dài” của chúng, rồi đem
cắt đi và bán nó khi các em tới 18 tuổi: đó là phương thức tốt
nhất để chuẩn bị món tiền hồi môn khi cưới hỏi.
Những đám di dân cũng rời khỏi Piemonte đang thiếu các luật
lệ để điều hành công việc lao động và đảm bảo an sinh xã hội;
những người di dân từng mùa một sang Pháp và Thụy Sĩ, còn
những di dân vĩnh viễn thì qua Mỹ Châu.
Vào năm 1864 tại Luân Đôn khai sinh “Quốc Tế Những Người
Lao Động Thứ Nhất”. Vào lúc khởi đầu nó gồm ba trào lưu
chính: phe Nghiệp Đoàn Anh nhắm đến các việc cải cách tuần
tự để tạo điều kiện tốt hơn cho các người thợ, cho họ được
tham dự trực tiếp hơn vào hành động chính trị; các môn sinh
của nhà Xã Hội Pháp Proudhon đứng ra thúc đẩy cuộc đấu
tranh giai cập và chủ nghĩa cộng sản Mac-xít và tìm cách thiết
lập “các hợp tác xã thợ thuyền” để dân dần hủy bỏ chủ nghĩa tư

49.10 Page 490

▲back to top
bản; các người theo Mazzini vốn đã xây dựng tại nước Ý 450
“Hiệp Hội Công Nhân” với 120,000 người ghi danh.
Tuy nhiên dần dà từng chút một, Quốc Tế này bị thống trị bởi
Các-Mác mà qua các cuộc thanh lọc kế tiếp nhau, đã loại bỏ
những ai đã không suy nghĩ như ông ta và áp đặt chính các ý
tưởng cộng sản của ông ta.
Trong cùng năm 1864 này, đức Cha Ketteler, Giám mục
Mayenne, xuất bản cuốn sách Vấn đề Thợ thuyền và Kitô
giáo. Đây là một

50 Pages 491-500

▲back to top

50.1 Page 491

▲back to top
Chương trình của nền Công giáo xã hội Đức. Ngài yêu cầu sự
can thiệp của Nhà Nước để lập nên bộ luật lao động và việc
tiên liệu xã hội. Các luật này sẽ đảm bảo một mức lương tối
thiểu, giới hạn các giờ làm việc, đảm bảo việc nghỉ ngơi hằng
tuần, cấm đưa phụ nữ và trẻ con vào làm việc, cung ứng cho sự
an sinh xã hội, tái lập lại sự quan trọng của các “xã hội cấp
trung” giữa cá nhân và Nhà Nước: Đó là gia đình, thị trấn, các
cơ chế địa phương, các hội tự do.
Dưới áp lực của các phong trào này và của các cuộc tranh đấu
của giới thợ thuyền, những năm này đã chứng kiến được các
cuộc chinh phục chậm chạp và gian khổ. Năm 1864, chính phủ
của Napoleon III nhìn nhận các công nhân có quyền đình công.
Năm 1866, chính phủ Bỉ nhìn nhận các nghiệp đoàn lao động
đầu tiên (dưới áp lực mạnh của các hội đoàn Công giáo).
Những việc thừa nhận trong các lãnh vực này được thể hiện
tiếp theo tại Áo (1870), tại Anh (1878), và tại Pháp (1884).
Ngày 1 tháng năm 1866 bắt đầu một chiến dịch quốc tế nhằm
giảm thiểu ngày lao động thành 8 tiếng đồng hồ thôi. Người ta
tính ra có đến 5,000 cuộc đình công và nhiều cuộc biểu tình.
Khắp nơi cảnh sát và quân đội đàn áp dã man. Tại Chicago, có
rất nhiều cái chết và các người lãnh đạo các cuộc biểu tình này
đã bị treo cổ.
Trong mười năm sau cùng của thế kỷ XIX, hầu như tất cả mọi
Quốc gia Châu Âu đều dùng các luật mới để giảm thiểu thời
gian lao động của một ngày còn 10 giờ thôi, đồng thời cấm sử
dụng lao động trọn thời gian đối với các trẻ trai dưới 13 tuổi,
phê chuẩn các luật pháp về việc ngăn ngừa tai nạn, về vệ sinh,
về ngày nghỉ Chúa Nhật. Giữa năm 1883 và 1889, do việc thôi
thúc của những người Công giáo Phe Trung, và các người xã
hội của Lasalle, chính phủ Đức ban hành luật bảo hiểm bó buộc
chống lại các tai nạn, bệnh tật và tuổi già. Việc này sớm được
bắt chước bởi các quốc gia Áo, Thụy Sĩ, Đan Mạch, Bỉ và Ý.

50.2 Page 492

▲back to top
“Thuế đánh trên cảnh đói của dân chúng”
Vào nằm 1868, dân quê Ý đã nghèo cùng cực, lại còn phải
gánh chịu một thứ thuế độc ác: thuế “đánh trên bột mì”. Việc
say nghiền bột mì và lúa mạch đều bị đánh thuế nặng nề và
điều này tác động mạnh đến những người chỉ có lương thực để
sống là bánh mì và “bánh đúc lúa mạch Ý” (la polenta), tức là
những kẻ nghèo nhất của xứ sở. Thế là dậy lên cả một làn sóng
những cuộc nổi dậy nghiêm trọng nhất trong toàn thể đất nước.
Traniello viết rằng : Chống lại những kẻ giết người này đôi khi
vang lên khẩu hiệu: “Hoan hô Đức Thánh Cha và quân Áo!”.
Có hằng trăm người chết và bị thương. Nhưng chính quyền vẫn
nhất quyết giữ y nguyên “thứ thuế đánh vào những người đói
khổ” trên.
Ngay tại Nguyện Xá và trong các nhà khác của Don Bosco nơi
các học sinh “nuốt trửng cả núi bánh mì nhỏ”, thứ thuế trên bột
mì này đã làm phí tổn gia tăng: “Bánh mì mắc mỏ khiến chúng
tôi khốn khổ: Đó là lời Don Bosco viết vào những tháng đó.
“Những Trường Trung Học Salêdiêng” phát sinh
Bắt đầu từ năm 1863, với việc mở trường tiểu chủng viện
Mirabello, Don Bosco đã được nhiều nơi tại nước Ý yêu cầu
thiết lập không phải Nguyện Xá, mà là các trường trung học.
Don Bosco chấp nhận (nhưng luôn luôn mở một Nguyện Xá tại
chính nơi trường học đó).
Thế là trong vòng ít năm sau, Tu Hội Salêdiêng dấn thân làm
việc trong các trường học để dạy dỗ các em tiểu học, trung học
và nghề nghiệp.
Chúng ta đã nói đến lý do tại sao trong các trang trước. Sau đây
là câu trả lời trọn vẹn của cha Pietro Stella: “Sự rộ nở của các
trường Công giáo và việc nhân rộng chúng xảy ra vào nửa thứ
hai của thế kỷ XIX, khi nền chính trị và pháp luật Ý càng ngày

50.3 Page 493

▲back to top
dựa trên những nền tảng của chủ nghĩa tự do... Sự bất đồng sâu
xa giữa nước Ý theo Pháp quyền, được thiết định bởi lớp lãnh
đạo và nước Ý đích thực, được tạo thành bởi các tầng lớp đông
đảo của phe đối lập Công giáo và các lực lượng khác đang trên
đà hình thành (đảng xã hội...), đưa đến kết quả là tại các trường
công cộng Ý, có một đường hướng thế tục và rõ ràng chống
giáo sĩ (với các cuộc đụng độ gây cấn về việc dạy tôn giáo tại
các lớp học). Do phản ứng, sự việc trên khơi dậy nơi các người
Công giáo một khuynh hướng tự tổ chức bản thân mình trong
mọi lãnh vực: hội đoàn tôn giáo, các nhiệm vụ cứu trợ lẫn
nhau, các ngân hàng bình dân, các hội bảo hiểm, các trường
trung học giáo dục các trẻ em, nhắm nhiều hơn tới các tầng lớp
trưởng giả loại nhỏ và dân chúng thợ thuyền và nông dân, hầu
như là tạo nên một xã hội ở trong xã hội Nhà Nước.
Điều này cắt nghĩa tại sao vào năm 1863, người ta dự vào một
sự nhân rộng các trường trung học, các trung tâm, các trường
dạy nghề, các trường canh nông, các chủng viện mở ra hay
điều hành bởi các người Salêdiêng với ưu tiên dành cho các
học sinh nội trú... Trường học Salêdiêng góp phần tăng sức
mạnh cho các lực lượng Công giáo tại ý và trong thế giới qua
công việc đóng góp một con số rất lớn các thế hệ người trẻ”.
Các trường dạy học sinh học nghề gọi là các trung tâm học
nghề. Chúng chỉ tiếp nhận duy có các em mồ côi và bị bỏ rơi”.
Ngược lại các trường trung học thì dành cho các học sinh, tuy
nhiên cũng rõ nét là phục vụ cho các trẻ nghèo. Đó luôn luôn là
ý muốn minh nhiên của Don Bosco.
Buổi chiều 7-3-1859, sau khi từ Roma trở về, ngài chuyển giao
cho các Salêdiêng những lời căn dặn sau đây của ĐứcThánh
Cha Piô IX: “Chúng con hãy chăm lo đến các em nghèo của
quần chúng. Hãy giáo dục các trẻ nghèo và đừng bao giờ có
các trường phục vụ các em nhà giàu và quí tộc. Hãy ấn định
tiền học phí vừa phải. Đừng nâng giá học phí. Đừng nhận điều

50.4 Page 494

▲back to top
hành các nhà trường sang giàu. Nếu anh em giáo dục những trẻ
nghèo, và sống nghèo, người ta sẽ để cho anh em sống yên lành
và anh em sẽ làm được nhiều việc thiện” (M. B. Cuốn IX, tr.
566).
Thực tế tương ứng với các chỉ dẫn này, không chỉ trong các
năm đầu tiên. Năm 1875, Don Bosco có thể viết: “Tại Alassio,
Varazze, Sampierdarena, nền tài chánh hầu như là zêrô”. Năm
1898, mười năm sau cái chết của Don Bosco, tại một trường ở
Bologna do vị thư ký riêng của Don Bosco điều hành, có 181
em được sống trong đó. Con số các em mồ côi, được nuôi dạy
hoàn toàn miễn phí là 69 em. Tiền ăn học nội trú toàn bộ hằng
tháng là 25 lires chỉ có 33 em trả được thôi. Tất cả số còn lại là
99 em bình quân trả được nửa số tiền ăn học. Thu nhập hằng
năm là 23,000 lires, còn tốn phí hằng năm là 46,000 lires. Một
sự thiếu hụt thu nhập 100%, đó là một con số “lành”.
Năm trường trung học đầu tiên
Năm 1864 khai sinh trường Lanzo. Don Bosco gửi cha Ruffino
(24 tuổi) tới trong tư cách giám đốc cùng với 7 tư giáo. Cảnh
nghèo khó và xập xệ làm bạn hữu với họ suốt các tháng đầu
tiên. Thầy tư giáo Sala sau này là Tổng Quản lý Tu Hội, viết lại
rằng: “Căn nhà trống rỗng, một vài bức tường đã hư hỏng một
nửa… Chẳng có ghế, bàn chuẩn bị các phần ăn và chúng tôi ăn
trên một cánh cửa hư được đặt trên hai cái bộ ngựa. Các cửa sổ
không có khuôn kiếng được đóng lại bằng các tấm khăn lau tay
và các tấm chăn. Chúng tôi thì ngủ trên rơm rạ”.
Năm thứ nhất trường có 37 học sinh nội trú, với một đám đông
ngoại trú vô kỷ luật. Vào tháng ba, thầy tư giáo Provera do một
cơn bệnh và sự kiết lực đã trở thành hoàn toàn không làm việc
được. Sang tháng 7, cha giám đốc trẻ chết vì bệnh lao. Trường
được trao phó cho bảy thầy tư giáo còn sống sót. “Chúng tôi
làm việc rao sao ư? - cha Sala nhớ lại – Chúng tôi không

50.5 Page 495

▲back to top
muốn người ta nói trường tiến hành xấu bởi vì trường chỉ có
duy chúng tôi là những thầy tư giáo trẻ điều hành thôi”.
Năm tiếp theo sau Don Lemoyne tới điều hành trường, và mọi
chuyện bắt đầu tiến triển tốt đẹp hơn.
Năm 1870 mở trường Alassio. Giám đốc là cha Cerruti, 26
tuổi.
Năm 1871 mở trung tâm dạy nghề Marassi, được chuyển về
Samperdarena vào năm sau. Don Albera làm giám đốc ở tuổi
26. Trường bắt đầu với ba xưởng thợ cho các “trẻ em mồ côi và
bị bỏ rơi”. Ngoài các lớp dạy nghề, Don Bosco cũng muốn có
một phân ban cho các trẻ em “nghĩ tới theo đuổi ơn gọi linh
mục”.
Năm 1871, 20 Salêdiêng vào Trường Dân lập Varazze. Don
Francesia, một trong các học trò đầu tiên của Don Bosco,
hướng dẫn họ. 20 Salêdiêng này đã mở trong ba năm một
trường trung học tại Cherasco, nhưng họ đã buộc phải từ bỏ nó.
Don Bosco đến nói chuyện tại trường trung học và ngỏ với một
đám đông dân chúng của vùng Varazze đang vỗ tay mừng ngài.
Ngài tươi cười nói: “Để cho các trẻ con theo học sinh sống, thì
không cần dân chúng vỗ tay trong không khí, mà hãy vỗ tay
vào túi tiền! Nếu vào giờ ăn, tôi chỉ bằng lòng vỗ tay mà thôi...
thì các trẻ em sẽ đứng lại!...”
Năm 1878, Don Bosco tiếp nhận trường Valsalice cho các
thanh thiếu niên con nhà quí tộc.
Đây là một thời kỳ nặng nề cho Tu Hội. Một Hội 7 linh mục
Torino đã mở trên ngọn đồi Torino một trường trung học cho
các thanh thiếu niên quí tộc, nhưng trường đã kết thúc trong
cảnh vỡ nợ. Đức Tân Tổng Giám mục Gastaldi đang khi có
những mối tương quan căng thẳng với các Salêdiêng, đã gọi
Don Bosco đến và buộc ngài phải tiếp nhận lấy trường này.

50.6 Page 496

▲back to top
Don Bosco không muốn biết đến chuyện này. Từ lâu ngài đã
khẳng định rằng: “Không có chuyện đó! Không bao giờ cả, bao
lâu cha con sống! Đó sẽ là sự hư hoại của chúng ta”. Nhưng
Đức Tổng giám mục thì sẵn sáng buộc ngài phải tiếp nhận
ngay cả bằng lệnh vâng lời.
Don Bosco trao vấn đề cho Công nghị của Tu Hội và tất cả mọi
người đều có ý kiến tiêu cực. Ngài liền lên Lanzo để hỏi ý kiến
cha Lemoyne, và cha này đã trả lời ngài: “Cha cứ từ chối đi.
Cha đã chẳng nói đi nói lại rằng tiếp nhận các trường quí tộc sẽ
đem sự suy sụp đến cho Tu Hội chúng ta, và chúng ta phải luôn
luôn giữ vững lập trường phục vụ các trẻ em nghèo của dân
chúng cơ mà?”
Sau cùng, để tránh đối đầu với quyền bính Giáo Hội, Don
Bosco đã phải chấp nhận trường này. Trong suốt 5 năm, trường
này là một gánh nặng cho Tu Hội. Có rất ít học sinh mà lại phải
chịu một chi phí khổng lồ. Nguyện Xá Valdocco phải giúp đỡ
trường bằng những đợt trợ cấp quan trọng về tiền bạc. Don
Bosco đã cay đắng thốt lên rằng:
“Thật là những người nghèo lại phải đứng ra cứu giúp những
người giàu!”
Rốt cuộc, vào năm 1887, trường này đã trở thành sở hữu của
nhà dòng sau khi đã trả một món tiến lớn là 130,000 lires. Thế
là Don Bosco thay thế các học sinh con nhà quí tộc bằng các
thầy chủng sinh Salêdiêng. Có một tấm bảng rất lớn dựng ở
cổng ra vào: Chủng viện của các Vùng đất Thừa sai. Vấn đề
lương tâm của Valsalice sau 15 năm đã được giải quyết tốt đẹp.
Một bước ngoặt đánh dấu cho một nguyên tắc nền tảng
Chúng ta dừng lại ở đây danh sách các cơ sở mới được thiết
lập. Khi Don Bosco qua đời, các nhà Salêdiêng rải rác trong
sáu nước là 64 nhà. Con số Các Salêdiêng là 768.

50.7 Page 497

▲back to top
Để kết luận, chúng tôi xin đưa ra một nhận xét.
Bắt đầu từ năm 1864, sau sự rộ nở của các Nguyện Xá và
các trung tâm dạy nghề, còn phát sinh thêm các trường trung
học.
Nguyện Xá Chúa Nhật (bao có thể hằng ngày nữa) vẫn tồn tại
là “công cuộc thứ nhất của Tu Hội”. Luật dòng Salêdiêng đã
khẳng đinh như vậy và thực tế của hoạt động của Các
Salêdiêng khẳng định điều đó. Nơi các công cuộc lớn lao mở ra
tại Ý và Ác-hen-ti-na, Tây-ban-nha, Brasil, ta thấy tái sinh
động cảnh trí náo nhiệt của Nguyện Xá Valdocco. Các đấng kế
vị Don Bosco nhấn mạnh đến điều này; đối với tất cả mọi công
cuộc Salêdiêng: thì cần có cạnh nó một Nguyện Xá.
Nhưng Don Bosco vào đầu năm 1864, đã nắm bắt được một
nhu cầu mới của con cái của dân chúng; các trường học nghiêm
chỉnh và có phẩm chất cung cấp một nền dạy dỗ chắc chắn và
Kitô hữu. Đây chính là một bước ngoặt đối với Tu Hội: từ cảnh
náo nhiệt của các Nguyện Xá, một số ngày càng đông Các
Salêdiêng chuyển mình vào hàng ngũ lớp lang của các trường
trung học.
Không ngại ngùng nắm bắt lấy bước ngoặt này, xem ra Don
Bosco đã thiết lập một nguyên tắc nền tảng cho Tu Hội ngài:
Yếu tố thiết định có tính cách bất biến của sứ mệnh Salêdiêng
chính là giới trẻ nghèo, các người con cái của dân chúng: Đối
với họ, Các Salêdiêng buộc phải thích nghi công cuộc của họ
hầu có thể đọc được cách nhanh chóng và can đảm các dấu chỉ
và các đòi hỏi của thời đại. Tắt một lời, không phải giới trẻ
nghèo khổ sẽ phải thích nghi chính mình họ với các người
Salêdiêng và các công cuộc Salêdiêng, trái lại chính Các
Salêdiêng và các công cuộc của họ phải thích nghi với các đòi
hỏi của giới trẻ bình dân.

50.8 Page 498

▲back to top

50.9 Page 499

▲back to top
Chương 41
MORNESE CŨNG
GIỐNG NHƯ VALDOCCO
Ngày 24-6-1866, tại Nguyện Xá cử hành lễ Quan Thầy của
Don Bosco. Các giám đốc của hai nhà Salêdiêng đầu tiên là
Mirabello và Lanzo đã đến. Cha Lemoyne, giám đốc Lanzo kể
lại rằng:
“Mặt trời đã lặn và mặt trăng lộng lẫy tỏa sáng bầu trời. Tôi lên
phòng Don Bosco và ở lại một mình với Don Bosco trong hai
tiếng đồng hồ. Trên các cửa sổ và vòng bảo vệ ban-công có đốt
sáng hàng trăm và hàng trăm ngọn đèn đủ mầu sắc. Don Bosco
và tôi, chúng tôi tiến ra phía cửa sổ. Quang cảnh thật là hấp
dẫn. Don Bosco mỉm cười. Thình lình tôi thốt lên:
- Don Bosco, cha có nhớ đến các giấc mơ xưa không? Đây các
bạn trẻ, đây các linh mục và các thầy tư giáo mà Đức Mẹ đã
hứa với cha. Gần 25 năm đã trôi qua và bánh chẳng thiếu đối
với bất cứ một ai cả.
- Chúa thật tốt lành – Don Bosco trả lời. Thế rồi chúng tôi lại
rơi vào trong thinh lặng tràn đầy ngàn nỗi xúc động. Thế rồi tôi
lại bắt đầu lên tiếng lần thứ hai:
- Don Bosco, cha không thấy là còn thiếu một cái gì đó để hoàn
tất công việc của cha sao?
- Chuyện gì?
- Thế cha lại không nghĩ làm một cái gì đó cho giới trẻ nữ hay
sao? Cha không nghĩ rằng chúng ta nên có một Tu Hội các sơ
do cha sáng lập, đó sẽ là triều thiên hoàn thành công cuộc của
cha sao? Các sơ sẽ làm được biết bao nhiêu sự thiện cho các

50.10 Page 500

▲back to top
học sinh nghèo. Họ có thể làm cho các cô gái điều chúng ta
làm cho các trẻ nam.
Don Bosco tư lự một chút, rồi nói:
- Phải, chuyện đó cũng sẽ được thực hiện. Chúng ta sẽ có các
sơ. Nhưng không ngay lập tức; cần đợi một chút.
Cha Pietro Stella nghĩ rằng Don Bosco trong một thời gian đã
nuôi một hy vọng là sẽ kết hợp lại với Tu Hội Salêdiêng những
công cuộc của Marria –Louisa Clarac, một nữ tu Bác Ái đã làm
việc không cách Nguyện Xá thánh Lu-y bao xa.
Kế hoạch này nếu Don Bosco đã thực hiện, cũng không có một
tuổi thọ lâu dài.
Ngược lại trong các cuộc gặp gỡ với hai nhân vật: Don
Pestarino và Maria Đomenica Mazzarello mang tính quyết
định.
Dịch bệnh sốt nổi mụn, những tên phù thủy và con mắt soi mói
Năm 1860, giữa mùa hè, trên các ngọn đồi Mornêsê nổ tra dịch
sốt nổi mụn. Cuộc chiến tranh giành độc lập lần thứ hai vào
năm trước đó đã cất đi mạng sống của nhiều người cha gia
đình. Giờ đây dịch sốt này phát xuất từ các giếng nước nơi
nước tù tùng và thối ủng trong mùa hè, trải rộng nỗi khiếp hãi
trong tất cả miền Alexandrina
Giống như mỗi khi một nạn dịch sốt lây nhiễm phổ biến mọi
nơi, người ta ưa nói đến các phù thủy và con mắt xấu. Vi trùng,
vệ sinh, diệt vi trùng là những tiếng thời bấy giờ chưa ai biết.
Các gia đình nơi đồn là có nạn dịch thì bị mọi người từ bỏ.
Những người lành lặn khóa mình lại nơi nhà riêng của mình.
Có một gia đình mang họ Mazzarello là một trong những nhà
đầu tiên bị lây dịch bệnh. Trước hết là ông chồng, sau tới bà

51 Pages 501-510

▲back to top

51.1 Page 501

▲back to top
vợ, rồi các con cái của ông ta. Ít lâu sau người cha và đứa con
bị chết.
Don Pestarino, vị linh mục mà người ta gọi là “vị linh mục nhỏ
nhắn mà rất dễ thương” đi thăm giáo dân và nhận ra họ đang
thực sự cần một người đến giúp đỡ họ. Ngài đi thẳng tới nhà có
cha mẹ cũng mang họ Mazzarello và cô con gái tên là Maria.
Nàng là một thiếu nữ mạnh khỏe, 23 tuổi. Nàng làm việc như
một người đàn ông và cầu nguyện như một thiên thần.
- Tại nhà ông cậu, chú của con, có hai người sắp chết. Con nghĩ
sao nếu mình tới giúp họ một tay?
Maria im lặng một lúc lâu. Cô cũng sợ như mọi người đều sợ.
Vị linh mục tốt lành nhìn cô yên lặng và chờ đợi. Maria thì
thầm:
- Nếu ba con bằng lòng, con sẽ đi.
Cha cô là một người tín hữu nghiêm chỉnh. Thế là Maria đi vào
nhà đang lây bệnh. Trật tự và sự sạch sẽ vãn hồi ngay. Các
phương thuốc và của ăn đã sẵn sàng vào đúng những lúc đã
định trước.
Nhưng trong khi những người đau bệnh được chữa khỏi và
xuống khỏi giường, thì bệnh dịch sốt lại chụp xuống thân
Maria –Domenica. Khuôn mặt trái soan đẹp đẽ của cô trong có
vài ngày đã trở thành một tam giác có nước da lợt lạt và căng
thẳng. Thầy thuốc tới và lắc đầu; cái chết đã sẵn sàng ở đó cả
rồi. Ông ghi toa thuốc... Nhưng cô Maria kiệt lực liền lên tiếng:
Cháu cám ơn ông, nhưng xin ông vui lòng đừng ghi
thêm những toa thuốc khác. Cháu sẽ không cần gì thêm
nữa, trừ việc Chúa sẽ đến đón cháu thôi.

51.2 Page 502

▲back to top
Nhưng giờ phút của cô đã không bao giờ đến cả. Cô còn phải
làm việc nhiều trên trái đất này trước khi Chúa đến đem cô đi.
Thế là chẳng cần thuốc men, Maria đã bất chợt khỏi bệnh. Nét
mặt cô lại đượm những mầu sắc của sự sống. Tuy nhiên tứ chi
cô như có một sự mệt nhọc, yếu đuối không thể vượt qua được.
Cơn sốt quá lớn đã làm đổ vỡ toàn bộ cơ thể cường tráng của
cô.
Vậy thì giờ đây mình phải làm gì đây? Có nhiều thanh niên
muốn bàn chuyện hôn nhân với cô. Cô chẳng thiếu một đức
tính nào để trở thành một người vợ và một người mẹ tốt.
Nhưng cô không hề muốn dần mình vào những câu chuyện như
thế. Cô tự hỏi: “Rồi tôi sẽ làm gì đây?”
Cô Maria Mazzarello đã ghi danh vào Hiệp Hội đạo đức các nữ
tử của Đức Mẹ Vô Nhiễm. Ý tưởng của nhóm này xuất phát từ
một nữ giáo viên của vùng xứ sở này, tên là cô Angela
Macagno. Don Pestarino đã gợi ý cho cô viết một lược đồ về
luật của Hiệp Hội. Sau đó ngài đã gửi nó tới tay cha Frassinetti,
một cha xứ nổi tiếng ở Genova. Theo những lời gợi ý này cha
Frassinetti sáng tác “một bộ luật của Hiệp Hội Đạo Đức Con
Đức Mẹ Vô Nhiễm. Hội này mau chóng trải rộng ra khắp nước
Ý.
Don Pestarino đã thiết lập “Hiệp Hội Đạo đức” thứ nhất tại
Mornese ngày 9-12-1855 với 5 thanh nữ. Người trẻ nhất là cô
Maria Mazzarello, 18 tuổi.
Maria Mazzarello có một bạn nữ mà cô không hề giữ bí mật
nào với cô ta: đó là cô Petronilla, cũng là một người Con Đức
Mẹ Vô Nhiễm. Một ngày nọ trong năm 1861, Maria nói với cô
này rằng:
- Em đã quyết định học nghề may. Khi em đã biết rõ nghề này,
em sẽ mở một xưởng và dạy cho các trẻ nữ nghèo. Chị có ưng

51.3 Page 503

▲back to top
làm nghề may không? Chúng ta sẽ ở với nhau; chúng ta sẽ
sống chung như trong một gia đình thân ái.
Một năm trôi qua. Maria va Petronilla đã thiết lập một xưởng
may vá nhỏ ở cạnh xứ sở của mình. Khoảng mười thiếu nữ đến
học may. Thế rồi một chuyện mới xẩy ra làm đảo lộn mọi sự.
Bốn con mắt vẻ đầy hãi sợ
Vào mùa đông năm 1863, khi các thiếu nữ đi giày và mặc áo
mưa chống tuyết, vừa rời xưởng may về nhà mình, thì Maria và
Petronilla nghe tiếng gõ cửa. Họ mở cửa ra thì thấy một người
đàn ông góa vợ, làm nghề buôn bán lưu động cùng với hai đứa
bé gái. Ông ta xin gửi hai cô coi sóc chúng không những trong
ngày mà còn cả trong đêm nữa, vì ông ta không ở nhà mình
cũng chẳng chăm lo cho chúng được. Hai đứa trẻ mồ côi đứng
đó, với những con mắt sợ hãi. Đứa lớn 8 tuổi, đứa nhỏ 6 tuổi.
Petronilla cầm tay đứa lớn, còn Maria thì dắt đứa nhỏ. Họ đốt
lửa lớn tại lò sưởi.
Thế là chẳng có

51.4 Page 504

▲back to top
Chương trình trước, xưởng may đã biến thành một mái nhà nhỏ
cho các trẻ nữ nghèo. Maria và Petronilla đi gõ cửa các người
bên cạnh và mượn được hai chiếc giường và một ít bột để làm
món cháo.
Khi dân chúng biết được tại Mornese các cô Mazzarello “đã
tiếp nhận trong nhà mình những bé gái mồ côi”, thì nhiều
người đem củi, đôi chăn, nửa túi bột mì. Họ cũng mang cả
những bé gái nhỏ đang cần một mái ấm. Ít lâu sau, nhóm trẻ đã
lên tới 7 em.
Trước khi bắt đầu làm việc tại xưởng, các trẻ nhỏ đọc kinh
Kính Mừng. Khi chuông nhà thờ vang lên báo hiệu giờ, cô
Maria liền nhắc nhở: “Một giờ bớt đi trên trần gian, một giờ
thêm vào trên thiên đàng”. Cô muốn rằng các em học nghề của
cô làm việc cho Chúa: “Mỗi một mũi kim là một hành vi tình
yêu dâng lên Thiên Chúa”.
Sáng ngày Chúa Nhật, Maria cũng muốn “làm sự thiện cho tất
cả mọi trẻ nữ trong xứ mình”. Một hình thức Nguyện Xá phát
sinh. Trong các ngày lễ, hai bạn nữ tập họp các trẻ em lại, dẫn
các em tới nhà thờ và giúp các em vui chơi hay đi dạo.
Một vị linh mục đi tìm việc làm
Cha Đominico Pestarino sinh tại Mornese; ngài được thụ
phong linh mục năm 23 tuổi tại chủng viện Genova. Trong vài
năm, ngài ở lại làm việc tại chủng viện, cho tới năm 30 tuổi,
đáp lại lời mời trợ giúp của một vị cha xứ già, ngài đã trở lại
quê hương. Ngài tự giới thiệu mình tại tòa giảng bằng những
lời sau đây: “Tôi đi tìm công việc, không phải tại những cánh
vườn nho của chúng ta, mà là tại đây, nơi nhà thờ, trong vườn
nho của Thiên Chúa tốt lành. Có nhiều chỗ được cống hiến cho
tôi, nhưng tôi ở đây giữa anh chị em nếu anh chị em cung cấp
công việc mà tôi tìm kiếm”.

51.5 Page 505

▲back to top
Ngài gặp Don Bosco lần đầu tiên tại Genova, trong nhà cha
Frassinetti. Nhưng cuộc gặp gỡ có tính cách quyết định là ở
trên xe lửa, khi cả hai người ở tại xe lửa giữa thành phố Acqui
và Alexandria. Don Bosco đề nghị ngài tới thăm Nguyện Xá
Valdocco. Mấy tháng sau đó, Don Pestarino tới thăm Nguyện
Xá.
Quang cảnh rất đông trẻ em đang lớn lên cách vui tươi trong
một trường học làm việc và thấm nhuần đức tin làm cho người
tới thăm viếng hết sức phấn khởi. Ngài nói với Don Bosco:
“Xin cha hãy đem con về với cha”. Don Bosco đồng ý để ngài
trở thành Salêdiêng (trên thực tế, vào năm sau, Don Pestarino
đã tuyên khấn), nhưng Don Bosco lại muốn ngài ở lại Mornese
nơi có rất nhiều chuyện quan trọng khiến ngài trở thành tối cần
thiết tại đó. Dẫu sao đi nữa, các mối tương quan với Don Bosco
đã trở thành những mối tương quan của sự công tác và sự lệ
thuộc. Kể từ giờ phút đó Don Pestarino tham gia các cuộc họp
của các giám đốc Salêdiêng.
Tại Mornese trong thời gian đó, cũng có một điều mới mẻ
khác. Hai người con của Đức Mẹ Vô Nhiễm xin với Maria và
Petronilla để được “sống như họ”. Khi họ hỏi ý kiến Don
Pestarino, thì ngài trả lời: “Tại sao không? Với hai chúng con
mà thôi, chúng còn có quá nhiều chuyện để làm khiến chúng
con không kham nổi nữa”. Thế là họ tạo thành một cộng thể:
bốn cô gái dạy may cho các trẻ nữ và giữ vai trò các bà mẹ cho
7 đức bé gái ở với họ cả ngày đêm.
Năm 1864, như chúng ta đã nhắc đến trong

51.6 Page 506

▲back to top
Chương 37, Don Bosco tới Mornese với các trẻ trai trong kỳ
nghỉ hè – dã ngoại vào mùa thu. Ngài lưu lại đây 5 ngày, Maria
Mazzarello tham dự bài huấn đức mà Don Bosco ban cho các
con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Mỗi buổi chiều cô cũng nghe các huấn
từ tối Don Bosco nói cho các trẻ trai. Có người trách cô là
không tiện lắm. Cô trả lời: “Don Bosco là một vị thánh, em
cảm nhận được điều này”.
Vào năm sau, Các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm chia ra thành hai
nhóm. Những người đã quyết định sống đời cộng thể với Maria
và Petronilla thì cư ngụ tại nhà cha Pestarino là nơi các cô thấy
thuận lợi để cư ngụ hơn, và không xa nhà thờ giáo xứ lắm, và
giữ nguyên tên Các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm. Còn những người
khác như Angelina Maccagno thì thích ở lại gia đình của họ
hơn, và họ lấy tên của nhóm mình là Các Chị Em
Ursoline mới.
Cuốn vở nhỏ bị lạc mất
Dân chúng Mornese tại khu gọi là Borgo Alto, xây dựng một
trường trung học để cho các cậu con trai có các lớp để học.
Don Bosco đã hứa là ngài sẽ gửi các Salêdiêng của ngài tới khi
ngôi nhà xây xong. Cả xứ sở tham gia vào công trình, bằng
những tiền dâng cúng hay góp ngày công lao động.
Năm 1867, ngôi nhà nguyện của Trường Trung Học hoàn
thành. Vào tháng 12, Don Bosco đến cử hành thánh lễ tại đó.
Ngài kêu xin Chúa ban các chúc lành của Người xuống trên
trường học và dân chúng tại Mornese. Ngài dừng chân tại đó
trong 4 ngày và ban một bài huấn đức cho nhóm Các Con Đức
Mẹ Vô Nhiễm bé nhỏ này.
Năm 1869, Don Bosco thúc đẩy bước chuyển động để tiến
hành việc thiết lập “gia đình thứ hai”. Mắt của ngài giờ đây đã
nhắm chắc vào các cô gái Mornese, và không kèn trống, ngài
gửi cho Maria và Petronilla một cuốn vở nhỏ “viết bằng chính

51.7 Page 507

▲back to top
tay của ngài, chứa đựng thời khóa biểu và một luật nhỏ để họ
cùng với các cô gái nhỏ của họ bắt đầu sống một đời sống qui
củ hơn” (M. B., Cuốn X, tr. 591).
Cuốn sách nhỏ này đã bị lạc mất; Sơ Petronilla nhớ lại rằng
“trong cuốn sách đó có những lời khuyên sau đây: Cố gắng
sống thường xuyên trong sự hiện diện của Thiên Chúa; Cầu
nguyện qua việc sử dụng các lời kêu cầu thường xuyên; giữ
thái độ cư xử hiền lành, kiên nhẫn, dễ thương; để ý nhiều đến
các trẻ nữ, luôn giữ cho chúng bận bịu với các công việc và
chuẩn bị chúng cho một đời sống đạo đức, đơn sơ, thẳng thắn
và tin tưởng” (M.B. Cuốn 10, Tr. 592).
Năm 1870, Don Bosco tới ở lại tại Mornese 3 ngày: để nghỉ
ngơi hầu lấy lại đối chút sức lực của mình và cũng để quan sát
gần đời sống cộng thể của các chị em. Ngài muốn thấy “cuốn
vở nhỏ đó” có tác động gì nơi đời sống của họ. Ngài hoàn toàn
mãn nguyện”
Ngày 30-1-1871, tại Nguyện Xá, Don Bosco họp các giám đốc
Salêdiêng của ngài, có Don Pestarino tham dự và trình bày về
sự phát triển tại Mornese.
Ngày 24-4-1871, Don Bosco họp Công Nghị Tu Hội. Hiện diện
Don Rua, Don Cagliero, Don Saviô, Don Ghivarello, Don
Durando, Don Albera. Ngài công bố quy tụ họ lại vì “một công
việc có tầm quan trong lớn lao”. Sau đây là những lời của ngài,
theo biên bản cuộc họp:
“Một số lớn các nhân vật đã nhiều lần khích lệ cha hãy làm cho
các trẻ nữ một ít điều thiện mà nhờ ơn Thiên Chúa chúng ta đã
làm cho các trẻ nam. Nếu cha đã nghe theo những khuynh
hướng cá nhân của cha, tất cha đã tránh thứ tông đồ này.
Nhưng cha sợ mình đi ngược lại với dự định của Chúa Quan
Phòng. Vậy, cha mời gọi chúng con suy nghĩ trước mặt Chúa
để lấy một quyết định sẽ mang lại một vinh quang to lớn hơn

51.8 Page 508

▲back to top
cho Thiên Chúa và lợi ích to lớn hơn cho các linh hồn. Trong
tháng này các lời cầu nguyện của chúng ta sẽ hướng nhiều về
việc xin Chúa ban cho chúng ta ánh sáng cần thiết trên công
chuyện quan trọng này”.
Khi không còn bột bắp để làm món cháo bắp
Felicina Mazzarello, em của Maria, kể lại cuộc sống trong
những thời gian đầu tiên đó: “Chuyện vẫn thường xẩy ra là
cộng đoàn thiếu đồ ăn cần thiết, nhất là bột bắp để làm món
cháo bắp; và khi có được, thì lại thiếu củi để nấu chín cháo.
Thế là chị Maria cùng với một vài chị em khác của chúng ta đi
ra cánh đồng và đến dưới các gốc cây để tìm củi khô, rồi vác
đem về nhà, chuẩn bị đồ ăn. Khi cháo bắp đã nấu xong, họ đem
ra sân, đổ ra đĩa lớn và đặt trên nền đất, rồi mời cả cộng đoàn
tham gia bữa tiệc tuyệt vời này. Đĩa và thìa thì thiếu, nhưng
chẳng thiếu thức ăn rất ngon và niềm vui chan hòa”.
Vào cuối tháng Năm 1871, Don Bosco lại nhóm họp Công
nghị để hỏi ý kiến các thành viên. Tất cả các vị đều nhận xét là
thời giờ thuận lợi đã tới để phục vụ cho giới trẻ nữ. Don Bosco
rút ra kết luận như sau:
“Trong trường hợp này, hiện nay chúng ta có thể nói rằng
Thiên Chúa chắc chắn muốn chúng ta chăm sóc cho các trẻ nữ
và để đi tới một cái gì cụ thể, cha đề nghị là nhà cha Pestarino
vừa mới xây dựng xong tại Mornese thì được dành cho công
cuộc này”.
Vào giữa tháng sáu, Don Pestarino đã mời Don Bosco tới một
cách khẩn cấp. Cha Pestarino tốt lành đã tường thuật về cuộc
gặp gỡ này như là một buổi nói chuyện thanh thản và hoàn toàn
như một lời truyền lệnh. Tuy nhiên cuộc đối thoại giữa hai vị
có thể rất khác thế, rất sôi nổi và ý kiến rất trái ngược nhau,
nếu chúng ta lưu ý đến lời sơ Petronilla kể lại rằng “thường khi

51.9 Page 509

▲back to top
cha Pestarino trở về nhà sau cuộc găp gỡ với Don Bosco, vẻ
ngài như đang ở trên tầng trời thứ bẩy, nhưng lần này ngài lại
có vẻ rất ái ngại, rối rắm và lo lắng”. Sau đây là lời kể lại của
cha Pestarino:
“Don Bosco nói lên ước muốn của ngài là lo chăm sóc cho việc
giáo dục Kitô giáo của các trẻ nữ, con cái của dân chúng, và
tuyên bố rằng Mornese là nơi mà ngài coi là thích hợp nhất:
các Con Đức Mẹ Vô Nhiễm ở đó có thể đáp ứng cho những
tiếng gọi họ sống đời sống chung, tách biệt khỏi thế gian và bắt
đầu một Tu Hội các Con Đức Mẹ Phù Hộ, phục vụ cho lợi ích
của biết bao nhiều trẻ nữ của dân chúng. Don Pestarino không
hề e ngại, đã trả lời rằng: “Nếu Don Bosco (và đây chỉ là lời
khẳng định của lời tường thuật lại của riêng cha Pestarino mà
thôi) muốn nhận lấy việc hướng dẫn và che chở Tu Hội, thì các
cha sẵn sàng đặt bản thân cha trong tay ngài”.
Trong thời điểm này, tại nhà của Maria và Petronilla đã có các
thiếu nữ khác cùng dấn thân như Teresa Pampuro, Caterina
Mazzarello, Felicina Mazzarello, Gioavnnina Ferrettino và các
em nhỏ tuổi hơn là Rosina Mazzarello Baroni, Maria Grosso,
Corinna Arrigotti.
Hai khó khăn đặc biệt khiến cho cha Pestarino “ái ngại và bối
rối là: Các thiếu nữ này là những Kitô hữu tốt nhưng không có
ai trong số họ đã nghĩ đến việc trở thành các nữ tu. Don Bosco
muốn trao trường trung học Borgo Alto này làm nơi ở cho các
Con Đức Mẹ Phù Hộ; nhưng dân xứ này đã thực hiện công
việc xây cất là nhắm đến sao để có được một trường trung học
cho các lớp học của các cậu con trai của họ. Sự thay đổi sẽ gợi
dậy hầu như là một cuộc cách mạng rồi.
Ý kiến của Đức Thánh Cha và sự bực bội của dân xứ đó
Trong tháng 6-1871 đó, Don Bosco đi Roma để trình bày kế
hoạch mới của ngài cho Đức Piô IX. Sau khi đã xin một vài

51.10 Page 510

▲back to top
ngày sau để “suy nghĩ kỹ lại”, Đức Thánh Cha nói với ngài:
“Kế hoạch của con hiện ra cho cha như là ý của Thiên Chúa.
Cha nghĩ là các sơ này phải nhận việc dạy dỗ và giáo dục các
trẻ nữ như là mục đích chính của Tu Hội, giống như Các
Salêdiêng nam đã làm cho các trẻ nam. Còn về việc các sơ này
lệ thuộc vào ai, thì dĩ nhiên là lệ thuộc vào con và các người kế
vị con. Theo ý này, con hãy nghĩ đến Hiến luật và hãy bắt đầu
viết bản thảo Hiến luật. Những gì còn lại sẽ đến sau”.
Ngày 29-1-1872, theo lệnh của Don Bosco, Don Pestarino tập
họp lại 27 Con Đức Mẹ Phù Hộ để họ bầu bề trên thứ nhất của
họ. Lá phiếu chọn Maria Mazzarello, nhưng cô khiếp sợ và xin
các chị em miễn chước cho cô. Họ vẫn kiên quyết trong sự
chọn lựa này và cha Pestarino quyết định trao toàn quyền quyết
định lại vào tay Don Bosco. Maria cảm thấy yên lòng: Don
Bosco chắc chắn biết rõ là cô không đủ khả năng, nên chắc
chắn sẽ miễn chước cho cô khỏi gánh trách nhiệm. Ngược lại
Don Bosco biết rõ cô đủ khả năng như thế nào và xác nhận cô
trong trách nhiệm bề trên khiến cho cô không khỏi bồn chồn lo
lắng.
Giờ đây phải làm sao để cho các Con Đức Mẹ phù Hộ có được
một chỗ ở vững bền. Nhưng làm sao để tiến hành được mà
không làm dấy lên sự bất mãn của dân trong xứ sở? Một diễn
tiến giúp thực hiện giải pháp này. Số là nhà của cha có nguy cơ
sụp đổ. Chính quyền thị xã đã quyết định đập nó xuống và xây
dựng lại. Trong khi chờ đợi, chính quyền xin cha Pestarino cho
cha xứ được sử dụng đến căn nhà mà cha Pestarino có ở gần
nhà thờ.
“Thế còn các cô gái đang dạy lớp may và nuôi dạy, cung cấp
chỗ ăn chốn ở cho chúng, thì đi đâu?”
Các vị trong ban hội đồng xã suy nghĩ và gợi ý:

52 Pages 511-520

▲back to top

52.1 Page 511

▲back to top
- Cứ gửi các cô ấy đến trường đang xây dựng ở Borgo Alto.
Tại đấy có tầng trệt đã làm xong và chưa có ai ở.
Don Pestarino thở phào sung sướng: Người ta đã ra lệnh cho
cha làm điều cha không dám xin. Việc di chuyển chỗ ở được
thực hiện bằng các chiếc xe của dân quê mà không quên dời
các nong nuôi tằm là một trong những nguồn tài nguyên sinh
lời quí báu của đám các cô gái nghèo này.
Ngay lập tức, việc di chuyển không khơi dậy một sự ngạc
nhiên nào. Nhưng tiếng đồn lan rộng ra trong xứ sở rằng các
Con Đức Mẹ (mà con số tăng thật nhanh) kể từ nay sẽ chiếm
ngôi trường trung học mất để tạo thành một Tu Hội mới. Lập
tức nổi lên “những tiếng than phiền dai dẳng và tiếng phản đối
chung” (M. B. Cuốn X, tr. 613). Sử gia Writh thì viết chi tiết
hơn nữa: “Dân chúng tại Mornese gào lên rằng dây là một sự
phản bội. Các Con Đức Mẹ Phù Hộ bước những bước đầu tiên
trong một bầu khí không được thông cảm, hầu như là thù
nghịch. Và điều tệ hại đó cộng thêm vào với cảnh khó nghèo
và thiếu thốn đã quá lớn rồi”.
“Trong xứ sở đồn đại lời ra tiếng vào rằng những chuyện này
chẳng kéo dài được lâu đâu – như lời sơ Felicina mazzarello
viết. Theo kiểu loài người mà nói, thì đó là chuyện đương
nhiên thôi vì các cô thiếu thốn mọi sự. Tuy nhiên cô Maria –
Domenica chẳng sợ hãi. Cố tiếp tục cuộc sống mệt nhọc và hy
sinh của mình. Tòa nhà đang xây dựng chưa hoàn tất, cô cả
ngày lo lắng dồn dập lại. Còn việc giặt giũ thì thế nào? Con
sông Roverno chẳng xa xứ Mornese mấy. Ngày giặt quần áo
đến, cố lấy một ít bánh đem theo, hay một mảng lớn cháo bột
bắp đặc, rồi cô đi tới con sông cùng với một số các bạn hữu.
Tại đó các cô làm công việc giặt giũ của mình. Cô trở về nhà
mệt nhọc và quần áo ẩm ướt, cô lập tức lo cho các chị em khác
thay quần áo và chuẩn bị cho họ một thứ đồ ăn ấm áp nào đó.
Cô thực sự là một người mẹ dào dạt tình thương”.

52.2 Page 512

▲back to top
Mùi thơm của nắm hạt dẻ
Ngày 5-8-1872, mười lăm Con Đức Mẹ Phù Hộ nhận áo dòng.
Mười một người trong số họ cũng khấn ba năm sống trong Tu
Hội, trong đó có cô Maria Mazzarello.
Đức Cha Sciandra trao thánh giá cho 15 sơ: “Các con tốt lành,
hãy nhân lấy hình ảnh của Đức Giêsu yêu dấu của các con.
Ngài sẽ là sự an ủi cho các con trong những khó khăn mà các
con sẽ gặp phải”.
Don Bosco dự lễ nhận áo dòng và tuyên khấn. Sau đó với sự
đơn sơ đầy âu yếm, ngài nói:
- Các con phải chịu khổ cực, cha tin điều ấy bằng chính mắt
cha, bởi vì cả thế giới đều nghịch lại với các con, diễn cợt các
con; ngay cha mẹ các con cũng quay lưng khỏi các con. Các
con đừng ngạc nhiên. Trong kinh phụng vụ kính Đức Trinh
Nữ, các con đã đọc: “Cây cam tùng của tôi tỏa hương thơm
ngát”. Các con có biết khi nào cây cam tùng tỏa hương thơm
chăng? Khi nó bị đập nát. Các con rất thân mến, chớ gì chuyện
các con bị đối xử thậm tệ như các con hiện nay trên trần gian
này không làm cho các con kinh ngạc. Các con hãy can đảm
lên và tự an ủi mình vì chỉ bằng cách thế như vậy các con mới
trở nên có khả năng thực thi sứ mệnh của mình. Nếu các con
sống một cách xứng đáng với hoàn cảnh của các con, các con
có thể làm ích cho linh hồn các con và cho linh hồn những
người bên cạnh các con”.
- Cảnh nghèo nàn của họ đúng là đang gần như là cảnh khốn
cùng. Món ăn chính của cộng đoàn là món cháo bắp và những
hạt dẻ luộc. Một sơ của những thời ban đầu kể lại rằng: “Mùi
thơm của nắm hạt dẻ này bắt đầu tỏa ra từ hai giờ trước đó và
làm chúng tôi ngây ngất”.

52.3 Page 513

▲back to top
- Nhiều sơ sử dụng khúc gỗ cuộn giẻ làm cái gối đầu. Toàn bộ
những chiếc gối nhỏ có trong nhà đều dành cho các trẻ nhỏ.
Maria Mazzarello đã không muốn cho các sơ trẻ phải thực
hành việc đền tội này, nhưng mẹ không thể nào cắt nghĩa nổi
tại sao chính mẹ là người đầu tiên đã nghĩ ra cách thế đền tội
đó.
Cái chết gõ cửa
Ngày 29-1-1874, cái chết lần đầu tiên len lỏi vào trường trung
học. Maria Poggio, một sơ trẻ thuộc nhóm đầu tiên, đã ra đi.
Cô sống vui tươi, luôn sẵn sàng giúp đỡ, nên hữu ích cho mọi
người, và trông nom các người đau ốm. Cô phải chịu đói và
lạnh rét trong mùa đông năm ấy! Cô đã ra đi trong sự thinh
lặng, chẳng làm phiền ai.
Đám tang của cô sơ trẻ tuổi này đã qui tụ toàn thể dân làng lại.
“Nhiều người khóc”, cha Pestarino nhớ lại. Điều đó tái tạo lại
sự hòa bình giữa dân chúng và các cô thanh nữ xanh xao đang
theo hàng tiến bước trong bộ áo các sơ và lần tràng hạt này. Kể
từ ngày hôm đó, bột bắp để nấu cháo và bột mì để làm bánh
không còn thiếu trong kho nữa.
Nhưng cái chết vẫn còn đến gõ cửa nhà.
Ngày 15 tháng Năm, Don Pestarino đọc cho các sơ nghe một
trang sách về sự vắn vỏi của cuộc sống. Ngài nói: “Có lẽ cái
chết sẽ bắt chộp lấy tôi trong vòng một năm, trong vòng một
tháng, hay một tuần, hay một ngày, một giờ, hay có thể ngay
trong lúc đọc sách này!” Vào lúc đó, vị linh mục bật khóc. Các
sơ đều rối loạn.
Vào 11 giờ trưa, đang khi ngài làm việc, ngài đã ngã xuống đất.
Ngài chết vài giờ sau đó. Ngài hưởng dương 57 tuổi.
Họ lập thành nhóm ba người, lên đường dưới cảnh tuyết rơi

52.4 Page 514

▲back to top
Ngày 9-12-1876, dưới cảnh tuyết rơi, ba sơ đầu tiên lên đường.
Họ đi tới Vallecrosia, miền Liguria, để mở một Nguyện Xá và
một trường cho các thiếu nữ.
Ngày 19-3-1876, 7 sơ khác lên đường tới Torino. Cách Nguyện
Xá của Don Bosco 50 mét, các sơ khai mạc một Nguyện Xá và
một trường cho trẻ nữ. Nhà này sẽ trở thành suốt 40 năm nhà
trung tâm của các Con Đức Mẹ Maria Phù Hộ.
Trong năm 1876, 26 sơ lên đường từ nhà Mornese: các sơ đã
mở các trường và Nguyện Xá tại Biella, Alssio, Lu Monferrato,
Lanzo Torinese. Một nhóm 7 sơ lên đường tới Sestri Levante.
Họ đi thiết lập một trại tại vùng biển cho các trẻ nam và nữ bị
bệnh lao. Giữa đám trẻ mặt mũi ghê sợ này, có sơ Henriette
Sorbone làm việc với một niềm vui thanh thản. Sơ xưa kia là
một em bé mồ côi, dắt theo bốn em nhỏ của mình tới nhà
Mornese.
Năm 1878, các Con Đức Mẹ Phù Hộ đã trở thành một gia
đình đông đảo, tỏa ra khắp thế giới. Theo lệnh của Don Bosco,
trung tâm của Tu Hội chuyển từ Mornese đến Nizza
Monferrato. Đối với Maria Mazzarello, đây là một nỗi đau xé
lòng. Cô chào biệt cha mẹ tuổi đã rất cao, rồi tới nghĩa trang
thăm mộ cha Pestarino và chào biệt căn nhà nhỏ nơi cô đã học
may cho các trẻ nữ đầu tiên.
Không bao giờ chuyện làm bề trên tổng quyền làm mẹ
Mazzarello đánh mất sự nhạy bén với những mối tương giao và
tiếp xúc. Mẹ tiếp tục hộ trực các trẻ nữ nhỏ nhất tại nhà ngủ,
với con mắt chăm chú và trìu mến. Một em bé mà vì chứng
sưng buốt ngồi co quắp, khoanh tròn chân tay, ép lại cùng
nhau, rồi lén đưa mắt xem có ai nhìn thấy em, sau đó để
nguyên quần áo, chui vào trong chăn chân vẫn đi giày... Mẹ
Mazzarello thấy cảnh em này đang làm, nhưng không nói gì cả.
Mẹ xuống nhà bếp lấy một chậu nước ấm, ống đo nhiệt độ, và

52.5 Page 515

▲back to top
vải len. Mẹ đặt toàn bộ những thứ đó gần bên giường em rồi thì
thầm:
- Bây giờ con hãy đưa chân cho mẹ xem. Đừng sợ, mẹ sẽ
không làm cho con đau đâu.
Cái chết đến với những bông hoa của tháng Năm
Tháng Giêng năm 1881, các sơ bắt đầu nhận thấy sức khỏe của
Mẹ Mazzarello suy giảm. Có người thì thầm với mẹ rằng mẹ
phải để ý tới sức khỏe của mình, nhưng mẹ mỉm cười trả lời:
- Sẽ tốt hơn cho mọi người nếu mẹ ra đi. Như vậy người ta sẽ
thể chọn một bề trên có khả năng hơn mẹ.
Cơn bệnh của mẹ trở nên tệ hại hơn khi mẹ hành trình cùng
một nhóm các sơ được sai đi truyền giáo tại châu Mỹ. Vì thời
tiết xấu, mẹ buộc phải qua đêm nằm co quắt trong một góc xó,
vẫn mặc y nguyên quần áo và run rẩy vì cơn sốt. Sáng ra, mẹ
không thể dậy khỏi giường. Sau đó chút ít, mẹ đã hết sức cố
gắng đứng dậy để đi theo các con của mẹ cho tới bến cảng.
Nhưng sau vài giờ mẹ không thể chịu nổi nữa.
Bị viêm màng phổi nghiêm trọng như thầy thuốc chuẩn bệnh.
40 ngày cảm sốt và ở xa nhà mình, với cách chữa duy nhất là
hành hạ da lưng mình bằng giác hơi là cách thức chữa bệnh
duy nhất được biết tới vào thời bấy giờ và khiến cho lưng của
mẹ xưng dộp lên.
Thế rồi cơn sốt biến mất, nhưng thầy thuốc phán một cách
minh bạch và hung hãn là mẹ chỉ còn có thể sống được ít tháng
nữa thôi.
Trở về Nizza, mẹ gặp Don Bosco và nói với ngài: “Thầy thuốc
nói quá rõ. Thưa Don Bosco, con còn có thể chữa khỏi bệnh
được nữa chăng?”

52.6 Page 516

▲back to top
Don Bosco không trả lời thẳng vào câu hỏi mà chỉ kể cho mẹ
nghe một câu chuyện: “Có một hôm, thần chết đến gõ cửa một
tu viện. Thần chết nói cho tất cả các sơ rằng: “Hãy đến theo
ta!”; nhưng tất cả họ đều khựng lại vì họ còn có nhiều chuyện
phải làm. Cuối cùng thần chết đến với bà bề trên và nói: “Này
đến lượt bà phải làm gương tốt đấy nhé. Hãy đi với ta!” Bà bề
trên buộc phải chấp nhận và vâng lời”.
Mẹ Mazzarello hiểu, mẹ cúi đầu và cố gắng mỉm một nụ cười.
Xanh xao và kiệt sức, mẹ trở về Nizza. Buổi lễ lớn các sơ tổ
chức để đón mẹ về khiến mẹ hết sức cảm động. Mẹ chân thành
cảm ơn:
- Trên trần gian dù có chuyện gì xẩy ra đi nữa, chúng ta đừng
có vui quá hay buồn quá. Chúng ta luôn ở trong vòng tay của
Thiên Chúa, ngài là cha chúng ta, và chúng ta phải luôn luôn
sẵn sàng làm điều ngài muốn.
Kết cuộc xẩy ra vào mùa xuân. Qua các khung kính cửa sổ, mẹ
thấy cảnh cây xanh và hoa nở. Mẹ thích nghe tiếng của các trẻ
nữ chạy nhảy và vui chơi không tư lự. Mẹ còn muốn nói với
các sơ của mẹ:
- Các con hãy thương yêu nhau. Hãy đoàn kết. Các con đã từ
bỏ thế gian; các con đừng tạo nên một thế gian khác ở trong
nơi này. Các con hãy nghĩ đến điều khiến các con vào Tu Hội.
- Mẹ chịu đau khổ, nhưng không muốn làm buồn lòng một ai.
Mẹ cố gắng hát. Thiên Chúa đến tìm mẹ vào sáng sớm 14
tháng Năm. Mẹ thì thầm nói lên được tiếng “Hẹn gặp lại trên
trời”. Mẹ đạt được 44 tuổi.
Caterina Daguero, một sơ còn rất trẻ với 25 xuân xanh, được
gọi kế tục mẹ đứng đầu các con Đức Mẹ Phù Hộ. Sơ đã vào
Dòng lúc 18 tuổi. Mẹ Maria Mazzarello đã giúp cho cô bé vượt
thắng nỗi buồn và gian khổ của các ngày đầu tiên. Năm 1879

52.7 Page 517

▲back to top
sơ đã trở thành giám đốc công cuộc Torino. Sự gần gũi với
Don Bosco đã thức tỉnh nơi sơ sáng kiến thiết lập một Nguyện
Xá và một trường học, làm lộ ra những phẩm chất sâu xa: sự
vững vàng, quân bình và lòng tốt.
Dưới sự thúc đẩy của bề trên mới, các Con Đức Mẹ Phù Hộ
(FMA) phát triển các công cuộc tại Ý, Pháp, Nam Mỹ. Khi
Don Bosco qua đời, họ đã đi được một hành trình dài: Họ điều
hành 50 nhà, con số các sơ đạt đến 390 và các tập sinh lên đến
cả trăm người.

52.8 Page 518

▲back to top
Chương 42
CUỘC CHINH PHỤC ROMA
VÀ CƠN RÙNG MÌNH CỦA SỰ CHẾT
Vào năm 1870 xảy ra hai biến cố quan trọng trong lịch sử của
Hội Thánh và của nước Ý: Công đồng Vaticano I và việc quân
đội Ý chiếm thành Roma.
Công đồng ở Roma và phản-công đồng tại Napoli
Công Đồng chính thức khai mạc ngày 8-12-1869. Đức Piô IX
nêu lên hai mục tiêu chính: một là trình bày giáo thuyết Công
giáo đối lại với những sai lầm của thời hiện đại và việc định tín
sự bất khả ngộ của Giáo Hoàng.
Ba trăm năm đã trôi qua kể từ Công Đồng cuối cùng là công
đồng Trento kết thúc. Đức Piô IX ngỏ lời kêu gọi đầy hối thúc
tới các Giám mục của Hội Thánh ly khai Đông phương để mời
họ tham dự Công Đồng Vaticano I. Những vị này đã trả lời tiêu
cực và thiếu lịch thiệp.
Các người phái Thệ phản cũng được mời tham dự, nhưng công
thức mời nói đến “cơ hội tốt lành để trở về với đoàn chiên duy
nhất của Chúa Kitô” nghe không mấy thuận tai đối với họ.
Phe Tam điểm Ý, một tổ chức ngầm có những nghi thức riêng
chống Giáo Hội, trong thời đại chống giáo sĩ dữ dằn, đã công
bố một “phản công đồng” tại Napoli và tiếp nhận sự tán đồng
đầu tiên đến từ Giuseppe Garibaldi và văn hào Vitor Hugo.
Trong nhiều tỉnh những cuộc biểu tình của quần chúng đã được
tổ chức để công bố “một cuộc chiến tranh quyết liệt với Đức
Giáo Hoàng”.
Số các Đức Giám mục tham dự Công đồng gồm: 200 Giám
mục Ý, 70 Giám mục Pháp, 40 Giám mục Áo-Hungary, 36

52.9 Page 519

▲back to top
Giám mục Tây Ban Nha, 19 Giám mục Ái Nhĩ Lan, 18 Giám
mục Đức, 12 Giám mục Anh, 50 Giám mục Đông phương, 40
Giám mục Hoa Kỳ, 9 Giám mục Canada, 100 Giám mục của
các quốc gia khác và của các lãnh thổ truyền giáo. Cùng với
các Đức Giám mục, còn có cả các Dòng tu và các Tu Hội đại
diện tham gia. Toàn bộ là 700 Nghị Phụ Công Đồng.
Ngày 20-1-1870, Don Bosco đi Roma và tới đó vào ngày 24.
Ngày 8 tháng Hai, ngài có hai cuộc bệ kiến tư với Đức Thánh
Cha. Đức Piô IX xin ngài cho phát hành giữa dân chúng một
cuốn sách lịch sử nhỏ nêu rõ sự bất khả ngộ của Đức Thánh
Cha. Don Bosco đã vâng lời vào cuối năm đó: ngài gửi tới tất
cả mọi độc giả của Báo Đọc Công giáo một ấn bản mới của
cuốn Lịch Sử Hội Thánh của ngài, với một phần cuối dành để
nói về Vaticano I và sự bất khả ngộ.
“Trời Cao nói với vị Mục tử của các mục tử”
Trong một cuộc bệ kiến kế tiếp (vào ngày 12 tháng Hai), Don
Bosco trao vào tay Đức Thánh Cha những trang sách về “các
sự thấy trước liên quan đến tương lai”. Những dòng chữ đầu
nói: “Vào buổi chiều vọng lễ Hiển Linh năm 1870 đang diễn
ra, các vật trong phòng của con biến mất và con đang trong sự
chiêm ngưỡng các điều siêu nhiên. Việc này kéo dài rất ít thời
gian, nhưng con thấy được rất nhiều điều”. Bản tường trình
(mà chúng ta còn giữ lại được bản viết tay của chính Don
Bosco) được viết trong một văn thể giàu tưởng tượng, tiên tri,
trộn lẫn các lời công kích, các dự kiến, các lời kêu gọi thường
có tính cách huyền bí và lẫn lộn. Đoạn văn đánh động Đức
Thánh Cha nhất (và cũng là đoạn đủ rõ ràng cho chúng ta nữa)
là đoạn sau đây:
“Bây giờ là tiếng nói của trời cao cho vị Mục tử của các mục
tử: Ngươi đang ở giữa Phòng Hội Lớn cùng với Bồi thẩm đoàn
của ngươi; nhưng kẻ thù của sự thiện không một chút nghỉ

52.10 Page 520

▲back to top
ngơi. Nó nghiên cứu và sử dụng đến tất cả mưu đồ chống lại
ngươi. Nó gieo vãi sự bất hòa giữa các vị Bồi thẩm của ngươi,
khơi dậy các kẻ thù trong số các con cái ngươi. Các quyền lực
của thế kỷ này mửa ra lửa và cố gắng bóp nghẹt các lời trong
họng của các kẻ gìn giữ luật của ta. Điều ấy sẽ không xảy ra
được. Chúng sẽ làm sự dữ, nhưng lại tạo ra sự dữ cho chính
mình chúng. Còn ngươi, hãy tiến nhanh hơn. Nếu người ta
không có thể gỡ mối cho các khó khăn, thì hãy cắt đứt chúng.
Nếu ngươi phải rơi vào những nỗi khổ não, thì đừng dừng
bước. Nhưng hãy tiếp tục cho tới khi đầu Con Rắn Biển gây ra
sự khủng khiếp bị chặt đứt. Cú đánh này làm cả trái đất lẫn hỏa
ngục run rẩy. Nhưng thế giới này sẽ tìm lại được sự an ổn và
những kẻ tốt lành sẽ hoan hỉ. Vậy ngươi hay gọi hai người Bồi
thẩm đến gần ngươi thôi, nhưng bất cứ ngươi đi dâu, ngươi hãy
tiếp tục và hãy hoàn tất công cuộc đã được trao phó cho ngươi.
“Những ngày qua đi nhanh, các năm sống của ngươi đang tiến
đến con số đã được xác định. Nhưng vị Nữ Hoàng Vĩ đại sẽ
luôn luôn là sự phù hộ cho ngươi và cũng như trong quá khứ,
Mẹ luôn luôn trong tương lai sẽ vẫn là magnum et singulare in
Ecáclesian praesidium (Đấng Phù Hộ vĩ đại và độc nhất của
Hội Thánh)”.
Hai mươi dòng sau đó, Don Bosco nói về tương lai của Đức
Thánh Cha:
“Giờ đây ngài già nua, yếu đau, không được bảo vệ; bị bóc lột.
Tuy nhiên, với lời nói lôi cuốn, ngài sẽ làm cho thế gian run
sợ”. (Việc chiếm Nước Tòa Thánh sẽ xẩy ra vào ngày 20-9-
1870).
Những lời đe dọa đen tối trên Nước Pháp
Trang của những điều “dự kiến” vào tháng Hai năm 1870 mà
xem ra là trang có tính cách không thể nào tin nổi nhất chính là
trang nói về nước Pháp. Vào thời đó, Napoleon III còn là ông

53 Pages 521-530

▲back to top

53.1 Page 521

▲back to top
vua quyền lực nhất của Châu Âu. Cuộc chiến thảm bại chống
lại nước Phổ (nó xẩy ra vào ngày 19-7-1870) và cuộc thảm sát
ở Công Xã Paris (trong thời gian từ tháng Ba đến tháng Năm)
là chuyện không thể nào nghĩ tới được. Sau đây là các lời Don
Bosco viết:
“Các luật pháp của nước Pháp không còn biết đến Đấng Tạo
Thành nữa, và Đấng Tạo Thành sẽ tỏ cho nó biết và viếng thăm
nó ba lần với cây gậy của cơn lôi đình của Ngài.
Ngài sẽ đánh hạ sự kiêu ngạo của nó bằng những lần bại trận,
cướp đoạt và phá hủy các mùa gặt, xúc vật và con người của
nó. Các kẻ thù của nó sẽ đưa nó đến cảnh khổ ải, đói và sợ hãi
cùng cách đáng ghê tởm đối với các nước. Nhưng khốn cho
ngươi nếu ngươi đã không nhìn nhận bàn tay của Đấng đánh
ngươi... Người sẽ rơi vào tay những kẻ xa lạ và những kẻ thù
ngươi sẽ thấy từ xa các dinh thự ngươi giữa những ngọn lửa.
Các nơi ở của ngươi sẽ trở thành một đống hoang tàn đẫm
trong máu của các anh hùng của ngươi đã biến mất”.
Trong những ngày sau, Don Bosco đã gặp gỡ nhiều vị Giám
mục và sử dụng uy tín mà ngài có để khích lệ các ngài tiến
hành mau chóng tín điều bất khả ngộ. Có vẻ như sự can thiệp
mang tính cách mạnh mẽ nhất của ngài là ở nơi Đức cha
Gastaldi, khi ấy là Giám mục Saluzzo và là một người bạn lớn
của ngài.
Don Lemoyne quả quyết rằng Đức Piô IX thật hài lòng với
nhiệt tình của Don Bosco nên một ngày kia đã nói với ngài:
- Con không thể từ giã Torino để đến ở lại tại Roma chăng?
Liệu Tu Hội của con có vì thế mà bị thiệt hại không?
- Thưa Đức Thánh Cha, đó sẽ là sự tiêu tan của Tu Hội! (Đời
Sống Thánh Gioan Bosco, Cuốn II, tr. 44).
Don Bosco rời Roma ngày 22 tháng Hai.

53.2 Page 522

▲back to top
Ngày 24 tháng Tư, Công đồng phê chuẩn tài liệu Dei Filius
(Con Thiên Chúa) với sự nhất trí hoàn toàn. Đây là một tài liệu
trình bày cô đọng và rõ ràng giáo thuyết Công giáo về Thiên
Chúa, Mặc Khải và đức Tin. Nó nhấn mạnh cách riêng tới ý
tưởng là khoa học và đức tin một khi được hiểu cách đúng đắn,
thì không thể đối nghịch lại nhau, bởi vì cả hai đều đến từ
Thiên Chúa.
Liệu Đức Thánh Cha có thể bất khả ngộ?
Vào ngày 15 tháng Năm, tại phòng họp khoáng đại của Công
đồng bắt đầu cuộc thảo luận về sự bất khả ngộ của Đức Thánh
Cha. Cuộc thảo luận chung tiếp tục cho đến ngày 4 tháng Sáu.
Đức Hồng Y Bonnechose ngày hôm đó đã viết trong cuốn sổ
tay hoạt động của ngài rằng: “Người ta nói chúng tôi hành trình
một cách khó khăn trên một con tàu bị sóng đánh trong đó mọi
người đều bị say sóng”.
Có hai trào lưu phân rẽ giữa các Nghị Phụ khi phải đối diện với
những cuộc thảo luận cam go ở bên trong cũng như bên ngoài
Công đồng. Phần đa số ủng hộ sự bất khả ngộ. Thiểu số (gồm
khoảng 60 Giám mục Đức, Pháp, Ý và Mỹ) coi việc định tín
cho nó là một cản trở nghiêm trọng cho việc xích lại gần với
các Giáo Hội Thệ phản. Đức Piô IX nhiều lần cho thấy sức
nặng của quyền bính của ngài ủng hộ cho việc định tín này.
Ngày 18 tháng Bảy Công đồng phê chuẩn bản văn liên quan
đến sự bất khả ngộ. Một nhân chứng kể lại rằng: “Đây là một
ngày mưa rơi nặng hạt trên Roma và liên tục có những đợt bão
rất khốc liệt. Trong khi Đức Cha Valenziani đọc bản văn, các
cửa sổ bị lay mạnh bởi sấm sét và khi các ánh chớp ngừng lóe
sáng, thì một sự tối tăm nặng nề ập xuống.
Quyết định của Công đồng có chữ ký của Đức Thánh Cha, định
nghĩa chân lý sau đây là tín điều[12]:

53.3 Page 523

▲back to top
“Đức Giáo Hoàng Roma tuyên bố ex cathedra (từ ngai tòa
chính thức của ngài), trong sức mạnh của quyền tông đồ tối cao
của ngài, thì ngài hoàn thành nhiệm vụ vị cha hướng dẫn và
tiến sĩ của tất cả các Kitô hữu. Khi trong những điều kiện đó,
ngài định tín một giáo thuyết liên quan đến đức tin hay phong
hóa, để nó được tiếp nhận như là một tín điều bởi Hội Thánh
toàn cầu, thì ngài hưởng sự bất khả ngộ. Do sự kiện này, các
định tín (khá là hy hữu) của Đức Giáo Hoàng đều không thể
thay đổi được, không phải vì Hội Thánh coi chúng là như vậy,
mà vì chính chúng là như vậy”.
Công việc dành cho tín điều bất khả ngộ đã hoàn tất, Công
đồng quyết định tạm nghỉ trong 4 tuần. Khi nhóm họp trở lại,
Công đồng quyết nghị về các Đức Giám Mục. Nhưng các biến
cố nghiêm trọng đã dồn dập nối tiếp nhau tại Châu Âu.
Lính thiện xạ Ý ở Cổng Porta Pia của thành Roma
Ngày 19-7-1870, Napoleon III tuyên bố chiến tranh đối với
Nước Phổ. Đây quả là một cuộc thảm họa. Những cuộc chiến
bại của quân Pháp dồn dập nối tiếp nhau cho tới trận chiến tại
Sedan (mùng 2 tháng Chín) tại đó Napoleon bị bắt làm tù nhân.
Nước Pháp đã không đầu hàng. Pháp công bố mình là Nước
Cộng Hòa và dời chính phủ về Tours, nhưng sau cùng nó vẫn
phải nhượng bộ. Hòa ước được ký một cách nhục nhã tại
Francfort vào tháng Năm 1871, sau khi Paris cố gắng chuyển
biến mình thành một Nước Cộng Hòa Công Xã, nhưng rồi nó
đã bị đè bẹp bởi chính quân đội Nước Pháp (14,000).
Khi Napoleon bại trận tại Sedan, chính phủ Ý cảm thấy được
rảnh tay để đương đầu với Roma. Họ đã chiếm được Venezia
thông qua “một cuộc chiến tranh bất hạnh vì độc lập lần thứ
ba” (1866). Giờ đây 60,000 quân dưới quyền của tướng
Raffaele Cardona đã nhận lệnh đóng quân trên biên giới
Latium để chuẩn bị chinh phục Roma. Quân đội của Đức Giáo

53.4 Page 524

▲back to top
Hoàng có 14,000 người. Trong những trường hợp này, nhiều
người khuyên Đức Thánh Cha Piô IX rời khỏi Roma. Một
chiếc tàu Anh sẵn sàng đưa ngài qua đảo Malta. Những người
khác thì đề nghị ngài sang Tây Ban Nha, hay Châu Mỹ. Đức
Thánh Cha thì coi như ngài đã sai lầm khi trốn sang Gaita vào
năm 1848, đã quyết ở lại tại chỗ. Ngài quả thực đã cho hỏi ý
kiến của các người thân tín. Don Bosco được Đức Thánh Cha
rất tin tưởng ở sự chín chắn trong nhận định, khi được hỏi, đã
trả lời cho ngài: “Chớ gì người lính canh, Thiên thần của Ít-ra-
en, hãy ở lại tại vị trí của ngài và canh gác đá tảng của Thiên
Chúa và hòm bia thánh”. Lá thư trả lời đó đã được bàn tay viết
chữ đẹp của Don Cagliero ghi chép lại, được gửi khẩn cấp cho
Đức Thánh Cha.
Thủ phủ Civitavecáchia của Roma (bên cạnh bờ biển Tyrrene,
nằm cách xa Roma 75 cây số theo hướng Tây Bắc) đã bị bao
vây phía đất liền và khép kín lại bởi hạm đội ngoài khơi, nên
đã đầu hàng tướng Nino Bixio vào đêm 14, 15 tháng chín.
Cùng lúc đó quân đội của tướng Cardona đã vào vùng Latium
và bao vây Roma. Vào lúc 5g30, ngày 20-9, một cánh quân
pháo binh của sư đoàn Anoletti nổ súng vào cổng Thánh
Gioan. Đó chỉ là nghi binh. Mục tiêu đích thật là cổng Porta
Pia. Đội quân thiện xạ Ý mở đường thâm nhập vào công viên
của thành phố Patrizi và giải tỏa toán quân có súng đang cản
đường bước tiến của pháo binh. Khi tới con đường
Momentana, các tay điều khiển pháo binh mở cuộc oanh kích
vào Cổng Porta Pia. Trước 9 giờ sáng, một lỗ hổng 30 mét đã
mở vào trong tường thành. Các đơn vị thiện xạ thứ 12 và
34 vượt qua bức tường.
Hai hay ba phút trước 10 giờ, trên bàn giấy của Đức Thánh
Cha, có tin tới báo tường thành đã bị sập đổ. Do dấu hiệu đã
được hiểu ngầm trước đó, Đức Thánh Cha ra lệnh lá cờ trắng

53.5 Page 525

▲back to top
được kéo lên trên pháo đài Thánh Thiên Thần và ngài ra lệnh
cho tướng Ksanzler đầu hàng.
Bản đối chiếu tử vong của đôi bên cho biết con số tử vong
không cao lắm, nhưng vẫn luôn luôn là điều rất đau lòng: 56
người tử trận, 141 lính bị thương về phía nước Ý; còn bên phía
tòa thánh thì có 20 người tử trận và 49 người bị thương.
Lên tiếng chống lại những người thực hiện cuộc xâm chiếm
Roma "dù cho họ là những người nắm giữ các chức vị cao
nhất", Đức Thánh Cha ra vạ tuyệt thông cấp độ cao.
Don Lemoyne viết: Don Bosco “ nhận được tin Roma bị chiếm
đóng khi ngài ở tại Lanzo, và trước sự ngạc nhiên của những
người hiện diện, ngài tiếp nhận tin này một cách bình thản, như
là ngài nghe được điều mà ngài đã biết từ một thời gian trước
rồi”.
Đức Thánh Cha thông báo cho các Nghị Phụ Công đồng còn
đang ở lại Roma rằng: Trong hoàn cảnh của các sự việc tang
thương này, vì nhận thấy rằng các nghị phụ Công đồng không
thể có đủ sự tự do cần thiết, cũng như sự yên ổn và bình an để
bàn về những chuyện của Hội Thánh... chúng tôi ngưng lại việc
cử hành Công đồng chung Vaticano”.
Cơn rùng mình của sự chết tại Varazze
Việc chiếm đóng Roma, sự kết thúc Nước của Đức Giáo
Hoàng có một tiếng vang cực kỳ to lớn, chúng ta không thể nào
tưởng tượng ra được. Đó là sự kết thúc của một thời đại kéo dài
1,500 năm. Nhiều người đã nghĩ đó là sự kết thúc của Giáo
Hội.
Một năm sau đó, Tu Hội trẻ trung và mỏng manh Salêdiêng
cảm thấy tới lượt mình lại phải cảm nhận một thời điểm của
một sự rùng mình của sự chết. Ngày 6-12-1871, trong khi ở
Varazze (trên vùng Riviera nước Ý, khoảng 40 cây số về phía

53.6 Page 526

▲back to top
đông của Genova), Don Bosco ngã xuống đất và ngất xỉu.
Những nhân chứng e ngại rằng đó là một cuộc đột quỵ các
mạch máu não. Người ta đã xốc Don Bosco dậy và đưa ngài
vào trong nhà Salêdiêng. Tại đó phải đặt ngài trên một cái
giường giống như một đứa trẻ con.
Bệnh này sau vài ngày còn trong nỗi lo lắng, hoài nghi, thì nay
lộ ra hết sức nguy kịch. Từng đợt một, thân thể của Ngài phủ
đầy những mụn bong bóng đỏ trên da, vừa nhỏ, vừa
cứng. Những nỗi đau đớn không tưởng nổi và nhiệt độ lên cao
một cách đáng lo sợ. Người ta đã lo cho ngài của ăn đàng, trên
hành trình gần tới mồ.
Tại Torino, thật là cả một sự kinh ngạc. Nếu Don Bosco chết,
thì điều gì trong công cuộc của ngài còn có thể cứu vãn được?
Don Rua, cánh tay mặt của ngài mới có 34 tuổi. Nhiều
Salêdiêng dâng hiến cuộc sống mình cho Don Bosco. Và hình
như Don Bosco đã nói: “Cha phải chết tại Varqzze. Những
năm sẽ đến sau này là một hồng ân mà Thiên Chúa đã ban cho
một vài người nào đó trong số các con cái của cha”.
Cơn bệnh kéo dài hai tháng. Vào lúc ban đầu, những tin tức
thật làm hoảng sợ, nhưng để tránh gây rối loạn cuộc sống tại
Nguyện xá, người ta chỉ chuyển tin bằng điện tín, qua những
chữ dùng khá chung chung.
Nhưng chi tiết này đã thực sự trở thành dịp để biểu lộ những
dấu chứng của tình yêu bao bọc lấy Don Bosco.
Giữa Varazze (là nơi Pietro Enria, một em mồ côi vào thời nạn
dịch năm 1854, đã đi xuống vùng Varazze để coi sóc Don
Bosco) và Giuseppe Buzzetti (người đang run sợ tại Torino vì
anh không có những tin tức chi tiết về sức khỏe của Don
Bosco) bắt đầu thể hiện một loại “thư kín đáo”. Những lá thư
giữa hai em “cựu học sinh” của Don Bosco không văn hoa,

53.7 Page 527

▲back to top
nhưng đầy những chỗ đồng cảm, chứa đựng một tình cảm yêu
thương tha thiết, tuyệt đối chân thành, độc đáo.
Những lá thư đầy tràn tình yêu thương dịu dàng
Chúng ta ghi lại ở đây một ít đoạn văn:
Ngày 23-12-1871, Enria viết cho Buzzetti:
“Với một nỗi buồn mênh mang, tôi buộc phải báo cho bạn
những tin không tốt lắm về người cha khốn khổ của chúng ta.
Hôm nay cơn sốt không rời ngài một giây phút nào. Trong suốt
cả ngày, ngài luôn ướt sũng do toát mồ hôi. Ngài thường khiến
tôi lo sợ bởi vì ngài rên rỉ rất nhiều trong khi ngủ. Tôi chạy lại
giường của ngài, nhưng ngài nói với tôi: không sao cả.
Ôi! Buzzetti thân mến, tôi đau khổ quá đến nỗi không đủ sức
viết thơ cho bạn. Xin các bạn nói cho người ta cầu nguyện, và
phải cầu nguyện với hết cả tấm lòng cơ, và Chúa Giêsu hài
đồng sẽ thương đến chúng ta. Bây giờ đã hai giờ sáng, ta có thể
nói là ngài đã thiếp đi một chút. Chúc các bạn một ngày lễ vui
tươi. Tôi sẽ qua ngày lễ này ở bên giường cha của tôi và cha
của các bạn”.
Buzzetti đã trả lời thư:
“Tôi chưa đọc xong lá thứ của bạn viết ngày 23 vì buồn quá, vì
hoàn cảnh éo le, và vì tôi không cầm nổi nước mắt trong khi
biết được rằng Don Bosco thân yêu của chúng ta đau đớn ngày
một nhiều.
Tôi đã cầu nguyện và xin mọi người cùng cầu nguyện; tôi cũng
xin Chúa Hài Đồng Giêsu để tôi được chịu đựng tất cả những
đau đớn mà Don Bosco đang phải chịu đựng kể cả cái chết nếu
đó là điều tôi phải chịu, để Don Bosco được mau chóng bình
phục và còn được sống nhiều năm nữa.

53.8 Page 528

▲back to top
Bạn hãy tiếp tục viết thư cho tôi nhé, đừng sợ làm tôi khó chịu,
ngược lại bạn sẽ làm tôi khó chịu nếu bạn để trôi qua một ngày
mà không viết thư thông báo tin tức cho tôi về sức khỏe của
người cha thân yêu của chúng ta. Bạn hãy ôm hôn bàn tay
thánh thiện của cha thay cho tôi và xin cha chúc lành cho tôi”.
“Buzzetti thân mến, ngày 3-1-1872, sức khỏe của cha mến yêu
của chúng ta đã khá hơn, nhưng chầm chậm thôi. Những mụn
nhỏ vẫn tiếp tục thay nhau nổi lên khiến cho ngài phải khó chịu
đôi chút và làm cho ngài lên cơn sốt nhẹ”.
Buzzetti trả lời: “Bạn Pietro thân mến, chúng tôi đang đợi các
tin tức. Hôm qua, tôi đã kết thúc tuần chín ngày. Bởi đó nếu
Đức Mẹ Maria Phù Hộ thấy chúng tôi có đáng được hưởng nhờ
tình yêu của Mẹ, thì xin Mẹ cho Don Bosco của chúng ta được
khỏe mạnh trở lại; bằng không, chúng tôi tiếp tục làm phiền
Mẹ trong suốt bao lâu chúng ta thấy cần.
Bạn phải biết rằng trời lạnh như qủi, và mọi ngày chúng ta thấy
có nhiều thùng nước bị vỡ ra vì nước đóng băng giá, kể cả các
thùng nước trên gác xếp của bạn”.
Khi Don Bosco bắt đầu thực sự khỏe lên, Enria gửi một bức
điện tín cho Buzzetti: “Lễ hôm qua, Cha đã dậy được. Việc bạn
thăm cha làm cha vui. Hôm nay tốt hơn nhiều”. Những lời:
“Cha đã dậy được” lập tức lan rộng ra khắp Nguyện Xá, khiến
mọi người thật sung sướng.
Nhờ sức khỏe ngày một hồi phục, nên Enria trong hai hay ba
ngày không gửi đi các tin tức và Buzzetti viết cho anh:
“Bạn Pietro thân mến, bạn còn sống chứ? Nếu bạn còn, như tôi
hy vọng, thì tại sao bạn không giữ lời hứa của bạn là không để
qua đi một ngày mà không viết thơ cho tôi hay về Don Bosco
yêu quí? Vậy, bạn đừng đánh lừa tôi nghe”.

53.9 Page 529

▲back to top
Enria lập tức trả lời: “Sức khỏe của Don Bosco mỗi ngày một
khá hơn. Nhiều lần cha đã thốt lên: “Ôi! Những ngày chúng ta
gặp gỡ nhau tại Nguyện Xá!...” Và ngài bối rối và suy nghĩ
mông lung về chuyện phải làm khi trở lại căn nhà được chúc
phúc của chúng ta”.
Ngày 15 tháng 2, Don Bosco đã có thể trở lại Torino. Ngài qua
cửa chính mà vào Thánh Đường Đức Mẹ Phù Hộ. Trong nhà
thờ, các học sinh và nhiều bạn hữu của Valdocco chờ ngài.
Vừa khi ngài tiến vào cung thánh ở trước bàn thờ, thì Buzzetti
xướng lên các thánh vịnh Laudate, pueri, dominum “Hỡi các
bạn trẻ, hãy hát mừng Chúa”. Quì gối trước Nhà Tạm và trước
Đức Mẹ Phù Hộ, Don Bosco cầu nguyện lâu giờ. Rồi ngài cám
ơn các học sinh và mời gọi các em cám ơn Đức Mẹ.
“Enria đã quì gối trong khu ca đoàn, như lời cha Amadei nhắc
nhở lại; Buzzetti cầm tay anh ta và đi theo anh ta ra ngoài”. Họ
ôm nhau mà khóc.
Đại bác Ý nổ pháo và bính lính Ý tiến vào Roma qua cổng
Porta Pia chấm dứt Nước Đức Gíao Hoàng vào năm 1866!

53.10 Page 530

▲back to top
Chương 43
CÁC CỘNG TÁC VIÊN: TỨC
CÁC SALÊDIÊNG GIỮA TRẦN THẾ
Trong những năm 1870 kế hoạch của Don Bosco về các cộng
tác viên biến thành cụ thể. Giống như các ý tưởng của Don
Bosco, điều này không phải thình lình mà đến: tất cả các căn rễ
của nó đã có từ lâu rồi. Chính ngài đã viết:
“Khi mới bắt đầu công cuộc các Nguyện Xá vào năm 1841,
nhiều vị linh mục đạo đức và tận tụy cùng các giáo dân đã đến
giúp đỡ, vun trồng cho vụ mùa thu hoạch đã rộ lên rất phong
phú trong các lãnh vực giới trẻ đang gặp nguy hiểm. Các cộng
sự viên hay các cộng tác viên trong mọi cơ hội đều là sự nâng
đỡ cho các công cuộc mà Chúa Quan Phòng phó thác cho
chúng ta”.
Chào biệt cha Borel
Don Bosco nhắc nhở trước hết đến các linh mục. Chúng ta đã
gặp các linh mục này trong dòng các biến cố của cuộc sống
ngài. Trước hết tại Nguyện Xá lưu động, rồi tại Valdocco. Có
những sự tương phản đối lại với các ý kiến “điên rồ” của ngài,
rồi “thái độ chính trị” của ngài. Nhưng tình yêu cụ thể cho giới
trẻ làm cho ngài vượt thắng các trở ngại và các rào cản. Pietro
Merla, Luigi nasi, Leonardo, Murialdo, Inhazio và Giuse Vola,
Giacinto, Carpano và cách riêng cha Cafasso, và “cha bé nhỏ”
Don Borel luôn luôn gắn bó với công cuộc của Don Bosco, như
là những cộng tác viên trung thành và hy sinh của Don Bosco.
“Người cha bé nhỏ” Borel nhắm mắt trên trái đất này vào ngày
9-9-1873. Don Bosco khóc bên cạnh ngài vào giờ phút ngài
dần tắt lịm sự sống. Don Bosco nói: “Ngài xem ra như là một
“vị linh mục nhỏ bé không đáng kể là gì cả, nhưng ngược lại

54 Pages 531-540

▲back to top

54.1 Page 531

▲back to top
người thợ của Thiên Chúa này đã làm tất cả sự thiện to lớn mà
dù cho đến 10 linh mục khác cũng không thể nào làm được”.
Vào lúc qua đời, ngài không để lại thậm chí số tiền cần thiết
cho việc an táng của ngài. Nhưng Don Bosco biết rõ đã bao lần
ngài đã dốc trọn túi tiền của ngài vào tay Don Bosco, mà không
cần biết đó là những đồng xu nhỏ hay những đồng tiền
Napoleon bằng vàng. Các giám đốc Salêdiêng được Don Bosco
gọi về tham dự đám tang ngài, mang quan tài ngài trên vai.
Các thầy tư giáo, các thanh thiếu niên, ban kèn động của
Nguyện xá đi theo ngài tới nghĩa trang. Đó là những linh mục,
những thầy tư giáo, những thanh thiếu niên mà Don Bosco đã
nói về họ với cha Borel vào năm 1844 rằng: “Nhưng tuy vậy
chắc chắn có những người đó, vì chính mắt con trông thấy họ”.
Những người nam nữ thiện chí
Bên cạnh các linh mục, còn có các giáo dân. Một số thuộc về
các gia đình quí tộc: Bá tước Cays (người sẽ trở thành
Salêdiêng và linh mục ở tuổi cao), bá tước Fassati de
Montemagno, hầu tước Callori di Vignale, hầu tước Scaranmpi
di Pruney. Những người khác là những người thợ thuyền hay
buôn bán. Don Bosco thường nhắc nhở đến một người buôn
bán tạp hóa tên là ông Giuse Gagliresrdi với tất cả lòng tri ân
lớn lao, vì ông đã cống hiến thời giờ và cả tiền bạc dành
dụm cho Nguyện Xá.
Sự hợp tác của các giáo dân này mang tính chất khác nhau.
Don Bosco xin họ trước hết hãy sẵn sàng để "dạy giáo lý” vào
các ngày Chúa Nhật và các ngày trong tuần trong thời gian
mùa chay. Một số còn giúp ngài trong các lớp buổi tối và hộ
trực các thanh thiếu niên. Những người khác thì đi tìm việc làm
cho các bạn trẻ cách riêng cho những em ra khỏi nhà tù.
Không chỉ có các cánh đàn ông thôi. Chúng ta đã nhắc nhở đến
“những bà mẹ” làm việc tại Nguyện Xá: mẹ Margarita, Mẹ của

54.2 Page 532

▲back to top
Don Rua, Mẹ của Michel Magone, em của Mẹ Margarita, mẹ
của linh mục kinh sĩ Gastaldi.
Người mẹ kể chót này đích thân lo việc giặt giũ quần áo của
các trẻ em và phân phát cho chúng vào thứ bảy. “Đó là điều rất
cần thiết, như Don Bosco nói. Trong số các trẻ nghèo khổ, có
những em không bao giờ thay đổi những bộ quần áo bẩn thỉu
các em đang mặc, và chúng thật bẩn thỉu đến độ không ông chủ
nào muốn tiếp nhận chúng trong xưởng thợ của họ”.
Trong các ngày Chúa Nhật, bà Gastaldi tập họp các trẻ em lại,
và như là “một vị tướng trong một đạo quân”, bà đi duyệt lại
cách tỉ mỉ quần áo và sự sạch sẽ của mỗi đứa, kể cả giường
chiếu mà thường đã trở thành những tổ rận nhỏ và bốc mùi hôi.
Nhiều người không tham gia trực tiếp vào công việc này,
nhưng là bằng tiền nong. Một vị linh mục cho các trẻ con
nghèo nhất tất cả số tiền mà ngài nhận được từ những người
họ hàng giàu có. Một chủ nhà băng đều đặn cung cấp tiền hằng
tháng, như thể chính ông là “một em đã được Don Bosco cứu
về” Nguyện Xá. Một người thợ đều đặn đem đến tiền ông ta đã
dành dụm được.
Các người Salêdiêng ngoại trú: một ý tưởng bị gạt bỏ
Don Bosco càng ngày càng tin rằng cần thiết phải tập họp lại
các cộng sự viên của ngài thành một hiệp hội.
Ngài thực hiện một thí nghiệm vào năm 1850, khi qui tụ bảy
người ngài tín nhiệm “gồm toàn các người giáo dân Công
giáo”. Nhưng không thành công.
Năm 1864, ngài có một thí nghiệm mới. Trong khi trình diện
Hiến luật của ngài tại Roma, ngài đưa vào một “

54.3 Page 533

▲back to top
Chương” khiến cho nhiều Đức Ông và Đức Cha nhíu mày.
Trong

54.4 Page 534

▲back to top
Chương đó ngài nói đến các “Salêdiêng ngoại trú”. Bất cứ ai,
dù cho là họ sống tại gia đình, đều có thể trở thành các người
Salêdiêng. Không phải tuyên các lời khấn dòng, nhưng chỉ cần
cộng tác vào công việc của Các Salêdiêng để phục vụ cho
thanh thiếu niên nghèo khổ. Ở khoản 5, ngài đã tiên liệu thẳng
thắn rằng tất cả các Salêdiêng ra khỏi Tu Hội “vì lý do chính
đáng”, sẽ trở thành “hội viên ngoại trú” của Tu Hội.

54.5 Page 535

▲back to top
Chương này bị gạt bỏ khi Roma duyệt xét. Với một sự bướng
bỉnh của người xứ Piemonte, Don Bosco tái trình bày lại khoản
luật này, trước hết có sự mô phỏng, rồi sau đó đặt nó vào phần
phụ lục nhưng vô phương. Để được sự chấp thuận cho Luật
Dòng (sẽ được phê chuẩn vào năm 1874), ngài buộc phải cam
chịu rút nó lại.
Kế hoạch "Các Salêdiêng ngoại trú” đã bị đẩy lùi, Don Bosco
lập tức làm việc để thực hiện một cái gì tương tự như vậy. Năm
1874, ngài phác họa những đường nét lớn của Hiệp Hội Thánh
Phanxicô Salê. Các Giám đốc mà ngài tham khảo biểu lộ rất ít
sự phấn khích. Hiệp Hội này có khác chi các hiệp hội đạo đức
khác. Don Bosco lắc đầu:
- Các con chưa hiểu được. Nhưng các con sẽ thấy hiệp hội này
sẽ là sự nâng đỡ cho Tu Hội chúng ta. Các con hãy bắt đầu suy
nghĩ về nó đi.
Don Bosco trao ba mục tiêu chính cho Hiệp Hội này:
- Thứ nhất là làm sự tốt lành cho chính bản thân mình, trong
khi thực hành đức bác ái đối với đồng loại, cách riêng đối với
các trẻ em nghèo và bị bỏ rơi.
- Thứ hai tham gia vào các công cuộc đạo đức và tôn giáo mà
Các Salêdiêng theo đuổi.
- Tiếp nhận các trẻ em nghèo, dạy dỗ chúng trong nhà riêng
của mình, bảo vệ chúng chống lại các mối hiểm nguy.
Các Cộng Tác Viên Salêdiêng
Trong năm 1876, ngài tìm được công thức vĩnh viễn. Ngài gọi
đó là hiệp hội đạo đức các cộng sự viên của ngài, tức là “Các
Cộng Tác Viên Salêdiêng”. Ngài viết và in ấn ngay lập tức luật
cho họ và gửi tới Đức Thánh Cha để được chấp thuận. Ngài trở

54.6 Page 536

▲back to top
về với một “chiếu thư” (lá thư mục vụ) của Đức Piô IX viết
ngày 9-5-1876.
Các mục tiêu vẫn đồng nhất với danh sách các mục tiêu đã nêu
lên hai năm trước: Làm sự thiện cho chính mình qua đời sống
Kitô hữu dấn thân, giúp đỡ Các Salêdiêng trong các công cuộc
của họ, giải cứu những mối nguy hiểm đang đe dọa thanh thiếu
niên.
Những phương tiện đều y như các phương tiện của người
Salêdiêng: việc dạy giáo lý, các cuộc thao luyện thiêng liêng,
mối quan tâm đến các ơn gọi linh mục, việc phổ biến sách báo
tốt, kinh nguyện và của bố thí.
Hạn từ cuối cùng này đã tạo nên nhiều sự lập lờ nghĩa đôi. Có
một số người Salêdiêng giảm thiểu trên thực tế hoạt động của
các Cộng Tác Viên thành sự đóng góp tài chánh cho các công
cuộc của Các Salêdiêng. Don Bosco đã phản đối một cách
quyết liệt chống lại sự đánh giá thấp về người cộng tác viên
này.
Ngài nói tại Toulon vào năm 1882 rằng: “Cần phải hiểu mục
đích của Hiệp Hội Cộng Tác Viên này. Các Cộng Tác Viên
không chỉ thuần túy có nhiệm vụ thu thập các quà dâng cho các
công cuộc của chúng ta, mà còn phải nỗ lực dùng mọi phương
tiện để cộng tác vào phần rỗi của các anh chị em mình, cách
riêng của giới trẻ”.
Trong các cuộc hành trình của ngài tại Ý và ra ngoại quốc, Don
Bosco cam chịu rất nhiều sự gian khổ để làm tăng hiệu lực của
các Cộng Tác Viên của Ngài. Cha Wirth viết: “Genova và xứ
Liguria cung cấp cho ngài nhiều lực lượng Cộng Tác Viên. Tại
nước Pháp, Nice trở thành một trung tâm quan trọng có tính
chất đa sắc tộc của thành phố. Tại Marseille, các Cộng Tác
Viên rất sốt sắng khiến Don Bosco cảm thấy ở giữa họ một bầu
khí như gia đình”.

54.7 Page 537

▲back to top
Tại Tây Ban Nha, có một trong những dung mạo Cộng Tác
Viên độc đáo là bà Dorotea de Chopitea. Bà đã trở thành
“người mẹ của các công cuộc Salêdiêng”; và án vụ phong chân
phước cho bà đã được khởi sự.
Tờ “tập san Salêdiêng” cũng đã vươn tới các vùng Sotto il
Monte
Don Bosco đã muốn trao cho các cộng tác viên Salêdiêng một
dụng cụ được dùng để giúp giữ gìn họ hiệp nhất với nhau và
với trung tâm của các công cuộc Salêdiêng. Đó là tập san
Salêdiêng, một tờ báo ra hàng tháng. Số đầu tiên xuất hiện vào
tháng tám năm 1877.
Don Bosco quý chuộng tờ tập san này cách riêng đến độ ngài
đích thân chuẩn bị các số xuất bản đầu tiên. Khi ngài không thể
tiếp tục kham nổi công việc này nữa, ngài đã rút ra một vị
Giám đốc trong số các Giám đốc của ngài, để ủy thác cho vị ấy
tờ tạp san này: Đó là Don Gioan Bonetti (người cũng nằm
trong ban Thượng Cố Vấn). Khi người ta hỏi Don Bosco là gửi
tờ báo Salêdiêng này tới những ai, Don Bosco trả lời: “Gửi cho
những ai muốn nó và cả những người không muốn nó”.
Trong Tập san Salêdiêng có công bố cả các lá thư đầu tiên của
các nhà truyền giáo Salêdiêng, được cả giới trẻ lẫn người lớn
đọc một cách say mê.
Trong tập san này Lịch sử Nguyện Xá của Don Bosco viết lần
đầu tiên được xuất bản nhiều đợt và rất được chờ đợi, kích
thích tính hiếu kỳ lạ lùng của giới độc giả. Người ta cũng đọc
thường xuyên về những công cuộc Salêdiêng trên khắp thế
giới, những ơn lạ lùng nhất của Đức Maria Phù Hộ.
Tập san hiện đại ra hằng tháng này thâm nhập vào mọi nơi,
chiếm được lòng của nhiều bạn hữu về với Don Bosco và các
công cuộc của ngài. Đức Thánh Cha Gioan XXIII, sinh tại xứ

54.8 Page 538

▲back to top
Sotto il Monte nhắc nhở lại như sau: “Những năm đầu đời của
cha đã được làm cho rạng rỡ, vui tươi và che chở bởi hình ảnh
thân ái của Đức Mẹ Phù Hộ. Ồ! Một bức hình Mẹ rất đơn sơ
lấy từ trang bìa của tập san Salêdiêng mà bác của cha là
Zaverio đã nhận được và đọc cho bọn cha cũng như đã đọc cho
mọi người nghe với một nhiệt tình say sưa. Bức hình Đức Mẹ
được đặt ngay ở đầu giường cha. Biết bao nhiêu kinh nguyện
đầy tín thác được dâng lên trước bức ảnh này! Và Đức Maria
Phù Hộ đã luôn trợ giúp cha”.
Năm 1888, trong khi nói chuyện với cha Lemoyne, Don Bosco
tỏ lộ cho ngài một ý tưởng dần dà thành hình và trở thành càng
ngày càng rõ ràng cho ngài: “Đó là mục đích của các cộng tác
viên không phải là giúp đỡ Các Salêdiêng, nhưng là để phục vụ
Hội Thánh, các Đức Giám mục, các cha xứ, dưới sự hướng dẫn
của Các Salêdiêng”.
“Cha Morand Writh viết: “Khi Don Bosco chết vào năm 1888,
thì một chuyện trở nên hiển nhiên: Lực lượng Tông đồ của Tu
Hội Salêdiêng nhỏ bé đã được nhân lên gấp mười nhờ sự trợ
giúp huynh đệ của các Cộng Tác Viên. Rất nhiều người trong
số họ đã xứng đáng được coi trên thực tế, nếu không phải là
trên pháp lý, như những người Salêdiêng đích thực trong thế
giới”.
Lãnh vực Cộng tác viên và Gia đình Salêdiêng

54.9 Page 539

▲back to top
Chương 44
FRANCESCO, EUSEBIO, FILIPPO,
MICHELE VÀ NHIỀU BẠN HỮU KHÁC
Năm 1870, Don Bosco trọn năm mươi tuổi. Cuộc sống của
ngài nóng nẩy và sinh động như một dòng thác đổ từ núi trong
những thập niên đầu tiên, nay mở rộng ra tựa dòng sông lộng
lẫy. Mười tám năm của cuộc sống ngài được ghi lại tỉ mỉ trong
100kg các tài liệu và chứng từ, rồi được thu gọn lại trong 9
cuốn Hồi Sử Về Một Cuộc Sống (memorie biografiche), mà hai
trong số đó vượt quá 1000 trang.
Hiển nhiên là mỗi một cuốn tiểu sử về Don Bosco luôn phải áp
dụng cho nó hạn từ “cắt gọn lại”. Các sự kiện, các cuộc gặp gỡ,
các bài nói chuyện cho các trẻ em, các giấc mơ đầy cảm kích
và rất đầy tình người; chúng ta rất tiếc là phải để qua một bên
hằng chục và hằng chục chuyện trong số chúng. Và mặc dù
vậy, con số các trang chúng ta hiện tham khảo được như đã
được thiết định, chúng ta vẫn còn buộc phải chấp nhận cắt bớt
đi một cách cương quyết.
Tuy nhiên trong

54.10 Page 540

▲back to top
Chương này, chúng ta lấy lại một chút các sự kiện đã bị bỏ đi.
Chúng tôi xin kể ra “theo vòng xoay tự do” một số những sự
việc, những cuộc gặp gỡ đầy sức đánh động của những năm
này trong khi xin lỗi nếu chúng tôi không thể liên kết chúng
thành một chuỗi “hoàn toàn logic”. Đàng khác cuộc sống
không luôn luôn sử dụng đến logic như là hành trình chính của
nó.
“Tôi đã ăn cắp hai ổ bánh mì tròn”
Vào tháng tám năm 1872. Tiếng chuông đổ và một nhóm đông
kinh khủng các trẻ con chạy như bay khỏi các lớp học và các
xưởng thợ trong khi la to lên “Bánh mì! Bánh mì!”.
Hai người làm bánh mì đã để ở cuối sân bốn chiếc thúng lớn
đan bằng cây liễu dầy ắp những bánh mì mới tinh và mùi thơm
ngon. Người ta la to: “Mỗi người một cái, không được lấy
thêm!”
Francesco Picácollo, một đứa trẻ 11 tuổi, mới đến đây từ xứ
Pecácetto Torinese, nhìn đám trẻ xếp hàng dài này và đợi đến
lượt mình. Nó đã ăn cháo vào ban trưa, nhưng sau nhiều giờ,
tính thèm ăn lại nổi dậy. Nó nghĩ rằng một ổ bánh mì thì chẳng
đủ cho cơn đói của nó. Cần tăng gấp đôi phần ăn, Nguyện Xá
thì nghèo, và bánh phải giới hạn theo khẩu phần năm đó
(1872).
Trong khi nó suy nghĩ tất cả chuyện đó, nó quan sát thấy rằng
một số các bạn nó, sau khi đã nốc xong một cái bánh, lại yên
ổn xếp lại vào hàng để lấy thêm chiếc bánh thứ hai, rồi thứ ba
mà không có ai nhận thấy.
- Thế là tôi – như lời Francesco kể lại sau này – cũng để cho
mình bị chiến thắng bởi tính thèm ăn: tôi ăn cắp hai ổ bánh rồi
trốn ra sau dẫy hành lang để ăn hau háu. Thế rồi cơn hối hận

55 Pages 541-550

▲back to top

55.1 Page 541

▲back to top
xâm chiếm lấy tôi. Tôi đã ăn cắp, nhưng làm sao ngày mai tôi
dám rước lễ đây? Tôi phải đi xưng tội!
Nhưng cha giải tội tôi là Don Bosco, và tôi sẽ làm ngài đau
lòng biết mấy khi hay biết rằng tôi đã ăn cắp. Làm thế nào đây?
Không phải vì xấu hổ, nhưng là vì không muốn làm Don Bosco
đau lòng, tôi trốn ra khỏi cửa nhà thờ và chạy thẳng tới đền thờ
Đức Mẹ An Ủi không cách xa đó mấy.
Tôi vào trong nhà thờ tương đối tối, tôi chọn tòa giải tội kín ẩn
hơn cả và tôi bắt đầu xưng tội:
“Con xưng tội ở đây bởi vì con xấu hổ không dám xưng tội với
Don Bosco!” (Tôi không buộc phải nói lên điều này, nhưng tôi
quá quen với sự thành thật khiến tôi thấy nói lên điều đó là
quan trọng). Một giọng nói trả lời tôi:
“Nói đi con, Don Bosco sẽ không bao giờ biết gì cả đâu”.
Đó chính là giọng Don Bosco! Khốn rồi! Tôi toát mồ hôi trán.
Nếu Don Bosco ở Nguyện Xá, sao cha lại có thể ở đây? Phải
chăng đó là phép lạ ư? Không, không phải phép lạ. Don Bosco
đã được mời tới giải tội ở nhà thờ Đức Mẹ An Ủi để giải tội
như thường lệ, và tôi rơi đúng vào tòa giải tội của Don Bosco.
“Nói đi, con người nhỏ tốt lành của tôi. Chuyện gì đã xẩy ra
với con?”
Tôi run lên như một chiếc lá.
“Con đã ăn cắp hai ổ bánh mì.
- Và hai bánh mì đó làm con đau ốm ư?
- Không.
- Vậy nó làm con bối rối ư? Con đói chứ?
- Vâng.

55.2 Page 542

▲back to top
- Đói bánh và khát nước, đó là cơn đói và cơn khát tốt lành; khi
con cần sự gì, con cứ xin Don Bosco. Ngài sẽ cho con tất cả
bánh mà con muốn. Nhưng con nhớ nhé: Don Bosco ao ước
con có lòng tin nơi cha, hơn là muốn con hoàn toàn vô tội. Nếu
con tin nơi cha, cha có thể giúp con, nhưng với cái vẻ bề ngoài
vô tội của con, con sẽ liều trượt và té, và chẳng có ai đưa tay ra
cho con. Sự giàu có của Don Bosco chính là sự tin tưởng của
các trẻ con của ngài; con đừng quên điều đó, Francesco ạ!
Năm sau tôi lên lớp 8 và một ngày trong bữa ăn, người ta nói
cho tôi hay là mẹ tôi đợi tôi ở phòng khách. Tôi ra gặp mẹ và
thấy mẹ khóc:
- Mẹ ơi, sao thế?
- Không có gì cả, Francesco nhỏ bé của mẹ, nhưng con biết
đấy, chúng ta nghèo và cha quản lý nói nếu chúng ta còn tiếp
tục không trả được tiền nội trú, thì ngài buộc phải cho con về
nhà.
Mẹ tôi đã khóc trước lời đe dọa này và tôi cũng khóc chia tay
mẹ, vì tôi phải vào lớp. Nhưng vào giữa giờ chơi sau trưa, tôi
lại thấy mẹ đợi tôi tại cổng, và lần này mẹ sung sướng mỉm
cười. Mẹ nói với tôi:
- Francesco ạ, con thấy mẹ bây giờ không còn khóc nữa. Mẹ đã
đi gặp Don Bosco và cha nói với mẹ: “Bà tốt lành, hãy nói với
con bà rằng nếu cha quản lý cho nó đi khỏi cửa nhà trường, thì
bảo nó đi lối nhà thờ và đến gặp tôi. Don Bosco sẽ không bao
giờ đuổi nó”.
Rồi mẹ tôi ôm tôi và về nhà. Tối hôm đó cha quản lý đã cho
gọi tôi và tôi sợ hãi, nên đã đi gặp Don Bosco trước đã. Tôi gõ
cửa phòng ngài:
- Ai đó?

55.3 Page 543

▲back to top
- Con đây, Picácollo Francesco.
- Con vào đi. Sao đấy, Francesco?
Rồi cha lấy một tờ giấy ra:
- Mẹ con nợ tiền nội trú mấy tháng?
Tôi nói số tháng cho cha và Don Bosco tế nhị viết cho tôi một
biên nhận cho cả năm và ký tên. Không ai nhận thấy được lòng
quảng đại của cha, ngay cả cha quản lý là người tôi đem đến
biên nhận này. Tôi thật kinh ngạc nhất là trước thái độ tế nhị
mà cha đã giúp tôi bằng cử chỉ thân ái này của cha.
Ba năm trôi qua. Tôi đã lên lớp 12. Một hôm chúng tôi là
những học sinh lớn nhất bao bọc lấy Don Bosco và đi lại cùng
ngài dọc hành lang có cột và mái vòm. Tôi muốn một mình nói
chuyện với ngài, nhưng tôi không dám xin ngài. Như mọi lần,
ngài đã nhận ra ngay được ý tôi, liền kéo tôi riêng ra rồi nói với
tôi:
- Cha nghĩ con có điều gì muốn nói với cha?
- Cha đã đoán ra. Nhưng con không muốn chúng bạn con nghe
được – Tôi rồi thì thầm vào tai ngài:
- Con muốn làm một qùa tặng cho cha. Con nghĩ cha sẽ hài
lòng.
- Con muốn cho cha món quà gì?
- Cha hãy nhận con vào số các Salêdiêng của cha!
Don Bosco mỉm cười:
- Con muốn cha sẽ làm gì với với típ người ngô ngộ như con? –
Thế rồi thình lình cha trở nên nghiêm nghị và nói với tôi:

55.4 Page 544

▲back to top
- Cám ơn, Francesco ạ! Con không có thể cho cha một món
qùa dễ thương hơn thế. Cha nhận con, không phải cho cha, mà
để hiến dâng con và tận hiến con hoàn toàn cho Chúa và cho
Mẹ Maria Phù Hộ.
Francesco Picácolo đã trở thành Salêdiêng và linh mục, làm
việc hơn 30 năm tại Sicilires trong vai trò giáo viên, Giám đốc,
rồi trách nhiệm các công cuộc Salêdiêng tại tỉnh dòng Sicilires.
Ngài sống cho tới năm 1930.
Eusebio Calvi di Palestro
Cũng trong năm 1872 đó, một học sinh ngoan khác tên là
Eusebio Calvi de palestro rất lo lắng vì cha mẹ cậu không thể
trả tiền ăn học nội trú. Don Bosco thấy cậu buồn nên mới hỏi:
- Con sao thế, Eusebio?
- À, thưa Don Bosco, cha mẹ con không có thể trả tiền ăn học
nội trú cho con nữa và con buộc phải thôi học.
- Nhưng con có là bạn của Don Bosco không?
- Ồ, có!
- Vậy thì chúng ta dàn xếp chuyện này dễ dàng thôi. Con hãy
viết cho cha con rằng ông đừng lo gì về quá khứ, còn trong
tương lai, thì ông cứ trả theo sức của ông.
- Cha con muốn biết con số chính xác, cha con muốn đem tất
cả những gì ông có thể được để lo trả.
- Cho tới hôm nay, thì tiền ăn học hằng tháng là bao nhiêu?
- 12 lires mỗi tháng.
- Con hãy viết cho cha con là chúng ta ấn định là 5 lires nhé.
Và ông cứ cố gắng trả theo mức ông có thể. Con hãy đến bàn
văn phòng để cha làm cho con một biên nhận cho cha quản lý.

55.5 Page 545

▲back to top
Eusebio Calvi cũng trở thành Salêdiêng và linh mục, làm việc
tại Calabre và tại Sicile và sống cho đến năm 1923. Có rất
nhiều, tính tới nhiều ngàn trẻ em, theo như cha Adamei viết, đã
nhận được những dấu bày tỏ tình thương như thế của Don
Bosco.
Don Bosco không mấy hạnh phúc vì sự từ chối
Khi Don Bosco tới Lu vào dịp các cuộc dã ngoại vào mùa thu
(như chúng ta đã kể ra ở

55.6 Page 546

▲back to top
Chương 37), trong sân nhà Rinaldi, ngài trìu mến vuốt ve em
bé Filippo lên 5 tuổi.
Khi em bé lên 9 tuổi, tên của Don Bosco lại sôi động lại trong
cuộc sống của nó. Tại xứ Mirabello, trong tầm bắn súng tính từ
xứ Lu, Don Bosco đã mở một “tiểu chủng viện”.
Đứa bé có vóc dáng lớn, lại rất dịu hiền, vai đeo gói đồ, ôm
hôn từ biệt mẹ, rồi lên xe của bố để tới trường mới. Nó có trái
tim hơi xe lại, giống như tất cả các đứa trẻ lần đầu tiên bỏ nhà
lên ở trường nội trú. Nhưng nó nghiêm trang và suy nghĩ kỹ
càng. Nó hiểu hy sinh này có thể mở cho cuộc sống nó những
chân trời mới thay vì những cánh đồng ruộng và nương nho
của cha nó.
Cậu có giáo viên dạy lớp là thầy Paolino Albera. Cậu viết:
“Đối với tôi, thầy Albera là một thiên thần bản mạnh. Chính
thầy có nhiệm vụ canh giữ tôi, và thầy đối xử với tôi theo đức
ái dịu dàng khiến tôi ngạc nhiên mỗi khi nghĩ lại”. Nhưng tiếc
là không chỉ có một mình thầy Albera. Có một thầy hộ trực
khác có những cách thức thô lỗ khiến các bạn trẻ cảm thấy bị
xúc phạm.
Don Bosco hai lần từ Torino đến thăm “tiểu chủng viện”, và
ngài nói chuyện lâu với Filippo. Họ đã trở nên đôi bạn.
Tuy vậy vào mùa xuân, xẩy ra một chuyện buồn. Filippo cảm
thấy mệt nhọc do việc học gây cấn trong mùa đông. Trong một
ngày cậu quá sức căng thẳng, thầy hộ trực đụng độ với cậu một
cách đặc biệt, với những lối xử sự thô lỗ. Filippo không mất sự
điểm tĩnh. Cậu đi thẳng tới cha Giám đốc, nói với ngài rằng
cậu muốn về nhà. Xem ra đó chỉ là một cách tức tối nhất thời,
nhưng không phải như vậy. Filippo đã quyết định như vậy, và
không ai có thể làm cậu thay đổi quyết định.

55.7 Page 547

▲back to top
Filippo đã nhận được một số thư từ Don Bosco trong những
năm kế tiếp. Trong mỗi lá thư, Don Bosco đều khuyên cậu nghĩ
lại, để quay về trường: “Những nhà của Don Bosco sẽ luôn
luôn mở rộng cho con”.
Rất ít khi Don Bosco lại nhấn mạnh nhiều như thế với một em
bé. Xem có vẻ như ngài thấy một cái gì nơi tương lai của đứa
bé. Nhưng đứa bé tuy vẫn là bạn thân của Don Bosco, lại
không cảm nhận được điều Don Bosco cảm nghĩ.
Năm 1874, Filippo được 18 tuổi, và Don Bosco tới gặp cậu tại
xứ Lu. Chính lúc ấy có một người đàn bà nghèo khổ đến. Bà ta
chống nạng bước đi và có một cánh tay đau yếu. Bà ta đến xin
Don Bosco chữa lành mình. Vị thánh đã ban cho bà phép lành
Đức Mẹ Phù Hộ Các Giáo Hữu, và bà ta, trước ánh mắt nhìn
của Filippo, đã ném nạng xuống mà bước đi được để trở về nhà
hoàn toàn khỏi bệnh. Cậu thanh niên trẻ này rất cảm động,
nhưng cậu đã trả lời “không” cho lần không biết thứ bao nhiêu
Don Bosco mời gọi theo ngài tới Torino. Tiếng thứ “không" đó
đã đè nặng lên cậu trong suốt cả cuộc đời: “Chớ gì Chúa và
Đức Mẹ làm cho tôi sẽ không bao giờ lạm dụng ơn huệ của
Chúa sau khi đã bao lần từ chối ân sủng của các ngài trong quá
khứ”, đó là lời cậu nói với tất cả lòng khiêm nhường.
Tiếng “không” này mà cậu đã đáp lại cho Don Bosco sẽ trở
thành tiếng thưa không đầu tiên trong một chuỗi những tiếng
thưa không khác. Cậu bắt đầu nói không cho việc cầu nguyện,
nói không cho mẹ cậu lên tiếng quở trách cậu nối kết những
mối tình bạn nguy hiểm, thưa không cho cha xứ mời gọi cậu đi
tới nhà thờ thường xuyên hơn. Có cả một “cơn khủng hoảng
tôn giáo” mà cậu sẽ vượt thắng nhờ lời cầu nguyện của mẹ cậu.
Khi Don Bosco quyết bước vào một cuộc chiến
Năm 1878, Filippo Rianaldi tròn 20 tuổi. Cha mẹ của một cô
gái tốt lành đến xin ba Cristoforo của Filippo đồng ý đám cưới

55.8 Page 548

▲back to top
giữa Filippo với con gái của ông ta. Nhưng từ Torino cũng có
Don Bosco đến, quyết thực hiện một cuộc chiến để mang
Filippo về với ngài.
Có một cuộc nói chuyện lâu dài và quyết định. Với một sự
ngoan cường của người nông dân, Filippo đưa ra tất cả một
chuỗi những khó khăn của cậu. Nhưng Don Bosco cũng là một
nông dân như cậu, và ngài tranh luận từng điểm một với cậu
một cách bình tĩnh. Ngài đã khám phá ra nơi chàng trai này
tấm vải làm nên một người Salêdiêng vĩ đại, và ngài không
muốn chàng ta trốn thoát. Filippo viết lại: “Ngài đã chiếm lấy
tôi dần dà, dần dà. Cha mẹ tôi để cho tôi tự do, và sự chọn lựa
của tôi hướng về phía Don Bosco”.
Tháng 11 năm 1877, Filippo Rinaldi tới Samperderena, nơi
Don Bosco đã mở một nhà cho “các ơn gọi muộn”. Với 21
tuổi, chàng nông dân xứ Lu tái mở cuốn văn phạm Ý và văn
phạm La-tinh ra. Những thời ban đầu thật là cam go. Trên vở
làm bài đầu tiên, bên cạnh cả một rừng chữ thập đỏ, xanh, còn
có cả số điểm thấp nhục nhã. Tuy nhiên với sự ngoan cường
qua đó trong bao nhiêu năm cậu đã cưỡng lại tiếng gọi của Don
Bosco, ngày này qua ngày khác Filippo gò bước trên con
đường gay cấn của học hành.
Cha giám đốc của nhà Sampierderena lại chính là thầy Paolo
Albera mà Filippo say mê tại Mirabello. Trong những thời
điểm trắc trở cậu tìm được niềm an ủi nơi ngài. “Một ngày kia
cậu nói với ngài là cậu sợ mình sẽ một lần trong những lần trốn
của mình, thì ngài trả lời rằng ngài sẽ tới để đem cậu trở lại”.
Ngày 13-8-1880, Filippo quì gối dưới chân Don Bosco, tuyên
các lời khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục. Cậu đã trở
thành người Salêdiêng. Cậu được 24 tuổi.
Trong mùa thu, cậu bắt đầu bước trèo cao tới chức linh mục.
Cậu tiếp nhận các chức nhỏ, rồi chức phụ phó tế, chức phó tế.

55.9 Page 549

▲back to top
Có một đặc điểm đầy sức thu hút sự hiếu kỳ: Filippo tiến lên
phía trước không phải bởi cậu muốn, mà là bởi Don Bosco đã
ra lệnh cho cậu phải làm. Cậu kể lại rằng: “Don Bosco nói với
tôi: trong ngày đó con sẽ thi cử..., con sẽ nhận chức này. Tôi
vâng lời từ lần này sang lần khác”. Không bao giờ Don Bosco
lại cư xử với một ai khác như đã cư xử với Filippo: Với họ,
Don Bosco chỉ khích lệ, mời mọc. Còn với Rinaldi thì Don
Bosco ra lệnh. Don Bosco chắc chắn đã đọc được rõ ràng
tương lai của chàng trai trẻ này.
Vào vọng Giáng Sinh 1882, Don Filippo Rianaldi cử hành
thánh lễ đầu tiên, Có Don Bosco hiện diện, rồi ôm hôn tân linh
mục, Don Bosco hỏi: “Giờ đây con bằng lòng chứ?”. Câu trả
lời khiến cho người ta phải buông thõng tay xuống: “Nếu cha
giữ con lại với cha, thì có. Nếu không, con cũng chẳng biết
mình sẽ làm gì”.
Nhưng ít ngày sau Don Coastamagna trở về Torino từ vùng
truyền giáo nam Mỹ và Don Filippo lần đầu tiên cảm thấy vô
cùng phấn khích, đã xin Don Bosco để đi truyền giáo. Nhưng
lần này, chính là tới lần Don Bosco nói “không” với Rinaldi:
- Con sẽ ở lại đây. Tới các khu truyền giáo, thì con sẽ sai
những người khác”.
- Đấng kế vị thứ nhất của Don Bosco để đứng đầu Tu Hội
chính là Don Rua; vị thứ hai chính là Don Albera; người thứ ba
chính là Don Filippo Rinaldi. Cha già Francesia nói về ngài:
ngài chỉ còn thiếu có giọng nói của Don Bosco thôi. Tất cả điều
còn lại thì Rinaldi giống hệt Don Bosco”.
Vị Kinh sĩ ngưng công việc để nghỉ ngơi
Năm 1872 Don Bosco thực hiện một chuyến viếng thăm ngắn
ngủi ở Genova. Cha Amadei kể lại:

55.10 Page 550

▲back to top
“Giữa những người khác, Don Bosco đã đến thăm kinh sĩ
Ampugnani đang sống tại Marassi và là người đã giúp ngài
mua trường trung học Alassio. Don Bosco hỏi vị kinh sĩ:
- Vậy bây giờ cha làm gì?
- Con hở? Không làm gì cả, chỉ nghỉ ngơi thôi.
- Sao, sao cha lại nghỉ ngơi? Cha đang khỏe, lại còn trẻ nữa.
- Con đã làm việc rất nhiều bên Mỹ, và bây giờ con nghỉ ngơi.
Don Bosco trở nên rất nghiêm nghị:
- Vậy cha không hay là sự nghỉ ngơi của một linh mục là ở
thiên đàng chăng? Còn chúng ta phải chịu trả lẽ rất ngặt trước
Thiên Chúa về quãng thời gian đã mất chăng?
Vị kinh sĩ bị đánh động bởi những lời như thế, mà không biết
chạy tới ai để giúp ngài thoát khỏi điều này. Một ngày sau đó,
ngài trở về nhà Salêdiêng, và nói với vị giám đốc của nhà đó để
cho ngài đánh đàn, dạy âm nhạc, giảng thuyết. Ngài thốt lên
rằng:
- Don Bosco đã nói với con những lời thật kinh khủng!
Don Bosco còn gặp cả Bề Trên Tổng quyền dòng Anh em hèn
mọn thánh Phanxicô - Phaolô, một con người hết sức uyên
bác, hiện đang làm cha xứ. Ngài chào vị linh mục cách cung
kính, sau đó Don Bosco mới nói:
- Chắc là cha rất bận rộn với các công việc của dòng cha!
- Thật sự ra có rất ít việc. Chúng tôi rất ít người, cha biết
không?
- Cha có bao nhiêu tập sinh?
- Chẳng có tập sinh nào cả.

56 Pages 551-560

▲back to top

56.1 Page 551

▲back to top
- Còn các học viên thì sao?
- Chẳng có ai.
- Sao vậy? – Nét mặt Don Bosco trở nên nghiêm trọng, lời lẽ
ngài run lên. Vậy cha không làm gì cả để ngăn chặn cho một
dòng tu đã có bao công lao lớn với Hội Thánh khỏi chết đi, vì
nó đã không còn đạt tới mục tiêu mà Đấng Sáng Lập ra nó đã
đặt ra và ngài vẫn còn có biết bao nhiêu lời tiên tri rất vinh
quang đang cần phải được thể hiện chăng?
- Nhưng chúng con không có các ơn gọi!
- Nhưng nếu cha không tìm ra ơn gọi tại nước Ý, cha hãy đi
sang Nước Pháp, hay Nước Tây Ba Nha, hãy sang châu Mỹ,
Châu đại dương. Cha có một trách nhiệm vô cùng quan trọng,
một sự tính sổ nghiêm chỉnh mà cha còn phải làm trước mặt
Thiên Chúa. Biết bao nhiêu lao nhọc, đau đớn thánh Phanxico
Phaolô đã phải chịu đựng khi thiết lập Tu Hội của ngài? Còn
cha, cha lại chấp nhận để mất đi biết bao nhiêu kinh nguyện,
biết bao nhiêu lao nhọc, biết bao nhiêu hy vọng đó sao?
Vị linh mục Tổng quyền tốt lành cảm thấy như mình bị dồn
đến chỗ không. Ngài hứa sẽ làm hết sức để tìm những ơn gọi
mới”.
Những người thợ xây trẻ của Nguyện Xá Chúa nhật
Ai nhìn vào cuộc sống của Don Bosco trong thời kỳ này đều có
thể có ấn tượng là Nguyện Xá Chúa Nhật mà ngài đã từng
sống trong những năm vinh quang của ngài, giờ đây đã mất hút
trong đàng chân trời. Nhưng thật sự không phải vậy. Dĩ nhiên
Don Bosco đã bận rộn tới 90% bởi nhà to lớn của các học sinh
cũng như của các anh em học nghề chứa đến 800 thanh thiếu
niên và bởi các công cuộc Salêdiêng khác đang nhân rộng
thêm. Nhưng ngài không quên Nguyện Xá “của ngài”. Những

56.2 Page 552

▲back to top
chứng từ không phải nhiều lắm, nhưng cũng đủ để nêu cao lãnh
vực Nguyện Xá này.
Enrico Angelo Bena kể lại rằng: “Tôi đến Nguyện Xá vào dịp
mùa chay năm 1871. Tôi đến từ vùng Magnano Biellese và tôi
phải vất vả làm nghề thợ xây. Vào ngày thứ nhất của tuần
thánh, theo như cha xứ của tôi đã căn dặn cho tôi và cho các
bạn khác, tôi tới Nguyện Xá của Don Bosco. Tôi rất thích. Mỗi
năm, khi trở lại Torino từ tháng ba đến tháng mười một, tôi tiếp
tục lui tới Nguyện Xá, bởi vì tôi không ghi danh vào quân đội.
Lối vào Nguyện Xá trong những năm đó ở phía bên trái đền
thờ Đức Mẹ Phù Hộ. Lối vào là một cổng thô làm bằng những
tấm ván. Có ba hay bốn linh mục tại Nguyện Xá. Don Bosco
thường đến vào ban sáng để cử hành Thánh lễ, và vào ban
chiều để dạy giáo lý. Năm thứ hai tôi đến Torino, tôi được chịu
lễ lần đầu tại Nguyện Xá. Tất cả mọi người đều được mặc áo
sạch sẽ. Ai không nhận được áo từ gia đình của mình, thì nhận
áo từ Don Bosco. Chính ngài cử hành thánh lễ trong nhà thờ
thánh Phanxicô Salê và trao Mình Thánh cho chúng tôi. Sau đó
khi ra khỏi nhà thờ, bàn ăn được dành cho chúng tôi: có bánh,
phó mát, dồi. Don Bosco đi qua trao cho chúng tôi một chút
rượu mà ngài rót vào các ly của mỗi người chúng tôi. Ngài
cũng phân phát bánh ga-tô nữa.
Khi một bạn trẻ có áo quần, giầy rách, thì Don Bosco phân
phát cho họ quần áo và giầy dép tuy có vá lại, nhưng rất chắc.
Điều tôi thích thú là các cuộc chơi kỵ sĩ tấn công nhau, hay
cuộc chơi thi đua chạy lướt và những món quà chúng tôi nhận
được. Ban kèn đồng chơi những điệu rất thích thú”.
Trong năm 1871, cậu thợ trẻ của vùng Villa Miroglio tên là
Francesco Alemano cùng với cả gia đình đến Torino, và cậu ta
bắt đầu lui tới Nguyện xá Chúa Nhật. Ngày đầu tiên cậu ta đến
đó thì gặp Don Bosco. Sau khi đọc giờ kinh phụng vụ, thì có tổ

56.3 Page 553

▲back to top
chức một cuộc sổ số nho nhỏ và Alemanno thắng được một
món quà là chiếc cra-vát. Don Bosco quàng cra-vát vào cổ cậu
ta và hỏi:
- Con tên là gì?
- Franceso Alemanno
- Con đã đến Nguyện Xá được lâu chưa?
- Đây là lần đầu tiên.
- Con có biết Don Bosco không?
Cậu ta tỏ vẻ bối rối, rồi ngước đôi mắt nhút nhát lên, cậu ta nói:
- Don Bosco là cha đó.
- Con sẽ biết rõ Don Bosco hơn nếu con để cho ngài làm ích
cho linh hồn con.
- Thưa cha, đó chính là điều con tìm kiếm, một người bạn
chăm lo cho linh hồn con.
- Thật là kỳ diệu! Chiều hôm nay, con đã thắng sổ số được một
chiếc cra-vát và cha, với chiếc cra-vát này, cha sẽ cột chặt con
vào Nguyện Xá mà con không thể xa nó được nữa”.
- Francesco đã trở nên một người bạn thực thụ của Don Bosco.
Từ Nguyện Xá, cậu chuyển sang Tu Hội Salêdiêng.
Các người thợ trẻ, việc phân phát những quần áo cho các trẻ
nghèo khổ hơn cả, các câu chuyện trao đổi giữa cha và con với
các bạn trẻ : đó luôn luôn là Nguyện xá của Don Bosco vẫn còn
tiếp tục sống và phát triển mạnh mẽ dưới bóng Đền Thờ Đức
Mẹ Phù Hộ.
Don Bosco trao Nguyện Xá cho cha Barberis hướng dẫn trong
một vài năm. Rồi trao cho Don Pavia điều khiển nó rất lâu

56.4 Page 554

▲back to top
năm. Thế là trong những năm dài của thời cha Pavia, Nguyện
xá được trợ giúp bởi một sư huynh huyền thoại Giovanni
Garbellone. Đó là một con người có tính hướng ngoại đôi chút
và kỳ quái, chính là một bằng chứng sống động của quyền giáo
dục phi thường của Don Bosco, con người vốn biết biến các
đức tính tự nhiên dù là của những con người nghèo khổ nhất,
thành các sức mạnh có giá trị to lớn.
Trong suốt 50 năm, Garbellone là linh hồn của Nguyện Xá
Chúa Nhật. Trong cuốn sổ tay của thầy, thầy đã giữ sáu ngàn
tên của các bạn trẻ được chuẩn bị rước lễ lần đầu. Kể từ năm
1884, cậu trở thành nhạc trưởng của Ban Kèn đồng mà thầy đã
dẫn dắt một cách oai vệ cho tới năm 1928, năm thầy qua đời.
Don Bosco đã chiếm lãnh tình cảm của thầy bởi một cử chỉ tín
nhiệm lớn lao. Ngài đã đặt vào tay thầy 30.000 lires (một con
số kếch xù để đem đi trả một món nợ. Garbello khi đó mới có
28 tuổi, và là một con người nghèo khổ. Cử chỉ này chạm tới
tim thầy một cách sâu xa đến độ kể từ đó thầy luôn sẵn sàng dù
là ném mình vào trong lửa vì Don Bosco.
Michele Unia, một nông dân
Ngày 19-3-1871, một thanh niên nông dân 27 tuổi đến Nguyện
Xá. Tên cậu ta là Michele Unia. Cậu ta nói với Don Bosco rằng
cậu muốn học để trở thành linh mục, nhưng không phải là
Salêdiêng.
- Con muốn trở lại Rocácaforte thuộc Mondoi, xứ sở của con.
- Nhưng nếu Chúa muốn cho con một sứ mệnh to tát hơn thì
sao?
- Nếu Chúa cho con hiểu ra được rằng đó là thánh ý của
Ngài…

56.5 Page 555

▲back to top
- Nếu Thiên Chúa tỏ lộ cho cha điều chỉ mình con biết về con
mà thôi, và nếu cha nói điều đó cho con ở đây, thì liệu đó có
phải là một dấu chỉ đủ cho con thấy rằng ngài muốn con là một
linh mục Salêdiêng chăng?
Michele Unina không biết liệu mình có thể lấy những điều cha
nói đó là nghiêm chỉnh chăng hay chỉ như là một trò chơi vui
thôi. Cậu ta suy nghĩ một chút, rồi nói:
- Được, xin cha nói cho con hay rằng cha thấy trong lương tâm
của con.
Don Bosco đã nói cho cậu tất cả. Ngài nêu một danh sách các
hành động tốt và các tội của cậu, cho tới những chi tiết nhỏ
nhất. Unia tưởng như là mình đang mơ:
- Và cha còn biết con hơn là con có thể tưởng tượng ra được.
Khi đó con lên 13 tuổi, con ở trong ca đoàn nhà thờ của con, và
vào dịp hát kinh chiều. Một trong các bạn của con, ngồi kế bên
con, ngủ, với cái đầu ngẩng lên và miệng mở to ra. Con có
những trái mận trong túi. Con đã chọn trái to nhất và đã đút vào
miệng đang mở to của thằng bé khốn khổ ấy. Cảm thấy nó bị
nghẹt thở, nó đứng dậy và chạy khắp nơi như một đứa điên. Nó
phải ngưng buổi hát kinh chiều. Con cười bò lê bò càng, nhưng
cha xứ đã bạt tai con cả nửa tá.
Michele Unia đã ở lại với Don Bosco. Đó là vị truyền giáo
Salêdiêng đầu tiên đến với những người cùi ở Colombia, trong
một vùng đất xa tít gọi là Agua de Dios (Vùng Nước của Thiên
Chúa). Ngài đã sống ở đó giữa 730 người bị chứng bệnh ghê
gớm đó. Với một công việc thật cực nhọc, cuối cùng ngài đã bị
kiệt sức hoàn toàn, và qua đời. Ngài đã trả lại một khuôn mặt
mang phẩm giá thực sự của những con người và của con cái
Thiên Chúa cho họ.

56.6 Page 556

▲back to top
Chương 45
ĐI XA HƠN
Trong những năm 1871-1872, Don Bosco có một giấc mơ đầy
kịch tính. Có vẻ ngài đã kể lại với Đức Piô IX, rồi với một số
Các Salêdiêng. Trong số họ có cha Barberis và cha Lemoyne
đã kỹ lưỡng ghi các điểm lại.
“Cha thấy mình đang ở trong miền đất man rợ và hoàn toàn
chưa được biết tới. Đấy là một đồng bằng mênh mông chưa
được canh tác, và không có các ngọn núi hay ngọn đồi nhô lên.
Tuy nhiên ở đằng chân trời xa tắp, người ta thấy được nhô lên
những dẫy núi gồ ghề, lởm chởm. Cha thấy có những người đi
ngang qua cánh đồng bằng này. Họ gần như để trần, thân hình
to lớn ngoại thường và vẻ hung dữ. Tóc họ dài và thô, màu
đồng thậm và đen. Họ chỉ mặc áo da súc thùng thình tỏa xuống
từ bờ vai. Họ mang khí giới là lao và cung nỏ.
Những bộ lạc này ở rải rác và xuất hiện trong những cảnh khác
nhau: một số người chạy và săn các con vật hoang dã; những
người khác thì đi qua lại, dùng lao giơ cao những miếng thịt
máu me. Có những người giao tranh chống lại nhau; những
người khác thì chống lại các người lính mặc theo lối Âu châu
và mảnh đất đó phủ đầy xác chết. Trước cảnh tượng đó cha
rùng mình khiếp sợ.
Và này tại chân trời xuất hiện rất nhiều người theo lối ăn vận
và cách hành động của họ, cha hiểu được rằng đó là những vị
truyền giáo thuộc các dòng khác nhau. Họ tiến bước tới đó để
rao giảng cho các người man rợ này đạo thánh của Chúa Giêsu
Kitô. Cha quan sát kỹ họ, nhưng cha không nhận ra ai cả. Họ
tiến vào giữa những người man rợ. Những người man rợ này
vừa khi thấy họ, thì tiến đánh và giết họ. Trên các cây gậy dài
của họ, họ buộc những chiến tích rùng rợn.

56.7 Page 557

▲back to top
Những con người tình nguyện mới sẵn sàng liều mạng
“Sau khi đã thấy những cảnh kinh khủng trên, cha tự nhủ:
“Làm thế nào để có thể cải hồi những con người hung dữ này?”
Trong khi đó cha thấy từ xa một nhóm các nhà truyền giáo
khác có đám thanh thiếu niên đi trước, gặp gỡ những người
man rợ này với những vẻ mặt vui tươi. Cha run lên trong khi
suy nghĩ: “Chúng sẽ giết họ mất”. Cha lại gần họ, thấy họ
chính là các thầy tư giáo và các linh mục. Cha chăm chú nhìn
họ và nhận ra họ là những người Salêdiêng của chúng ta.
Những người đầu tiên cha biết rõ, còn những người khác đi
theo họ, tuy cha không thể đích thân mình biết đến họ, nhưng
cha có cảm tưởng đó là những nhà truyền giáo Salêdiêng như
là tất cả các người truyền giáo của chúng ta.
“Sao lại vậy?”, cha tự hỏi trong lòng. Cha không muốn để họ
cứ tiến lên và cha muốn ngăn cản họ. Cha chờ đợi từ lúc này
sang bất cứ lúc nào đó, họ cũng sẽ chịu cùng một số mệnh như
những nhà truyền giáo tiên khởi, nhưng trái lại cha thấy họ tới
làm cho các bộ tộc man rợ này vui hẳn lên. Họ đã hạ các vũ khí
của đám dân này xuống, khiến cho chúng mất hết vẻ man rợ và
tiếp nhận những người của chúng ta với những dấu thân thiện,
lễ phép. Ngạc nhiên quá, cha mới tự nhủ: “Nào chúng ta xem
chuyện sẽ kết thúc như thế nào!” Cha thấy các nhà truyền giáo
của chúng ta tiến vào giữa đám dân man rợ, dạy dỗ chúng và
chúng vui lòng lắng nghe họ. Họ dạy dỗ và chúng chú ý học
hỏi. Họ khích lệ chúng và chúng tiếp nhận và đem ra thực hành
các lời khuyên nhủ của họ.
Cha tiếp tục quan sát: Các nhà truyền giáo đọc kinh Mân Côi
và các người mạn rợ đáp lại bằng lời kinh của họ. Sau này một
khoảng cách thời gian ngắn, Các Salêdiêng còn đi sống ở giữa
đám dân này, và chúng bao bọc lấy họ. Các nhà truyền giáo quì
gối xuống, các người man rợ cũng qùi gối xuống sau khi đã hạ

56.8 Page 558

▲back to top
các khí giới. Và này đây một người Salêdiêng cất cao
giọng: Hãy ca ngợi Đức Mẹ Maira, hỡi các tiếng nói của các
tín hữu. Đám đông đều đồng thanh tiếp tục bài ca này cách thật
mạnh mẽ đến nỗi cha khiếp sợ và thức giấc.
Giấc mơ này tác động mạnh mẽ trong đời Don Bosco. Chính
ngài quả quyết: “Sau giấc mơ này, cha cảm thấy phát sinh
trong lòng cha một niềm ước ao xưa là làm việc trong cánh
đồng tông đồ truyền giáo”.
Don Bosco bắt đầu nghĩ đến các xứ truyền giáo khi ngài còn là
một học sinh trẻ tại Chieri. Cha Lemoyne kể rằng: “Khi ấy, tại
Piemonte, công cuộc Truyền giáo đã mang lấy một tầm mức
khổng lồ. Những sách vở miêu tả những sự khó nhọc và những
cuộc tử đạo của các nhà truyền giáo đã được hăm hở đọc. Và
Gioan Bosco cảm thấy một ước muốn hăng nồng hiến mình
cho các xứ truyền giáo xa lạ”.
Công đồng Vaticano I (1869-1870) đã đóng góp một cách
nghiêm chỉnh cho việc phát triển các xứ truyền giáo. Lợi dụng
các chuyến hành trình tới Nước Ý (nơi hàng giáo sĩ rất đông
đảo so với các hàng giáo sĩ tại các xứ xở truyền giáo của mình),
các Đức Giám Mục của hai Châu Mỹ và châu Á đã tìm cách
ghi danh những linh mục và những sơ muốn gia nhập các lãnh
địa của các ngài.
Nhiều đơn cầu xin các hội viên cũng đã được gửi đến
Valdocco. Đức Cha Barbero xin Don Bosco gửi các sơ tới
Hydebad, tại Ấn độ. Đức cha Alemanày, giám mục San
Francisco tại California, cũng xin ngài mở tại đó một trường
dạy nghề. Don Bosco trả lời bằng các quà dâng, nhưng chưa
nghĩ “cách cụ thể” đến các xứ truyền giáo.
Một năm sau đó , Don Bosco một giấc mơ về “cánh đồng bằng
với những con người có những bộ mặt hung dữ” vừa kể ở trên,
và Don Bosco cảm thấy “ước ao xưa” lại nổi dậy. Kể từ lúc đó,

56.9 Page 559

▲back to top
ngài đi tìm miền truyền giáo mà Chúa Quan Phòng ủy thác cho
các người Salêdiêng đấy, là nơi nào. Những đơn yêu cầu thiết
lập công cuộc bên kia biển tiếp tục được gửi đến và ngài xem
xét chúng với một sự chú tâm khác hẳn trước.
Đi tìm một chi tiết: Hai con sông và một vùng sa mạc
Don Bosco kể lại rằng: “Những người da đen trong giấc mơ,
trước đó tôi đã tin rằng đó là những người Phi châu và Êthiopi.
Nhưng sau khi đã hỏi những người biết đến vùng này, và đã
đọc những sách địa dư, tôi bỏ ra một bên những vùng này. Thế
rồi tôi dừng lại ở Hong Kong, một hòn đảo của Trung Hoa. Tôi
còn tìm hiểu về Nước Úc. Từ Đức Cha Quinn, tôi nhận được
những lời cắt nghĩa về tình trạng của các dân bản địa này,
nhưng các miêu tả của ngài không tương ứng với điều tôi đã
thấy. Thế rồi tôi hướng trí tôi tới miền Mangalore và Malabar.
Cuối cùng vào năm 1874, vị lãnh sự Achentina tại Savone,
Gazolo, nói một tiếng về các người Salêdiêng cho Đức Tổng
Giám Mục của Buenos-Aires. Ngài nói lên ý nguyện của ngài
là các người Salêdiêng sẽ đến Achentina. Khi ấy tôi đi tìm các
sách địa lý về vùng nam Mỹ Châu và tôi đọc chăm chú. Điều
đáng kinh ngạc là theo như các sách và các bức tem thư minh
họa về vùng này, tôi nhận ra thật sự các người man rợ này ở
ngay trong vùng đất Nam Achentina”.
Có một chi tiết mà Don Bosco cứ mãi tìm cho được trong các
bản đồ để khám phá ra “nơi được chỉ định bởi Thiên Chúa”.
Don Amadei, một trong các hạnh sử gia chăm chú nhất về Don
Bosco gợi lại rằng: “Trong lãnh vực tông đồ của giấc mơ, ngài
đã ghi nhận hai con sông ở cửa một sa mạc rất rộng, mà ngài
không thể tìm ra được trên các tấm bản đồ mà ngài đã xem rất
kỹ. Đó chính là con sông Rio Colorado và con sông Rio Negro
tại Pantagonia; ngài chỉ biết được về điều này trong dịp ngài
nói chuyện lần đầu tiên với vị sĩ quan chỉ huy Gazzolo, lãnh sự

56.10 Page 560

▲back to top
viên của Achentina tại vùng Savone. Tôi (Don Amadei) nhớ lại
chính mình đã thấy một trong những tấm bản đồ cũ mà Don
Bosco đã nghiên cứu trong đó ta đọc thấy ở dưới Nam Mỹ có
những tiếng: “Vùng đất Pantagonia, nơi các dân ở đó là những
người khổng lồ” (M.B. Cuốn 10, tr. 1273).
Suy nghĩ về những biến cố này, Piero Stella bình luận: "Rõ
ràng là ý hướng của Don Bosco là tìm kiếm một con đường cho
việc bành trướng công cuộc của ngài ở ngoài đất Âu châu. Ngài
đã nghĩ đến và mơ tới những nơi truyền giáo theo nghĩa sát từ
ngữ nhất, in partibus infidelium (trong những vùng đất của
những người chưa có đức tin), và theo nghĩa mơ hồ nhất của
thời đại đó: tức là nơi những dân tộc hung dữ và man rợ... Tại
Achentina, có các người man rợ: còn tốt hơn nữa: là có những
người man rợ ở trong đầu óc ngài. “Những người man rợ” là
tiếng ma thuật gợi nên mối quan tâm thích thú và sự tò mò hơn
cả... Có cả một bầu khí của huyền thoại bao bọc lấy những dân
man rợ của vùng Pantagonia này, được miêu tả như những
người khổng lồ bởi những tay thám hiểm xa xưa nhất, và cũng
được trình bày lại ngay vào thế kỷ XIX, theo như trí tưởng
tượng của những người diễn tả về họa hình các sách du hành,
như là những người khổng lồ mà những người Châu Âu, với
những cái mũ ba múi của họ, chỉ đứng cao tới thắt lưng của
những người dân bản địa vừa mới sinh ra đấy. Họ là những
người man rợ mà vào năm 1864 còn được miêu tả trong Từ
điển Những Sự Hiểu Biết ích lợi, xuất bản tại Torino, với
“những vai rộng, đầu to tướng, tóc đen và kết bện lại, ít râu,
dung mạo lạnh lùng và thân mình cao hai mét. Họ là những
người có lẽ là cao lớn nhất trên trái đất”. Sự hung dữ của họ là
hình ảnh của vùng lãnh thổ chưa được khai hóa, không có cây
cối, không có người ở, tại đó gió mạnh tàn phá, và cũng tại đó
họ cưỡi những con ngựa chạy ngang dọc cực nhanh, mang
những vũ khí như dây rợ, trái ném, và giáo mà họ sử dụng rất
khéo léo”.

57 Pages 561-570

▲back to top

57.1 Page 561

▲back to top
Một thư luân lưu để tìm những người tình nguyện
Một lời xin cụ thể đến từ Đức Tổng Giám mục Buenos Aires
vào cuối năm 1874. Don Bosco nói: “Những lá thư này cha đã
đọc ở Công Nghị của Tu Hội vào buổi chiều 22-12”.
Đức Tổng Giám mục đề nghị hai nơi: Một là đảm nhiệm tại
Buos Aires một giáo xứ có các di dân Ý cư ngụ, được dâng
kính cho Mẹ Từ ái; hai là điều hành tại San Nicolas một trường
trung học các trẻ nam mới hoàn thành cách đây ít lâu. San
Nicolas là một trung tâm rất quan trọng của Tổng Giáo phận
Buenos Aires.
Don Bosco trả lời bằng tiếng Áchentino bằng việc trình bày ba
điểm về

57.2 Page 562

▲back to top
Chương trình của ngài:
- Ngài sẽ sai một vài linh mục sang Buenos Aires để xây dựng
tại đó một điểm xuất phát cho Các Salêdiêng vào Mỹ Châu. Họ
sẽ chăm sóc “cách riêng cho giới trẻ nghèo và bị bỏ rơi, cho
việc dạy giáo lý, cho các trường học, việc rao giảng, các
Nguyện xá Chúa Nhật;
- Thời gian thứ hai, Các Salêdiêng cũng sẽ đảm nhận công
cuộc giáo xứ San Nicolas;
- Từ hai địa bàn đầu tiên này, Các Salêdiêng sẽ có thể “được
mời tới những chỗ khác”.
Trong điểm thứ ba, Don Bosco bao hàm hay dưới một hình
thức nào đó dấu ẩn cái dự tính của ngài là “dấn thân càng sớm
càng tốt vào với những sắc dân man rợ”.
Bằng cách này ngài đã xác định bằng các hạn từ cụ thể và thực
hiện một phương pháp riêng để Tin Mừng hóa trong địa hạt
truyền giáo. Các tu sĩ của Don Bosco không dấn thân ngay lập
tức vào môi trường của các bộ lạc xa xăm, nhưng họ sẽ tạo nên
những nền tảng tại những vùng đất an ổn trước đã, khi làm việc
cho những di dân Ý rất đông đảo tại Achentina và thật sự họ
đang thiếu thốn sự trợ giúp tôn giáo và luân lý. Từ các địa bàn
đó, họ sẽ ra đi để đảm nhận những thí nghiệm tông đồ khác “ở
tuyến đầu”.
Don Ceria kể rằng: “Khi ấy vị thánh đã không lộ ra bất cứ một
điều gì cả trong nhà, và ngài chuẩn bị một màn kịch đáng ngạc
nhiên nhất. Buổi chiều 29-1, nhằm vào lễ thánh Phanxicô Salê,
ngài cho tập họp các học sinh tập nghề, các học sinh văn hóa,
cùng các hội viên tại phòng hội nơi các bạn học, tại đó đã được
dựng lên một sân khấu. Don Bosco bước lên đó cùng với ông
lãnh sự Achentina trong bộ đồng phục rất đẹp của ông, cùng

57.3 Page 563

▲back to top
với các thành viên của Thưởng Công Nghị và các giám đốc
Salêdiêng”.
Với một cộng đồng hết sức chăm chú, Don Bosco công bố là
với sự chấp thuận của Đức Thánh Cha, các người Salêdiêng
đầu tiên sẽ sớm lên đường tới các nơi truyền giáo vùng Nam
Mỹ. Những lời của ngài không khơi lên một nỗi sợ hãi vì
những mối hiểm nguy sẽ gặp phải tại đó, hay vì hành động này
quả có quá táo bạo chăng, nhưng một sự hồ hởi không thể tả
được giữa các bạn trẻ cũng như các người Salêdiêng.
“Một nắm men mới đã bắt đầu rắc lên giữa đám học trò và các
Salêdiêng. Các ơn gọi tới chức linh mục đang nhân rộng và các
đơn xin gia nhập Tu Hội tăng lên cách thấy được. Nhiệt tình
truyền giáo tỏa rộng khắp thế giới”. Cha Eugenia Ceria đã viết
những lời trên trong Lịch sử biên niên của Tu Hội đã bình luận
như sau: “Nếu chúng ta nhận định về ấn tượng đã có được, thì
phải báo cáo lại rằng vào thời kỳ đó khi Tu Hội còn có vẻ một
gia đình kết chặt lại quanh thủ lãnh của mình. Sự bùng phát
được thình lình ban cho trí tưởng tượng trong ngày hôm đó
bỗng khiến cho nó vượt ra khỏi những chân trời có giới hạn để
rồi nó lập tức làm cho lớn rộng lên cái ý tưởng tốt đẹp mà
người ta đã có về Don Bosco và về công cuộc của ngài. Một
lịch sử thứ hai đã bắt đầu cách thực sự cho Nguyện xá và Tu
Hội Salêdiêng”.
Ngày 5 tháng Hai, Don Bosco loan báo cuộc xuất phát truyền
giáo thứ nhất cho tất cả các Salêdiêng cư trú tại Valdocco. Lá
thư luân lưu của ngài kêu gọi những người tình nguyện làm
đơn xin truyền giáo. Ngày xuất phát truyền giáo được ấn định
trên nguyên tắc vào tháng Mười.
Sự hồ hởi gia tăng khắp nơi, hầu như tất cả mọi người đều
xung phong đi truyền giáo. Những tiếng như “một lịch sử mới
đã bắt đầu” hình như không phải là quá đáng.

57.4 Page 564

▲back to top
Người dẫn đầu đoàn truyền giáo là đứa trẻ có hai người Da đỏ
khổng lồ đu lên
Chính Don Bosco đứng ra tổ chức mười một cuộc xuất phát
truyền giáo trong suốt dòng cuộc sống ngài; nhưng không có
cuộc xuất phát truyền giáo nào vượt qua được lòng nhiệt thành
và cơn sốt bỏng của cuộc xuất phát truyền giáo thứ nhất.
Nó đã được chuẩn bị cho tới tận chi tiết nhỏ nhặt. Để cho các
con của ngài được tiếp nhận như là “những người bạn giữa
đám bạn hữu”, Don Bosco đã liên lạc với các nhân vật tại
Bueos Aires. Để cho họ có được tất cả những gì cần thiết, ngài
đã quay về với các cộng tác viên và chính ngài cũng phải ngạc
nhiên về sự quảng đại của họ.
Các nhà truyền giáo lên đường sẽ phải diễn tả cái tốt đẹp nhất
của Tu Hội non trẻ và nhỏ bé. Trong số những người đã đáp
lại lời kêu gọi của ngài (một đám rất đông đảo), Don Bosco
chọn ra sáu linh mục và bốn sư huynh. Có một số người đã kết
thúc tồi tệ: Don Bosco không phải lúc nào cũng xét đúng người
đúng chỗ, cũng chẳng phải lúc nào ngài cũng nắm bắt được ánh
sáng soi sáng từ Trời cao.
Gioan Cagliero sẽ là thủ lãnh của cuộc xuất phát truyền giáo
này. Đó là đứa trẻ mà Don Bosco đã thấy hai người da đỏ
không lồ có nước da mầu đồng đu lên. Với cái tuổi 37, Don
Cagliero là một linh mục cường tráng, vui vẻ, thông minh và có
một hoạt động sôi nổi. Cha chuẩn bị mình để trở nên con người
của hoàn cảnh mới tại Nam Mỹ. Khó có thể tượng ra cảnh
Nguyện xá không có Cagliero: cha có văn bằng thần học, giáo
sư của các thầy tư giáo trẻ, một bậc thầy khôn bì, và một nhà
soạn nhạc. Cha chịu trách nhiệm về các hoạt động khá tế nhị,
dẫn dắt đời thiêng liêng cho nhiều Tu Hội trong thành phố. Sự
ra đi truyền giáo của cha sẽ tạo nên một sự vắng mặt rất nặng
nề.

57.5 Page 565

▲back to top
Don Bosco đã ghi danh cha vào nhóm xuất phát truyền giáo
qua một phương cách kỳ lạ. Don Ceria kể lại rằng:
“Sau khi giữ thái độ tư lự và im lặng, một ngày kia Don Bosco
nói với Cagliero đang đứng bên cha:
- Cha muốn sai một trong những linh mục ở với cha lâu nhất để
cùng đồng hành với các người đi truyền giáo tại Mỹ Châu:
người ấy sẽ ở lại với họ trong vòng ba tháng, cho tới khi họ đã
ở lại đó một cách tốt đẹp. Bỏ mặc họ ngay lập tức không có
một sự nâng đỡ nào, hay một người cố vấn nào có được sự tín
cẩn của họ, đối với cha xem ra là một điều khá đau lòng”.
Cagliero trả lời:
- Nếu Don Bosco không tìm ra được một người nào khác và
muốn chọn con vào nhiệm vụ đó, con sẵn sàng.
- Tốt lắm! – Don Bosco kết luận.
Nhiều tháng trời qua đi mà không thấy Don Bosco có lúc nào
khơi lại chuyện này trong khi nói chuyện. Nhưng khi ngày xuất
hành đến gần, thì thình lình một hôm Don Bosco nói với ngài
một cách đột ngột:
- Về vấn đề lên đường đi Mỹ Châu, con có luôn luôn ở trong
cùng một tâm tưởng không? Hay là con chỉ nói thế để diễu cợt
thôi?
- Cha biết rõ con không bao giờ diễu cợt với Don Bosco cả.
- Tốt, vậy trong trường hợp này, con hãy chuẩn bị, thời gian đã
đến rồi.
Don Cagliero chạy đi để bắt đầu việc chuẩn bị. Trong vài ngày,
bằng cách làm việc cật lực để sắp đặt đâu vào đó.

57.6 Page 566

▲back to top
Và cứ như vậy, với sự đơn sơ quen thuộc và dễ chịu, vị truyền
giáo thứ nhất và cũng là nhà truyền giáo vĩ đại nhất Salêdiêng
bắt đầu sứ mệnh của mình. Nhưng ba năm nhằm chuẩn bị cho
nhà tân truyền giáo làm quen với môi trường mới, đã được kéo
dài thành 30 năm đối với Don Cagliero.
Một linh mục khác có giá trị xuất phát đi truyền giáo là Don
Fagnano, có tâm hồn của một nhà tiên phong, là cựu chiến binh
của tướng Garibaldi. Bốn linh mục còn lại là những vị
Cassinis, Tomatis, Bacácino và Allavena. Bốn sư huynh trong
phái đoàn này là Scavini; thầy dạy nghề mộc, Gioia đầu bếp và
thầy dạy đóng giày, Molinari thầy dạy âm nhạc, và
Belmonte quản lý.
Hai mươi lời kỷ niệm viết bằng bút chì
Mùa hè được dành cho những người lên đường để học tiếng
Tây ban nha.
Sang tháng Mười, Don Cagliero dẫn họ tới Roma để lãnh nhận
phép lành của Đức Thánh Cha. Đức Piô IX vừa vào phòng đã
nói: “Ồ Cha già mất rồi. Đâu là các nhà truyền giáo trẻ của
cha? Vậy ra các con là các con của Don Bosco và các con đi
rao giảng Tin Mừng cho Achentina. Các con sẽ có một khung
cảnh rộng rãi tại đó để làm việc thiện. Các con hãy nêu gương
nhân đức ở giữa các dân tộc này. Cha mong ước là các con sẽ
trở thành đông đảo hơn bởi vì công việc thì bất tận và mùa gặt
thì dồi dào giữa các bộ lạc man rợ đó”.
Rồi họ trở lại Torino. Eugenia Ceria kể lại rằng: “Một cuộc
xuất phát truyền giáo ở cuối Châu Mỹ vào năm 1875 có một
cái gì đó anh hùng lắm trước con mắt của những người sống
trong góc nhỏ mất hút của thành phố Torino gọi là Valdocco.
Người ta nhìn các người lên đường như những nhà quán quân
quảng đại đã tung mình cách kiên quyết vào cuộc gặp gỡ với

57.7 Page 567

▲back to top
mầu nhiệm. Trong khi xem thấy họ đi lại trong bộ áo kỳ lạ, ai
cũng muốn tìm gặp họ để trao đổi với họ vài điều”.
Ngày 11-11-1875, tại đền thờ Đức Mẹ Phù Hộ, Don Bosco nói
lời chào biệt cùng họ. Và lúc 16 giờ, nhà thờ đầy ắp người.
Vào cuối kinh chiều, Don Bosco lên tòa giảng và vạch ra cho
các người lên đường một

57.8 Page 568

▲back to top
Chương trình cho hoạt động của họ. Trước hết họ sẽ chăm sóc
cho các di dân Ý tại Achentina:
“Cha căn dặn các con cách mạnh mẽ đặc biệt về hoàn cảnh đau
thương của nhiều gia đình Ý. Các con sẽ gặp rất đông các trẻ
em và cả các người lớn sống trong sự ngu dốt đáng buồn không
biết đọc, biết viết và bất cứ nguyên tắc tôn giáo nào. Các con
hãy đi tìm kiếm các anh chị em của chúng con mà sự nghèo
khổ và bất hạnh đã dẫn họ tới vùng đất xa lạ này...”.
Tiếp đến họ sẽ bắt đầu truyền giáo tại Pantagonia:
“Chúng ta bắt đầu một công cuộc lớn, không phải vì chúng ta
tin mình hoán cải cả thế giới trong vòng vài ngày, không.
Nhưng ai sẽ biết được cuộc xuất phát truyền giáo này sẽ ra sao
và xem xem từ một cây nhỏ bé, nó sẽ trở thành một cây lớn thế
nào? Ai biết được rằng nó sẽ giống như cây hạt cải hay hạt kê,
nhưng sẽ mọc lên và sản sinh thiện ích to lớn?”.
Cuối cùng, với tình huynh đệ, Don Bosco ôm hôn các người
lên đường. Mối cảm xúc thật lớn khi các người đi truyền giáo
đi dọc theo nhà thờ, bước qua các lớp học sinh và bạn hữu. Tất
cả muốn bao bọc lấy họ. Don Bosco là người cuối cùng bước
tới cửa cuối nhà thờ. Quang cảnh thật là vĩ đại: Sân nhà thờ
chứa đầy dân chúng; những hàng dài các xe cộ chờ đợi các nhà
truyền giáo, ánh sáng đèn lồng soi sáng vào ban đêm. Don
Lemoyne ở bên Don Bosco, nói với ngài:
“Don Bosco ơi, đây là khúc khởi đầu của câu Inde exibit gloria
mea (“Từ đây sẽ tỏa ra vinh quang của Mẹ”; xem

57.9 Page 569

▲back to top
Chương 38).
- Đúng đấy, Don Bosco trả lời với sự xúc động sâu xa.
Đây là thời điểm mà người ta có thể đánh mất đi ý thức về thực
tại.
Nhưng Don Bosco đứng chắc đôi chân trên mặt đất. Vài tháng
trước đó ngài đã tuyên bố: “Nguyện Xá Valdocco của chúng ta
là gì so với thế giới? Một hạt nguyên tử. Nhưng tuy nhiên
chúng ta có biết bao việc phải làm khởi sự từ góc xa xôi này,
này đây chúng ta nghĩ đến việc sai những người tại nơi đây hay
nơi kia. Ôi, Chúa tốt lành biết bao!”.
Mỗi người lên đường đều nhận được một tờ giấy với “20 lời
ghi niệm đặc biệt” do chính Don Bosco viết. Ngài đã biên ra
những lời này trên một cuốn sổ tay nhỏ của ngài trong một
cuộc hành trình trong toa xe lửa, rồi ngài đã cho các người đi
truyền giáo chép ra nhiều bản. Đó là những điều cốt yếu nói lên
ý niệm của ngài về việc truyền giáo Salêdiêng. Chúng ta chỉ
nêu ra ở đây năm điều có ý nghĩa nhất:
1. Hãy tìm kiếm các linh hồn, chúng không phải tiền bạc,
hay những vinh dự hay các phẩm trật.
2. Hãy chăm sóc những người ốm đau một cách đặc biệt.
3. Hãy làm cho thế giới thấy chúng ta là những người
nghèo trong áo mặc, ăn uống, nhà cửa, và các con sẽ
nên giàu có trước mặt Thiên Chúa và trở thành những
người làm chủ trái tim con người.
4. Giữa các con, hãy yêu thương nhau, khuyên bảo nhau,
sửa lỗi cho nhau, đừng có ghen tỵ, giận hờn; trái lại,
chớ gì cái tốt của một người là cái tốt của tất cả mọi
người; những nỗi đau khổ của một người phải được coi
là những nỗi đau khổ của tất cả mọi người, và mỗi

57.10 Page 570

▲back to top
người đều nỗ lực để chữa chúng cho lành hay ít nhất là
làm thuyên giảm chúng.
5. Trong những lao nhọc và thử thách, chúng ta đừng quên
rằng chúng ta có một phần thưởng lớn trên trời. Amen.
Cùng ngày 11 tháng 11 đó Don Bosco đồng hành cùng các nhà
truyền giáo tới Genova nơi họ xuống tàu hơi nước Savoia của
Pháp vào ngày 14. Một nhân chứng nhớ lại rằng Don Bosco
mặt đỏ rực do nỗ lực ngài cố kiềm hãm sự cảm động của mình.
Tương lai hiện lên ở đằng chân trời chẳng có chút gì là sự nghỉ
ngơi, nhưng Don Cagliero mang theo mình một tờ giấy nhỏ
trên đó Don Bosco đã viết cho ngài là: “Các con hãy làm điều
các con có thể; Thiên Chúa sẽ làm cái mà chúng ta không thể
làm được. Các con hãy tín nhiệm vào Chúa Giêsu Thánh Thể
và vào Mẹ Maria Phù hộ và các con sẽ thấy phép lạ sẽ ra sao”.

58 Pages 571-580

▲back to top

58.1 Page 571

▲back to top
Chương 46
PANTAGONIA, ĐẤT HỨA
Họ tới Buenos Aires ngày 14-12-1875 và thấy mình ở giữa các
bạn hữu. Cùng với Đức Tổng Giám mục của thành phố và các
linh mục, còn có 200 di dân Ý hô vang lên lời chào đón của
mình. Thậm chí họ còn tìm ra được một nhóm các cựu học sinh
của Nguyện Xá Valdocco.
Nhưng họ còn kinh ngạc “trước cảnh tượng của số dân chúng
tính tình tốt lành và có truyền thống tốt đẹp, rất kính trọng các
linh mục, quảng đại với nhau, nhưng hoàn toàn không biết gì
về đạo và không được sự giúp đỡ nào về tôn giáo cả. Dựa trên
những lá thư đầu tiên họ gửi về, thì hầu như 30,000 dân Ý tại
Buenos Aires, và hầu như 300,000 di dân Ý trong đất nước
Áchentina, do thiếu các linh mục đồng hương, nên hầu như bị
bỏ mặc cho bản thân họ. Don Cagliero và các anh em hội viên
Salêdiêng cảm thấy mình như là nước mưa bị hút hết bởi mảnh
đất khô hạn” (Cha Pietro Stella).
Sau vài ngày, Các Salêdiêng chia ra thành hai nhóm, như đã
được quyết định tại Torino: Don Cagliero với hai hội viên cư
trú tại nhà thờ dâng kính Đức Mẹ đầy lòng thương xót, để điều
hành một giáo xứ có di dân Ý sống; còn Don Fagnano hướng
dẫn 6 hội viên Salêdiêng khác đến San Nicolas, để sinh động
một trường trung học trẻ nam.
Tại Buenos Aires, cái thật thích hợp với hoàn cảnh theo ý Chúa
Quan Phòng là hoạt động Nguyện xá ngày lễ, được mở ra ngay
lập tức. Trong thành phố lớn này thiếu hoàn toàn việc phục vụ
cho các trẻ em. “Don Cagliero và các cộng tác viên của ngài
đều há hốc miệng ra ngạc nhiên khi tìm thấy mình bị bao
quanh bởi đám trẻ. Đa số chúng là trẻ Ý. Khi được mời làm
dấu Thánh Giá, chúng nhìn họ ngạc nhiên, vì không hiểu họ
muốn nói gì. Khi hỏi chúng để biết xem chúng có đi lễ Chúa

58.2 Page 572

▲back to top
Nhật chăng, chúng trả lời là chúng không nhớ bởi vì chúng
không biết khi nào là ngày Chúa Nhật và khi nào không phải là
ngày Chúa Nhật” (P. Stella).
Khắp nơi đều thiếu các trường học và trong khoảng vài tuần
Don Cagliero bị tấn công bởi các lời yêu cầu, không chỉ ở
Áchentina, mà còn ở nước Uraguay bên cạnh. Đức Khâm sứ
Montevideo trong khi khích lệ gửi tới các Salêdiêng, đều đã
nêu lên những con số đau đớn: Trong toàn thể đất nước
Uraguay, lớn bằng một nửa Nước Ý, không có cả tiểu chủng
viện lẫn đại chủng viện, và chỉ có duy nhất một trường học
Công giáo.
Còn những người man rợ thì sao?
Việc nghĩ đến những người man rợ đã từng là động cơ giúp rất
nhiều người trong số họ quyết định vượt Đại dương, thì lúc ấy
hãy còn tạm gạt sang bên cạnh.
Don Cagliero hiện chú tâm đến ba công cuộc mà ngài thấy là
cần thiết phải mở ngay lập tức. Trước hết là một trường dạy
nghề, “một xưởng huấn luyện các ngành nghề đáp ứng cho các
nhu cầu hiện tại, sẽ là một biến cố phải được ghi lại trong lịch
sử của quốc gia, khiến cho công chúng ai ai cũng phải kinh
ngạc, và mang đến ích lợi thật to lớn” (thư cho Don Bosco
ngày 5-2-1876). Rồi một Trường Trung Học tại Montevideo:
một trường trung học Kitô giáo đầu tiên tại thủ đô Uraguay. Và
sau cùng là một công cuộc cho các trẻ nam tại một khu nghèo
nhất của Buenos Aires: “La Boca”, nơi di dân Ý sống, và bị cai
quản bởi các người tam điểm.
Không ai dám đi qua phố xá tại nơi đó. Don Cagliero lập tức
tới đó, qui tụ một nhóm trẻ trong khi phân phát cho chúng các
ảnh Đức Mẹ, và đã thành công nói chuyện với một vài gia
đình. Đức Tổng Giám mục hay tin đó, đã nói với cha:

58.3 Page 573

▲back to top
- Anh em đã mắc một sai lầm to lớn. Tôi đã chưa bao giờ dám
đến đó và tôi cũng đã không cho phép các linh mục của tôi đến
đó. Ai đến đó tất sẽ gặp những nguy hiểm lớn.
- Nhưng tuy vậy con thật sự đang tính lại đó.
Quả vậy, hai hay ba ngày sau, cha Cagliero đã quay trở lại đó.
Các trẻ chạy lại với cha và nói bằng tiếng vùng Genova: “Ông
linh mục cho ảnh đã đến!” Thế là chúng tái lập lại những cảnh
xưa kia ở vùng ngoại ô Torino: “Cha sẽ cho ảnh cho những
người tốt nhất… Vậy ai là người xấu nhất nào…Các con có
biết làm dấu thánh giá chăng? Và có biết đọc Kinh Kính Mừng
Maria chăng?!...”.
Những người đàn ông, đàn bà đi ra đứng ở ngưỡng cửa nhà để
xem vị linh mục dám ở lại giữa những đứa trẻ phá phách này
và còn hứa dành cho chúng một khu đất với các trò chơi, các
bài hát, âm nhạc và niềm vui nữa. Tuy nhiên tại Valdocco,
người ta vẫn cứ hỏi đến các tin tức về đám dân man rợ.
Eugenio Ceria viết: “Pantagonia đã là một tiếng làm bừng dậy
trí tưởng tượng của các bạn trẻ. Biết bao nhiêu em mơ về các
cuộc mạo hiểm giữa những người Da Đỏ đang đi khắp các
vùng đất mênh mông không người ở này”. Don Bosco phải
nuôi những trí tưởng tượng của giới trẻ và không để mất đi
nhiệt tình này.
Các nhà truyền giáo gửi qua những lá thư gửi về các tin tức mà
họ lượm lặt đây đó. Lúc đầu còn chưa được chính xác lắm,
nhưng dần dần với thời gian các tin tức trở thành chính xác
hơn. Sau đây là một lá thư viết ngày 10-3-1876:
“Những điều kiện sống vật chất và tinh thần của các người Da
đỏ, tức là các bộ lạc Pampas và Patagon lấp đầy tâm hồn chúng
con bằng nỗi cay đắng. Các thủ lãnh các bộ lạc này chiến đấu
chống lại chính phủ. Họ phàn nàn về những sự sỉ nhục và
những phiền toái. Họ tránh né các đơn vị đồn trú để rồi giữ

58.4 Page 574

▲back to top
chân các đơn vị đó lại, rồi đi lại khắp các vùng quê, đánh cắp,
rồi trang bị mình với những khẩu xúng carabin hiệu
Remington, bắt tù cả đàn ông, đàn bà và trẻ con, ngựa và cừu.
Về phía các binh lính của chính phủ thì thực hiện một cuộc
chiến sinh tử với họ đến độ tinh thần họ thay vì bình thản, lại
càng ngày càng căng thẳng lên quá mức, và nổi máu trả thù.
Điều này có thể đã khác đi nếu thay vì các binh lính, chúng ta
có các thầy dòng Capuxin hay các nhà truyền giáo khác: Họ sẽ
cứu được biết bao các linh hồn và sự thịnh vượng, an sinh xã
hội được thiết lập nơi các người man rợ này. Trong hoàn cảnh
chiến tranh và căng thẳng hiện tại của những người Da đỏ
chống lại chính phủ, những nhà truyền giáo chỉ có thể làm
được rất ít điều hoặc không thể làm được gì cả…”
Những bạn trẻ đến từ Torino
Don Bosco từ Torino am hiểu rõ tình hình: Thành phố Buenos
Aires đầy các di dân, nhắc nhở cho ngài cảnh thành phố Torino
với các bạn trẻ đến đó từ các vùng thung lũng cao, khi ngài còn
là một linh mục trẻ.
Ngài chuẩn bị một cuộc xuất phát truyền giáo thứ hai. Ngày 7-
11-1876, ngài gửi tới Mỹ Châu 23 Salêdiêng để cho tại đó Don
Cagliero có thể thiết lập các công cuộc xem ra là khẩn trương
nhất. Trong số các nhà truyền giáo này có Don Brodato và Don
Luigi Lasagna (“Cậu bé có tóc hung hung”) là những người tạo
nên một lực đẩy rất quan trọng cho công cuộc Salêdiêng. Đây
là một cố gắng làm đổ máu Tu Hội Salêdiêng còn non trẻ và
mỏng manh. Ngài viết cho Don Cagliero: “Cuộc xuất phát
truyền giáo này làm cho chúng ta nền nhà lún sâu vào nước tới
tận cổ, nhưng Thiên Chúa giúp đỡ và chúng ta sẽ thoát mình
được ra khỏi đó”.
Tuy nhiên, Don Bosco không muốn người ta từ bỏ quá vội kế
hoạch lúc khởi đầu: đó là việc Tin Mừng hóa các người Da đỏ.

58.5 Page 575

▲back to top
Ngài đề nghị một kế hoạch mà từ xa xem ra hoạt động tốt: đó
là mở các trường trung học trong các tỉnh gần với các lãnh thổ
của người Da đỏ, tiếp nhận các con cái của dân man rợ này và
qua chúng tiếp cận được với những người lớn, “trong khi nỗ
lực vun trồng ơn gọi mà tình cờ có thể xuất hiện ở nơi những
học trò của mình. Bằng cách này ta hy vọng chuẩn bị được các
nhà truyền giáo cho các vùng Pampas và Patagoni. Những
người man rợ sẽ trở thành các nhà rao giảng Tin Mừng cho
chính các người man rợ khác”.
Nhưng kế hoạch này tại chính địa bàn của nó không thể thực
thi được. Don Costamagna, Don Fagnano, Don Lasagna thực
hiện các cuộc xâm nhập truyền giáo vào giữa các bộ lạc mất
hút trong đồng quê mênh mông, rất xa khỏi các thành phố
trung tâm của quốc gia, nhưng họ không bao giờ gặp được
khuôn mặt nào của người man rợ cả. “Các thành phố gần với
lãnh thổ của dân Da đỏ” không hiện hữu. Để tới được với
những vùng đất dân Da đỏ, thì phải cùng đi với các nhà mạo
hiểm và các con buôn du hành xuống phía nam thành từng
đoàn lữ hành, hoặc đi bằng tàu buồm, trong khi trải qua hằng
ngàn Kilô mét. Tới đó có dân Da đỏ qui tụ lại, nhưng chỉ là ít
căn nhà lều mà sau này sẽ trở thành các thành phố của tương
lai.
Sáng tháng 11-1877, Don Bosco sai tới Achentina một đoàn
truyền giáo thứ ba gồm 18 người. Người ta đã gọi là đây là
“một đạo binh Thánh giá gồm các trẻ con”, bởi vì có trong đó
cả các thầy tư giáo trẻ. Nhưng các kết quả sẽ chứng mình rằng
Don Bosco có lý.
Cùng với Các Salêdiêng nam, lần đầu tiên cũng có cả các Con
Đức Mẹ Phù Hộ, các sơ Salêdiêng) mà Mẹ Mazzarello đã theo
họ tới tận tàu biển. Sau nhóm nhỏ các Con Đức Mẹ này, hằng
ngàn những người nữ truyền giáo khác cũng sẽ vượt đại dương.

58.6 Page 576

▲back to top
Đức Tổng Giám mục Buenos Aires hiểu được rằng Don Bosco
đã làm cho Giáo phận của ngài những điều “vượt hết mọi giới
hạn có thể”. Ngài muốn chứng tỏ lòng biết ơn của mình. Để đi
vào quan điểm của chính Don Bosco, ngài sai vị Tổng đại diện
của ngài, Đức Cha Espinosa, và hai Salêdiêng lên đường đi tới
tận Pantagonia, vùng đất của dân Da đỏ. Bằng cách này Don
Bosco rốt cuộc có thể tiếp nhận được “những tin tức hằng
mong mỏi về các người man rợ”.
Pampas
Vùng đồng bằng phía Tây và phía Nam Buenos Aires được
chia thành Humid Pampa với nền nhiệt cao và Dry Pampa có
khí hậu khô hạn hơn. Humid Pampa chiếm phần lớn diện tích
của Buenos Aires, tỉnh Córdoba, phần lớn tỉnh Santa Fe và tỉnh
La Pampa. Phần phía Tây của tỉnh La Pampa và tỉnh San Luis
nằm trong vùng Dry Pampa. Đất đai ở đây thiếu nước cho
trồng trọt, chủ yếu được sử dụng để chăn thả gia súc.
Pantagonia
Nằm trong các tỉnh Neuquén, Río Negro, Chubut và Santa
Cruz. Phần lớn vùng này có khí hậu bán hoang mạc phía Bắc
đới lạnh và hoang mạc phía Nam nhưng thực vật phát triển ở
vùng rìa phía Tây và được tô điểm bởi rất nhiều hồ. Tierra del
Fuego có khí hậu mát mẻ và ẩm ướt, được điều hòa bởi sự tác
động của biển.
Ngày 7-3-1878, trên bờ sông Paranà, Don Coatamagna, Don
Rabagliresti và vị tổng đại diện lên một chuyến tàu chạy hơi
nước để đi về phía Nam. Họ cập bến Bahia Blanca, cách thủ đô
1000 km đường biển, về hướng Nam. Từ đấy, họ tiếp tục đi
thêm 250km trên con sông Rio Negro, “theo một cách thức nào
đó” để đến Pantagonia.

58.7 Page 577

▲back to top
Nhưng nỗ lực này không những thất bại, mà còn có nguy cơ rơi
vào thảm họa. Một trận bão nổi dậy. Gió từ khu Pampa lay
động và quật ngã mọi sự trong ba ngày hai đêm. Con tàu chạy
bằng hơi nước sau cùng bị hư hại và buộc phải quay trở lại bến
cảng Buenos Aires.
Lá thư miêu tả cảnh tượng bão tố này của Don Costamagna đã
có một sự thành công không tưởng tượng được giữa giới trẻ
của Valdocco và các độc giả của Tập san Salêdiêng.
“Thánh giá tiến bước sau lưỡi gươm. Kiên nhẫn thôi!”
Cuộc xuất phát truyền giáo thứ hai tới vùng đất các người Da
đỏ bắt đầu vào 16-4-1879. Julio Roca, Đại tướng và Bộ trưởng
chiến tranh hành quân về miền Nam với 8000 quân. Đó là một
cuộc hành quân càn quét chống lại các bộ lạc dân bản địa vẫn
tiếp tục gây nên những vụ giết người và những cuộc đánh du
kích.
Trong các cuộc hành quân trước đây không ít người da đỏ đã bị
giết, những người khác thì được dẫn về Buenos Aires và được
phân tán đi các gia đình để làm nô lệ. Trong các bộ lạc còn
sống sót thì có cả một niềm căm phẫn sâu xa đối với những
người da trắng. Người ta có thể dễ dàng ước đoán rằng họ thà
làm cho mình bị tiêu diệt hết còn hơn là đầu hàng. Cũng dễ tiên
liệu rằng các binh lính dễ dàng để cho mình tham gia vào các
cuộc tàn sát thông thường như thế.
Do vậy vị bộ trưởng chiến tranh muốn thử sử dụng đến “các
phương tiện luân lý”. Ông đã xin với Đức Tổng Giám mục các
vị linh mục hoạt động trong chiến dịch mới này như là những
vị tuyên úy quân đội, và đồng thời như là các nhà truyền giáo
giữa các bộ lạc người da đỏ. Đức Tổng Giám mục đã mời vị
tổng đại diện của ngài cùng các Salêdiêng là cha Costqmagna
và cha Otta.

58.8 Page 578

▲back to top
Chuyện này không làm vui lòng cha Costamagna mấy, như lời
cha Bodrato viết cho Don Bosco vào thời gian đó. “Ngài sợ
rằng người linh mục dây mình vào giữa đám binh lính tất làm
cho dân chúng quay gót khỏi Tin Mừng. Dù sao đi nữa, thì hơn
bao giờ hết cần phải cầu nguyện cho họ”.
Cuộc hành quân đi qua các thành phố Buenos Aires, Azul,
Cahúe, Choele Choel, Pantagònes bao gồm 1300km đi ngựa,
hay đi trong các xe ngựa nghiêng ngả trên đường đá sỏi khởi
hành theo hướng cực Tây. Đây là cuộc “hành trình truyền giáo”
đầu tiên của các Salêdiêng được Don Costamagna kể lại qua
các thư từ gửi cho Don Bosco trong suốt chặng đường. Chúng
được đọc với một cảm xúc lớn tại Valdocco, và được công bố
trong tờ Tập San Salêdiêng và những tờ báo Công giáo, khơi
dậy một niềm phấn khởi vô bờ.
Sau đây là một số đoạn:
“Với ông Bộ trưởng chiến tranh và nhiều binh lính, chúng tôi
đã lên đường đi Azul, là xứ sở ở tận cùng nước Áchentina. Sau
khu vực đó là sa mạc to lớn của vùng Pampa.
Thánh giá tiến bước sau lưỡi gươm. Kiên nhẫn thôi! Đức Tổng
Giám mục đã chấp nhận như thế và chúng tôi phải cúi đầu. Một
con ngựa được trao cho chúng tôi và một chiếc xe ngựa dành
cho tất cả chúng tôi: Chúng tôi đã chất lên đó bàn thờ, đàn
Hácmonium, và những chiếc va-li của chúng tôi.
Ngày đầu tiên chúng tôi thỉnh thoảng còn thấy những chiếc lều
hay những mái nhà làm bằng da súc vật. Đó là nơi ở của những
người da đỏ Pampas, những người coi như đã hoàn toàn khai
hóa rồi. Nước da họ mầu đen rất xậm, mặt họ thườn thượt. Khi
chúng tôi đi ngang qua họ, chúng tôi chào họ bằng đôi lời trong
ngôn ngữ của họ và chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình đi về
phía sa mạc…

58.9 Page 579

▲back to top
Cahúe là một đồn nằm ở giữa sa mạc, trên đường ranh giới
giữa Áchentina và các bộ lạc những người da đỏ. Đồn này gồm
một pháo đài bằng đất, khoảng 40 căn nhà và các túp lều làm
bằng da thú vật gọi là các “toldos” của hai bộ lạc dân da đỏ có
tên là “những người Eripaylá và những người Manuel Grande.
Tôi đã mượn một con ngựa và đã đến gặp gỡ các bộ lạc này.
Trong khi tôi lại gần các chiếc lều, tôi cảm thấy trái tim đập
thình thình: Tôi phải làm sao đây?... Chính người con trai của
tộc trưởng bộ lạc Eripaylà đến gặp tôi; may quá, anh ta nói
tiếng Tây Ban Nha. Anh ta tiếp đón tôi cách thân tình, dẫn tôi
tới cha của anh ta và đứng ra làm thông ngôn. Tộc trưởng tiếp
đón tôi với tấm lòng ưu ái và nói với tôi rằng ông ao ước tất cả
mọi người trong bộ tộc được dạy dỗ trong đạo Công giáo và
tiếp nhận phép rửa tội. Khi ấy tôi được thoải mái tập họp các
đứa trẻ trai lại và tôi bắt đầu dạy giáo lý. Với một chút khó
khăn tôi dạy cho chúng học làm dấu Thánh Giá…
Tại miền Carhúe, chúng tôi đã rửa tội cho 50 đứa con trai da đỏ
và cho 20 con cái của các người Kitô hữu và nếu Thiên Chúa
muốn, chúng tôi đã có thể ở đó ít là một tháng! Nhưng ông Bộ
trưởng chiến tranh khẩn cầu chúng tôi đi theo ông ta. Chúng tôi
chẳng đã phải lên đường với một ước vọng nồng nhiệt sớm
được trở lại nơi đây bao có thể…
Chúng tôi đi con đường sa mạc, không những cùng đồng hành
với quân đội mà còn với những thành viên của các bộ tộc da đỏ
mà theo lệnh của ông bộ trưởng họ buộc phải đem các túp lều
da của họ tới vùng Choele-Choel, để tạo nên một đám dân
chúng mới trên những vùng lãnh thổ mới. Cuộc di dân luôn
luôn là sự di chuyển từ sa mạc này đến sa mạc khác trong suốt
một tháng…
Ngày 11 tháng 5, sau khi đã đi qua các ngọn đồi và các thung
lũng, ao hồ và thác nước, sau cùng chúng tôi đã tới con sống

58.10 Page 580

▲back to top
Rio Clorado, một con sông gần bằng con sông Pô ở Torino.
Trên bờ con sông này chúng tôi cử hành thánh lễ.
Tôi xin và được phép đồng hành với đoàn quân tiên phong dẫn
đường cho đoàn xe ngựa, và đã tới con sông Rio Negro trước
tiên. Tôi chạy ngựa tiến lên phía trước trong ba ngày giữa
những bụi gai, và làm mọi điều có thể, cho dù là rất khó, để
cho quần áo tôi khỏi trở thành rách bươm. Sáng ngày 24 tháng
5, thức dậy từ hừng đông, sau khi đã phủi đám sương trắng
toát trên chiếc giường của tôi (tôi phải gọi nó là như thế), tôi
sưởi ấm tôi bên ngọn lửa tốt lành và tôi lên đường bằng ngựa
khi nhảy và chạy nước đại cho tới vùng Choele – Choel. Vào
lúc 16g34, khi mặt trời bắt đầu biến mất sau dẫy núi
Cordilliera, tôi bước chân vào đất bên bờ sông Rio Nigro, tức
là bên ven Pantagonia, bởi vì con sông này phân chia nó ra
khỏi vùng pampa. Từ đáy lòng mình, tôi xướng lên bài thánh
thi tạ ơn đối với Đức Mẹ Maria Phù Hộ, trong ngày lễ này của
Mẹ…”
Cuộc săn lùng con người
“Ngày hôm sau, tôi vội vã đi kiếm tìm ở Choele-choel những
tù nhân chiến tranh da đỏ để dạy giáo lý cho họ. Tôi nhận thấy
cảnh khốn khổ của họ thật tang thương. Có những người một
nửa người trần trụi; họ không có lều trại, mà phải ngủ ngoài
trời, không nơi náu ẩn. Đích thị họ là những con người nghèo!
Trong khi thấy tôi đến, họ bao vây lấy tôi, cả đàn ông và đàn
bà, trẻ trai và trẻ gái…”
Các nhà truyền giáo tới vùng Pantagònes, một khu dân cư
chừng 4000 người dân sống trên vùng Rio Negro và từ đó
chúng tôi trở lại Buenos Aires vào cuối tháng Bẩy.
Nhưng chiến dịch quân sự trên vùng Rio Negro còn tiếp tục
trong hai năm, cho tới tháng Tư 1881. Bị bỏ mặc cho nỗi sợ
hãi và thất vọng, các người da đỏ băng qua dẫy núi Cordiliera

59 Pages 581-590

▲back to top

59.1 Page 581

▲back to top
trốn qua nước Chile và định cư tại đó. Tộc trưởng Manuel
Namuncurá can đảm kiêu hãnh, với một đơn vị những người
chiến binh da đỏ ít ỏi, trốn vào dẫy núi Cordiliera và ẩn náu ở
vùng thung lũng cao.
Kể từ giờ phút đó các người da đỏ ngưng là một đội quân,
Những nhóm nhỏ tập họp lại mà còn sống sót, bị dồn đến cảnh
sống sợ sệt và nghèo khổ, trong những năm kế tiếp đã trở thành
đối tượng của một cuộc săn lùng âm thầm và không thương
hại, để bắt họ đem về làm những kẻ nô lệ cho các nông trại
hoặc đơn giản là thủ tiêu họ.
Ngày 5-8-1879, Đức Tổng Giám mục Buenos Aires trao phó
vùng truyền giáo Pantagònes cho Don Bosco. Don Bosco trao
trách nhiệm cho Don Costamagna thương lượng nghiêm chỉnh
với Đức Tổng Giám mục về “việc mở một nhà chính cho các
sơ và anh em Salêdiêng. Còn tôi (Don Bosco) thì sẽ lo liệu các
nhân sự và đồng thời các phương tiện vật chất”.
Trong lá thư chúc năm mới cho các cộng tác viên viết ngày 1-
1-1880, ngài loan báo bước khởi đầu của vùng truyền giáo
Pantagonès. “Tôi đã tiếp nhận vùng đó, với lòng tin tưởng vào
Thiên Chúa và vào lòng bác ái của các cộng tác viên”.
Ở vùng hạ lưu con sông Rio Negro, ở hai bên bờ sông, có hai
khu tập trung dân lớn là Pantagonès và Viedma. Ngày 15-12-
1879 hai nhóm các Salêdiêng lên đường tới Buenos Aires. Các
điểm truyền giáo Pantagonès và Viedma đã được trao phó cho
họ. Don Fagnano, cha xứ của vùng Pantagones, với hai linh
mục, hai sư huynh và bốn sơ, sẽ phải chăm sóc cho các khu
kiều dân và các bộ tộc sống ở giữa hai con sông Rio Negro và
Rio Colorado: một vùng lãnh thổ được gọi là “La Pampa” rộng
như Bắc Ý trải dài từ Piemonte tới Venezia. Don Milanesio,
cha xứ của vùng Viedma, phải chăm lo cho tất cả dân chúng tại
phía nam sông Rio Negro, trong vùng gọi là Pantagonia: một

59.2 Page 582

▲back to top
vùng lãnh thổ lớn như “vùng bán đảo Ý từ sông Pô cho tới
Calabria, nằm ở giữa Nước Ý với đảo Cicilires”.
Don Fagnano thực hiện chiến thật “lo sao cho thật nhiều người
đến với nhà của chúng ta”. Trong khoảng 10 tháng, ngài đã
xây dựng hai trường học cho trẻ nam và trẻ nữ. Khóa học sinh
đầu tiên là 88 em, trong số đó có cả các em da đỏ.
Don Milanesio thì theo chiến thuật hoàn toàn khác, là “đi tìm
dân chúng tại chính nơi họ sống”. Ngài lên ngựa và đi tìm
những người dân da đỏ. Trong một thời gian ngắn, ngài đã học
ngôn ngữ của họ, đi tới được và trở thành bạn của nhiều bộ lạc,
cứu các nhóm và các gia đình bị cô lập bởi sự đàn áp của các
người da trắng. Với bộ râu phất phơ trước gió, ngài đã trở
thành hình mẫu cho các nhà truyền giáo tiên phong. Các người
da đỏ biểu lộ lòng tín nhiệm và kính trọng ngài. Họ thậm chí
kêu đến tên ngài dưới một hình thức ma thuật để bảo vệ họ khi
những người da trắng tự nhận mình, là “những người văn
minh” xử tệ với họ.
Các chiến thuật của cả hai nhà truyền giáo vĩ đại này bổ sung
cho nhau một cách hoàn hảo. Viedma và Patagonès trở thành
những địa bàn có những trường tiểu học và trung học có ảnh
hưởng, tại đó một thế hệ công dân mới được chuẩn bị: vừa
lương thiện, Kitô hữu, tôn trọng các người da đỏ. Chúng trở
thành các điểm chiến lược tại đó các nhà truyền giáo du hành
trong khi men theo các dòng sông, tiến về phía các thung lũng,
đồi núi, để đi thăm các lều trại của dân da đỏ và các công
xưởng của những người da trắng.
Manuel Namuncura, vị tộc trưởng cuối cùng của tộc Araucan,
khi ông quyết định thương lượng cuộc đầu hàng với chính phủ,
đã chọn cha Melanesio như là người trung gian. Dưới sự che
chở của ngài, vị tộc trưởng hạ vũ khí tại đồn Roca vào ngày 15-

59.3 Page 583

▲back to top
5-1883. Bù lại, ông ta đã nhận được chức tước, quân phục và
sự đối xử đích danh của một đại tá trong quân đội.
“Cha đã thấy tận trong bụng của các núi non”
Cũng trong năm 1883, ở khoảng cách hằng ngàn cây số, Don
Bosco lại thấy trong một giấc mơ mới miền Nam Mỹ và các
nhà truyền giáo của ngài.
“… Cha đã nhìn qua cửa xổ một toa xe lửa và thấy lướt qua
mặt cha các cảnh trí khác nhau và đáng ngạc nhiên. Rừng, núi,
đồng bằng, sông rất dài và mênh mông. Chúng tôi đã đi hằng
ngàn cây số qua bờ một khu rừng nguyên sinh chưa từng có ai
thám hiểm…
Cha đã thấy tự trong bụng của núi non và trong chốn thâm sâu
của các đồng bằng. Cha đã thấy trải ra trước mắt cha nhưng sự
phong phú không thể so sánh được của các quốc gia này mà
một ngày kia người ta sẽ khám phá ra. Cha thấy rất nhiều mỏ
kim loại quí, những vựa than đá vô tận, những mỏ dầu khổng
lồ mà người ta chưa tìm thấy được ở những nơi khác…
Con tàu hỏa tiếp tục cuộc hành trình của nó xuyên qua vùng
Pampa và Pantagonia. Chúng tôi tới eo biển Magellan (chót
điểm của Nam Mỹ)
Cuộc du hành của Magellan Quanh Thế Giới 1519-1521
Chúng tôi đi sâu xuống lòng đất. Chúng tôi có trước
mắt Puntas Arenas[13]. Đất của nhiều dặm đầy những tầng
ngầm than, gỗ, xà, ván, các thứ kim loại, có thứ ở thể thô, có
thứ đã được tinh luyện. Bạn của cha chỉ cho cha thấy tất cả các
thứ đó và nói: “Cái mà ngay hôm nay còn nằm trong kế hoạch,
thì tương lai sẽ được thực hiện”.
Cha kết luận: “Tôi đã thấy quá đủ rồi. xin anh hãy dẫn tôi đi tới
các Salêdiêng của tôi tại Pantagonia”.

59.4 Page 584

▲back to top
Chúng tôi trở lại nhà ga và chúng tôi lại tiếp tục lên xe lửa, sau
khi đã trải qua một cuộc hành trình rất dài, đầu máy xe lửa
dừng lại ở một thị trấn quan trọng. Cha xuống xe lửa và liền
gặp được các người Salêdiêng…
Cha đến giữa họ. Họ đông lắm. Nhưng cha không biết họ và
trong số họ không có một ai là những cựu học sinh của cha. Tất
cả nhìn cha kinh ngạc như thể cha là một người không quen
biết. Cha nói với họ:
- Các con không biết cha ư? Các con không biết Don Bosco à?
- Ôi, Don Bosco chúng con biết tiếng tăm cha, nhưng chúng
con chỉ trông thấy cha trong các bức hình thôi. Còn gặp gỡ Don
Bosco dĩ nhiên là không.
- Còn Don Fagnano, Don Costamagno, Don Lasagna, Don
Milanesio thì đang ở đâu?
- Chúng con không biết các ngài. Có những người đã gặp các
vị ấy xưa kia, đó là các Salêdiêng đến từ Âu Châu. Nhưng bây
giờ, những người ấy đã chết từ lâu rồi.
Với câu trả lời như vậy, cha lấy làm ngạc nhiên: “Nhưng đây là
mơ hay là thực tại?”.
Chúng tôi lại lên xe lửa, còi xe lửa rít lên và lên đường đi về
phía Bắc... Trong nhiều giờ kéo dài, chúng tôi tiến đến phía các
bờ của những con sông rất dài. Khi thì nó đi bên trái, khi thì nó
đi bên phải. Trên những bờ sông đó xuất hiện rất nhiều bộ lạc
man rợ. Và người bạn của cha nhắc lại: “Đây là mùa gặt của
những người Salêdiêng! Đây là mùa gặt của những người
Salêdiêng!”.
Trong giấc mơ dài và kích thích trí tưởng tượng này, vị hướng
dẫn huyền bí của Don Bosco tiên báo cho ngài thời gian cần

59.5 Page 585

▲back to top
thiết để “cứu chuộc” hoàn toàn những dân tộc man rợ này của
miền Nam Mỹ:
- Điều này sẽ hoàn thành trước khi kết thúc thế hệ thứ hai. Mỗi
một thế hệ là 60 năm.
Và ngài cũng đề ra phương pháp qua đó các nhà truyền giáo sẽ
đạt được kết quả:
- Với mồ hôi và máu.
Giấc mơ cuối cùng của Don Bosco
Trong đêm 9 đến 10 tháng 4-1886, Don Bosco mơ thêm giấc
mơ truyền giáo cuối cùng. Ngài kể lại với một giọng vỡ tiếng
do mệt nhọc và xúc động cho Don Rua và thư ký của ngài là
cha Viglietti. Đây là một thị kiến vĩ đại và thanh thản về tương
lai.
Từ các việc ghi nốt do các thính giả, chúng ta nêu lên những
đoạn được coi là cốt yếu:
“… Từ đỉnh cao, Don Bosco nhìn thật xa, tận chân trời. Ngài
trông thấy một số rất đông đảo các thanh thiếu niên đang chạy
xung quanh ngài, đồng hành với ngài trong khi họ lên tiếng:
- Chúng con đã đợi cha, chúng con đã chờ đợi cha nhiều lắm:
nhưng bây giờ cha ở đây rồi, và cha không chạy thoát khỏi
chúng con được nữa!
Một Nữ chăn chiên dẫn dắt một nhóm bất tận đàn chiên nói với
ngài”:
- Hãy nhìn kỹ nè! Hãy nhìn kỹ, tất cả các con! Các con thấy gì
chăng?
- Chúng con thấy những đồi núi, rồi biển; rồi lại núi và biển.

59.6 Page 586

▲back to top
- Một đứa trẻ nói: “Con đọc thấy: Valparaiso”. Đứa khác nói:
“Con đọc thấy Santiago”.
- Vậy – người nữ chăn chiên tiếp tục nói – hãy đi khỏi địa điểm
này và con sẽ thấy những điều mà Các Salêdiêng phải làm
trong tương lai! Con hãy vạch một đường thẳng rồi nhìn đi.
Những bạn trẻ nhấp nháy con mắt, rồi đồng loạt thốt lên:
- Chúng con đọc thấy “Bắc Kinh”.
- Bây giờ con hãy kéo một đường thẳng từ điểm này sang điểm
kia, từ Bắc Kinh tới Santiago[14], hãy phác họa ra một trung tâm
ở giữa Phi Châu và con sẽ có một ý tưởng chính xác về tất cả
những gì người Salêdiêng phải làm.
- Nhưng làm sao có thể thực hiện được tất cả các chuyện này? -
Don Bosco thốt lên – Các khoảng cách thật rất dài, các miền lại
khó khăn và các người Salêdiêng thì không mấy đông đảo.
- Con đừng lo. Các con của con sẽ hoàn thành được mà; và rồi
còn các con của các con của con... Con hãy vạch ra một đường
từ thành phố Santiago cho tới trung tâm của Phi Châu. Con
thấy gì?
- Mười trung tâm ga xe lửa.
- Đúng thế, các trung tâm này mà con thấy sẽ là những trung
tâm dạy học và huấn luyện nhà tập. Thế con còn thấy thiếu gì
chăng?
- Mười trung tâm.
- Phải, những trung tâm mà con thấy đó chính là các trung tâm
học vụ và các tập viện sẽ cung cấp vô số các nhà truyền giáo để
đáp ứng các nhu cầu của các miền nay. Và bây giờ con hãy
quay sang phía khác. Tại đó con thấy mười trung tâm nằm ở
giữa Phi Châu và Bắc Kinh. Và những trung tâm này cũng

59.7 Page 587

▲back to top
cung cấp các nhà truyền giáo cho tất cả các miền này. Tại đó
có cả Hong Kong và Calcutta, rồi Madagascer. Những trung
tâm đó và nhiều trung tâm khác nữa sẽ có những nhà cửa, các
trung tâm học vụ và các nhà tập”.
Khi Don Bosco kết thúc cuộc đời dương thế của ngài, thì đã có
150 Salêdiêng và 50 Con Đức Mẹ Phù Hộ làm việc tại Mỹ
Latinh. Họ thiết lập vững chắc trong năm quốc gia: Áchentina,
Uraguay, Bresil, Chile, Equador. Trong vòng 13 năm, cả một
công việc lớn lao như vậy đã được thực hiện.

59.8 Page 588

▲back to top
Chương 47
DON BOSCO VÀ
ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC GASTALDI
Năm 1882, khi nói chuyện với kinh sỹ Coloniatti, Don Bosco
thưa về Đức Tổng Giám Mục Torino là Lorenzo Gastaldi rằng:
- Kể từ nay chỉ còn thiếu một việc duy nhất là ngài thọc một
con dao vào trong tim tôi mà thôi.
Một lời khẳng định vô cùng nghiêm trọng, có khả năng đóng
băng lại việc “phong Chân Phước” cho bất cứ người nào dám
tuyên bố như vậy. Tuy nhiên các chuyên gia của Tòa Thánh,
sau khi đã dùng kính hiển vi mà tra cứu trong một thời gian lâu
dài, đã tuyên bố rằng các nhân đức của Don Bosco thật là anh
hùng: Tất cả các nhân đức, kể cả đức kiên nhẫn. Trong những
lời này, họ đã không tìm thấy một hành vi giận dữ hay mất kiên
nhẫn. Đó chỉ là tiếng thốt lên rất nhân loại của một linh mục
khốn khổ đã đi tới chỗ giới hạn cuối cùng (nhưng chưa ra ngoài
các giới hạn) của sự chịu đựng.
Trong

59.9 Page 589

▲back to top
Chương này, chúng ta kể lại các biến cố được xét “như là gai
góc” trong quá khứ và vì lý do đó, đã được giữ trong yên lặng
hay để lướt qua bởi các người viết về sử hạnh Don Bosco.
Ngày nay chúng ta tin rằng các Kitô hữu đã trưởng thành, đã
lớn lên rồi. Chúng ta tin rằng đấy không phải là nguyên nhân
tạo nên một gương mù, mà đúng hơn rất có tính cách xây dựng
để biết được rằng những “con người vĩ đại của Thiên Chúa”
cũng có thể lầm lẫn. Và làm sao nhân danh Thiên Chúa, họ
không những có thể chịu đau đớn mà còn làm cho những người
khác phải đau đớn. Bởi vì trên mặt trái đất này, chúng ta chỉ là
những con người khốn khổ, dù chúng ta có mặc lên một sắc
phục nào đi nữa, hay có mang lon cấp bậc nào đi nữa trên vai
áo của chúng ta.
Sự lạnh nhạt của Đức Cha Ricácardi
Don Bosco trong những năm ngài đã thực hiện được những
công việc rực rỡ, để phải chịu đựng một cuộc đụng độ lâu dài,
nhục nhã, đau đớn với Đức Tổng Giám Mục của mình, giống
như phải mang một mão gai.
Đức Cha Fransoni chết trong cảnh lưu đày tại Lyon năm 1862.
Ngài đã phong chức linh mục cho Don Bosco; ngài đã thấy
công cuộc của Don Bosco sinh ra và lớn lên; ngài đã nâng đỡ
nó, và tặng cho Nguyện xá tên gọi là “giáo xứ của các trẻ em
không có giáo xứ”.
Vì những bất đồng chính trị, Torino mãi cho tới năm 1867 mới
lại có thể có được tổng Giám mục: là Đức Tổng Ricácardi,
thuộc dòng tộc bá tước Nero. Đức tổng mới hơn Don Bosco 7
tuổi, và cả hai vị là bạn tốt. Ngài nhận việc bổ nhiệm làm tổng
Giám mục Torino đang khi là Giám mục Savone. Don Bosco
tới thăm ngài và quàng tay quanh cổ ngài để ôm hôn. Ngài đã
nói là ngài đã biết rõ khả năng đã được công nhận của Don
Bosco để làm việc cho giới trẻ và những thiện ích Don Bosco

59.10 Page 590

▲back to top
đã làm cho các linh mục của ngài tại tiểu chủng viện Mirabello.
Ngài tới Torino với một

60 Pages 591-600

▲back to top

60.1 Page 591

▲back to top
Chương trình rõ nét: trao phó cho Don Bosco việc tái sinh các
tiểu chủng viện Giaveno và Bra và việc tái tổ chức lại tiểu
chủng viện Chieri.
Tuy nhiên có một cái gì đổ vỡ ngay trong cuộc gặp gỡ đầu tiên
của hai vị. Don Bosco loan báo cho ngài hay ngài đã lập một
Tu Hội kể từ năm 1859 và Tòa Thánh đã ban cho mình sự chấp
thuận ban đầu với "Sắc lệnh ngợi khen” vào năm 1864. Đức
Tổng Ricácardi như từ mây rớt xuống. Ngài nói với một chút
bực bội:
- Tôi cứ nghĩ rằng Tu Hội của cha thuộc quyền giáo phận và do
sự kiện này, nó thuộc về tôi. Tôi đã nghĩ rằng công việc của
cha hoàn toàn được hiến dâng cho giáo phận của tôi...
Sự ngạc nhiên và cay đắng của Đức Cha Ricácardi thật dễ hiểu:
trong thời điểm thoát ra được khỏi biết bao nhiêu các kẻ thù,
thì tất nhiên người ta phải tập trung các lực lượng của giáo
phận lại, tạo nên sự thống nhất và siết chặt lại các hàng ngũ
xung quanh Đức Tổng Giám mục của mình, thì tiếc thay khi đó
Don Bosco lại lẩn trốn. Don Bosco đang khao khát một sứ
mệnh rộng lớn hơn và giờ đây lại đang nhìn về hướng Hội
Thánh hơn là về hướng giáo phận Torino.
Sự lạnh nhạt của đức Tổng giám mục Ricácardi đối với Don
Bosco và công cuộc của cha ngày càng lớn lên trong suốt ba
năm sau.
Khi đại Chủng viện của tổng giáo phận bị đóng cửa, nhiều thầy
tư giáo đã tới nương mình tại Valdocco, một số khác thì tới
viện Cottolengo. Điều này đã lôi cuốn rất nhiều thiện cảm tới
với Don Bosco, khiến cho Nguyện xá trở thành như thành lũy
của Chúa quan phòng, một nơi ẩn cư cho các hy vọng của giới
tư giáo trẻ trung của giáo phận Torino.

60.2 Page 592

▲back to top
Còn giờ đây, hoàn cảnh đã thay đổi khác đi. Ngày 11.9.1867,
Đức Tổng Giám mục viết cho Don Bosco:
“Về những gì liên quan tới các thầy tư giáo của giáo phận, tôi
không cho phép họ học hành cũng như dạy học hay hộ trực các
nhà ngủ và các lớp học nữa. Tôi làm điều này để cổ võ các thầy
tư giáo chăm lo việc học hành của họ. Tôi quyết định là sẽ chỉ
trao ban các chức thánh cho những người ở chủng viện mà
thôi”.
Đối với Don Bosco, những thời gian ảm đạm đã bắt đầu: nhiều
chủng sinh không còn có ý hướng ở lại luôn mãi với Don
Bosco, họ từ giã Nguyện xá và chuyển sang chủng viện giáo
phận. Những ai đã gắn kết mình với Don Bosco bởi các lời
khấn, thì dễ hiểu là họ xin cho biết họ bao giờ mới có thể làm
linh mục.
Don Bosco đến nói chuyện với Đức Tổng Giám Mục Ricardi
và lên tiếng sốt bỏng rằng:
- Theo lệnh của Đức cha, thì các linh mục trẻ phải đến ở trong
trung tâm giáo phận, và các chủng sinh thì phải tới chủng viện.
Vậy Don Bosco phải ở lại một mình với các trẻ con sao?
Đức Tổng giám mục vẫn cương quyết giữ lại lập trường của
mình. May mắn là sợi dây căng thẳng không kéo dài lâu. Ngày
1-3-1869, một sắc lệnh của Tòa Thánh (do Don Bosco tha thiết
khẩn cầu) đã chấp thuận chính thức Tu Hội Salêdiêng. Một sắc
lệnh khác cho Don Bosco quyền trao ban “thơ giới thiệu chịu
chức linh mục” trong vòng 10 năm cho các thầy tư giáo đã ở tại
Nguyện xá kể từ trước năm 14 tuổi. Điều ấy có nghĩa là các
bạn trẻ ở Nguyện xá từ tuổi nhỏ có thể được Don Bosco giới
thiệu sau này để chịu chức thánh với thư được đảm bảo do
chính ngài viết, dù cho người đã không lui tới chủng viện.
Đức Cha Ricácardi qua đời tháng Mười năm 1870.

60.3 Page 593

▲back to top
“Nếu con muốn, thì cha ban điều đó cho con”
Đức thánh cha Piô IX rất quí mến và đánh giá cao Don Bosco
và hỏi thăm ngài trong việc lựa chọn đức Tổng Giám Mục mới
cho Torino. Don Bosco đề cử Đức cha Lorenzo Gastaldi, Giám
mục Sluzzo. Đó là bạn của ngài và Tu Hội của ngài đã nhận
được nhiều sự giúp đỡ từ vị Giám mục này. Đức Piô IX biết rõ
sự phản ứng nhạy cảm của Đức Gastaldi, nên không đồng ý.
Nhưng Don Bosco nhấn mạnh và Đức thánh Cha (theo chứng
từ của Don Amadei) chấp nhận lời đề cử với lời lẽ:
- Con muốn điều đó, vậy cha ban cho con. Cha cho con lo liệu
việc loan báo cho Đức Cha Gastaldi biết rằng cha trao cho ngài
làm Tổng Giám Mục Torino, và trong vòng hai năm, cha sẽ
làm cho ngài cái gì đó còn lớn hơn thế nữa. (Đó là một sự gợi ý
cách rõ ràng tới việc sẽ tuyển chọn ngài lên chức Hồng Y).
Don Bosco lập tức đánh điện tín cho Đức Cha Gastaldi:
“Thưa ngài, con được vinh dự là người thứ nhất tham dự vào
việc ngài sẽ được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Torino”.
Khi Don Bosco vừa từ Roma trở về, Đức Cha Gastaldi vội bay
về Torino. “ Vừa gặp cha Lemoyne, ngài ôm hôn cha, rồi cùng
cha tới với Don Bosco. Ngài không thể ở im, mà rất là hồi hộp
hăm hở. Thế là ngài xuất hiện trước mặt Don Bosco. Vị Giám
mục cầm lấy tay Don Bosco, đi theo cha, rồi nói chuyện thân
mật rất lâu cùng cha” (M.B., Cuốn X, Tr. 446). Với một bóng
dáng của sự thiếu cẩn trọng, khi kết thúc câu chuyện, Don
Bosco cho ngài hiểu ra rằng Don Bosco đã góp phần của mình
trong việc Đức Thánh Cha tuyển chọn ngài. Don Bosco nói cho
ngài hay chính các lời của Đức Thánh Cha: “Bây giờ ngài là
Tổng Giám mục, còn trong vòng hai năm nữa sẽ có một cái gì
hơn thế nữa”. Đức tổng ngắt lời: “Chúng ta hãy để chuyện đó
lại cho Chúa Quan Phòng”. Đó là một hành vi khiêm cung ư?
Nhưng cũng có thể nhuốm màu bị tự ái!

60.4 Page 594

▲back to top
Tình bằng hữu của Don Bosco với Gastaldi có thể thực sự nói
là gặp một sự thử thách của một trái bom. Mẹ của Đức Giám
mục đã làm việc nhiều năm tại nguyện xá, và bà coi Don Bosco
như là con của bà (Don Bosco và Đức Cha Gastaldi có cùng
một tuổi).
Khi Don Bosco tìm cách để có từ Đức Giám mục một lá thư
kêu gọi Roma chấp thuận Tu Hội, Đức Cha Gastaldi đã viết
một lá thư tuyệt đẹp như sau:
“Hiện Chúa làm chứng cho rằng Đức Tổng Giám Mục
Fransoni trong khi còn sống trong lưu đày tại Lyon, đã quả
quyết coi Tu Hội này là một chúc lành đặc biệt của Trời Cao,
bởi vì tại đó nhiều người trẻ có thể được chuẩn bị cho chức linh
mục tại đó trong khi các chủng viện của giáo phận bị đóng
cửa” (11-7-1867).
Mười tháng sau ngài còn viết rằng:
“Thiên Chúa nhân từ thương thi ân dồi dào tại đây các chúc
lành của Ngài: một sứ mệnh cách riêng phục vụ cho giới trẻ lộ
ra rõ ràng nơi đây... Người ký tên dưới đây đã thấy, như là một
phép lạ, trong lòng Tu Hội này một nhà thờ vĩ đại (Đền thờ
Đức Mẹ Phù Hộ), tạo thành một cảnh quan kỳ diệu những ai
muốn quan sát thật kỹ, và thánh đường ấy đã tiêu hao đến cả
một triệu lires mà các vị linh mục nghèo này, sống thiếu mọi
sự, phải nai lưng ra lo tìm kiếm: Đây thật như một công trình
chứng tỏ rằng Thiên Chúa chúc phúc cho Tu Hội này”.
Trong cuốn sách Các Kỷ Niệm Lịch Sử, ngài đã viết về khu phố
Valdocco: “Lãnh thổ này hiển nhiên đã được Thiên Chúa chúc
phúc bởi sự có mặt của những Tu Hội bác ái và đạo đức như
Nhà Nhỏ của Chúa Quan Phòng (Cottolengo) và Nguyện Xá
Thánh Phanxicô Salê (Don Bosco)”.

60.5 Page 595

▲back to top
Don Bosco luôn luôn ngỏ với ngài như với một người anh em
bạn. Ngài gửi cho vị Giám mục họa đồ Đền thờ Đức Mẹ Phù
Hộ để ngài duyệt xét và Don Bosco cũng chấp nhận những
thay đổi mà Đức Cha Gastaldi đề nghị.
Ngài là một vị Giám mục vĩ đại
Tại Torino, Đức Tổng Giám Mục Gastaldi là một vị Tổng
Giám Mục vĩ đại.
Đức Cha, Đức Giám mục Aoste, đã phác họa chân dung ngài
như sau: “Ngài được sinh ra để làm Giám mục. Uy lực trong tư
cách ngài, khí lực của các kế hoạch và các quyết định của ngài,
mức uyên bác của sự hiểu biết của ngài, lời nói lưu loát của
ngài, lòng đạo đức sốt sáng của ngài, sự gắn bó của ngài với
giáo thuyết của tòa thánh, tình yêu đam mê của ngài đối với
các linh hồn và đối với Hội Thánh, tất cả đã cho ta thấy nơi
ngài một vị thủ lãnh của dân chúng”.
Để hoàn tất bức tranh này, còn cần phải thêm vào đó những lời
lẽ của Đức Cha Ré, Giám mục Alba, người đã đệ trình dưới
hình thức tuyên thệ: “Đức Tổng Giám Mục, với nhiều phẩm
chất tốt lành, cũng có một ý tưởng hơi quá đáng về quyền bính
của mình và về sự hiểu biết của mình, đàng khác tính cách mau
lẹ của ngài khiến ngài lấy những quyết định vội vã mà ngài
không thích quay ngược trở lại vì sợ điều đó sẽ làm giảm uy
quyền của ngài”.
Thời gian của những niềm lạc quan hỗn độn của “Chế độ Phục
hưng” đã trôi qua. Công đồng Vaticano I đã bẻ lái con tàu đi
sang “việc tập trung hóa” của Hội Thánh. Mỗi một địa phận
phải tự tổ chức mình theo một cách nhất định quanh vị Giám
mục của mình là người trực tiếp lệ thuộc vào Đức Thánh Cha.
Đức Tổng Giám mục Gastaldi là một người cải tạo vĩ đại cho
Tổng giáo phận Torino. Ngài trả lại sức sống và kỷ luật cho

60.6 Page 596

▲back to top
chủng viện. Ngài thâu thập lại trong lòng bàn tay của mình cả
các lực lượng Hội Thánh của thành phố. Trong các thư mục vụ,
ngài khai mở trí hiểu về các vấn đề cụ thể của Hội Thánh cho
các tín hữu và kêu gọi họ hãy vững vàng trong đời sống đức tin
của họ hơn. Sau đây là hai ví dụ:
Trích từ thư mục vụ năm 1873: “Trong năm vừa qua, 40 linh
mục giáo phận qua đời, và chúng tôi đã phong chức cho 14 vị
mới! Anh em nghĩ sao, hỡi các anh em cùng các tín hữu thân
ái? Hàng giáo sĩ sẽ còn bao nhiêu kể từ đây cho đến một số
năm nữa, nếu anh em không đến trợ giúp chúng tôi và không
không cung cấp cho chúng tôi tất cả các phương tiện hầu đem
lại cho giáo phận có nửa triệu linh hồn này tất cả những linh
mục mà nó cần đến?”.
Trích từ thư mục vụ 1877 về việc giáo dục các trẻ nữ: “Việc
giáo dục mà chỉ giới hạn trong việc vun trồng tình cảm tôn giáo
cho các thiếu nữ, làm cho các em trở nên dễ thương liên quan
tới những chuyện có tính cách tình cảm trong các thực hành
đức tin; một thứ giáo dục chỉ bằng lòng với các hình ảnh trình
bày Đức Maria được đặt tại các nhà nguyện, với các đèn sáng,
và đồ trang trí bàn thờ, các nghi lễ phụng vụ rực rỡ, các tiếng
đàn tiếng hát du dương, hương thơm ngào ngạt, các bài giảng
làm thức tỉnh các tình cảm của con tim; nhưng lại không đả
động gì cả đến hành vi hy sinh, tới sự từ bỏ, sự khiêm nhường,
sự tha thứ vì tình yêu Chúa Giêsu, toàn bộ nền giáo dục như
thế sẽ không bao giờ có thể tự nhận là Kitô hữu, ngoại trừ theo
một nghĩa hết sức bất toàn; nền giáo dục đó sẽ không bao giờ
làm cho các thiếu nữ được thực sự trở thành các Kitô hữu của
Chúa Kitô.
- Ngài có một lòng sùng kính vững mạnh và kiên trì đối với
Đức Mẹ Maria. Vào buổi chiều trước khi ngài chết, ngài đã
muốn tới đền thờ Đức Mẹ của lòng thương xót. Ngài nói: “Nào

60.7 Page 597

▲back to top
chúng ta hãy đến tìm Mẹ chúng ta, chúng ta hãy đặt mình dưới
tà áo Mẹ. Thật là an ủi được sống, được chết dưới tà áo Mẹ”.
Khi tin cái chết của ngài (vào ngày 25-3-1883) tới Vatican,
Đức Hồng Y Nina, người bảo trợ chính thức của Tu Hội
Salêdiêng, nhuốm một vẻ buồn thảm sâu xa. Sau đó ngài đã đặt
bút viết rằng: “Tôi nghĩ các hành vi cuối cùng của hoạt động
mục vụ của ngài tác động đến các người Salêdiêng khốn khổ
của tôi có thể gây nên sự cản trở cho việc phong thánh cho
ngài”. Người ta không nghĩ phong thánh cho một dung mạo
nửa vời.
Sai lầm nền tảng của Don Bosco
Như vậy tại sao giữa Don Bosco và Gastaldi lại xẩy ra một cơn
bão tố ghê gớm và cay đắng như vậy? Tại sao sức căng thẳng
trở nên quá nghiêm trọng, khiến cho Vatican phải mở ra một
phiên tòa, và chính Đức Thánh Cha Lêô XIII phải xâm mình
vào? Don Bosco đã mắc một sai lầm nền tảng và đã phải trả giá
mắc. Trong một lá thư dài gửi cho Đức Tổng Giám Mục từ xứ
Borgo San Martino ngày 14-5-1873, Don Bosco đã hết sức năn
nỉ để thuyết phục ngài trở lại với tình bạn xưa cùng mình.
Nhưng vào cuối lá thư, Don Bosco đã viết những dòng chữ oái
ăm này: “Con ước ao rằng Đức Tổng Giám mục nên biết được
một số thông tin giữ kín tại tòa nhà chính phủ, đã bị rò rỉ bởi
một vài nhân viên chính phủ để rồi lan truyền đi khắp Torino
rằng vị kinh sĩ Gastaldi đã được làm Giám mục của Saluzzo
cũng là nhờ sự đề xuất của Don Bosco. Và nếu ngài đã trở
thành Tổng Giám Mục Torino, thì cũng do đề xuất của Don
Bosco”.
Cái sai lầm nền tảng của Don Bosco chính là việc tin rằng
những lời lẽ này và thái độ này sẽ gợi lên lòng biết ơn, trong
khi thực ra chúng chỉ khơi dậy sự hằn học, bực dọc nơi Đức
Tổng Giám mục Gastaldi.

60.8 Page 598

▲back to top
Trong thời điểm lá thư này được viết, những sự can thiệp của
Đức Tổng Giám mục đã dạt tới những mức độ rất nặng nề rồi.
Giờ đây Don Bosco lại dại dột viết ra những dòng kể trên, thì
nỗi tức giận của Đức Tổng Giám mục Gastaldi càng tệ hại biết
mấy. Nhắc nhở lại những chuyện trước kia, thì lẽ ra Don Bosco
đã phải hiểu ngay từ những ngày đầu tiên khi Đức Tổng Giám
mục tới địa phận Torino, Don Bosco cũng đã mắc phải những
sai lầm y như vậy, cho dù có tầm cỡ nhỏ bé hơn. Ngay lập tức
khi Đức Cha Gastaldi được bổ nhiệm làm Đức Tổng Giám mục
Torino, Don Bosco không chỉ cầu xin, mà còn thuyết phục ngài
bổ nhiệm kinh sĩ Bertagna làm phó đại diện Giáo phận. Vào
lúc Đức Tổng Giám mục vào thành phố, Don Bosco ở bên cạnh
ngài; lúc ấy Don Bosco đã đảm bảo là đã nhận được từ giới
chính quyền thành phố chống – giáo sĩ một sự đảm bảo cho
một cuộc đón tiếp long trọng (một điều đã không xẩy ra). Đối
với một người bình thản, thì những cách bày tỏ này nói lên một
tình bạn chân thành; nhưng đối với một người tính dễ tự ái quá
mức, thì những lời lẽ trên có nghĩa là những cách thức hành
động của một người muốn làm “kẻ che chở” (theo chứng từ của
Đức Cha Ré).
Vừa khi vào tới nhà thờ chính tòa và ngồi trên tòa dành cho
Giám mục, Đức Tổng Giám mục Gastaldi đã mạnh mẽ khẳng
định rằng việc tuyển chọn ngài là một cử chỉ bất ngờ của Chúa
Quan Phòng, mà ngài không hề coi đó như là một ân huệ do
loài người thí ban. Chính Chúa Thánh Thần là Đấng duy nhất
đã dặt ngài làm đầu của Tổng Giáo Phận. Đức Tổng đã nhắc lại
những lời này nhiều lần trong cùng một bài diễn văn và với
một sự nhấn mạnh ngoại thường. Đó là dấu hiển nhiên tỏ ra
rằng ngài muốn rũ sạch khỏi vai ngài một thứ che chở”. Đó
cũng là dấu ngài sẽ không đời nào chấp nhận tiếng đồn theo đó
Don Bosco đã kiếm cho được việc bổ nhiệm ngài vào chiếc ghế
này, một tin đồn đã lan ra trong khắp thành phố. Kinh sĩ
Sorasio có mặt trong bài diễn văn đó, đã thì thầm:

60.9 Page 599

▲back to top
- Không hay cho Don Bosco rồi, không hay cho Don Bosco
rồi!” (M.B., Cuốn X, tr. 230).
- Don Adamei đã viết rằng đó là “những ánh chớp đầu tiên”
báo hiệu “một cơn bão tố bất ngờ”.
Nhưng lá thư 14-5-1873 đã khai mào toàn bộ cơn bão tố đó.
Ngay cả cho một người bạn đi nữa, thì cũng khó mà tiếp nhận
một lời tự hào như sau: “Chính tôi đã xin được chiếc huy hiệu
Kỵ Sỹ cho bạn”. Đối với một Đức Tổng Giám mục như
Gastaldi là “một con người có một ý tưởng quá mức về quyền
bính Tổng Giám Mục của mình”, thì những lời trên có khác chi
mật đắng.
Ngay cả bốn năm sau đó, khi nói chuyện với nhà thần học
Tresso, cựu học sinh được Don Bosco quí mến, người tìm cách
đem lại sự hòa bình giữa hai người bạn, Đức Tổng Giám mục
cũng đã chua chát nhận định:
- Don Bosco tự hào đã lo cho cha làm Giám mục; Ông ta còn
viết cho cha một lá thứ để quở trách tôi về chuyện này; nhưng
tôi đã gửi thư ấy đi Roma để cho họ thấy rõ vị thánh nổi tiếng
mà họ đặt biết bao tin tưởng đó”.
Trách nhiệm của báo chí
Các tờ báo chống giáo sĩ đã đánh hơi được khả năng xúi Đức
Tổng Giám mục chống lại Don Bosco, và khi có dịp là họ thực
hiện ngay. Tờ Fanfulla ngày 16-10-1871 đã viết: “Để bổ nhiệm
các Giám mục trong các địa phận của Nước Ý, người ta đã sử
dụng tới các đề nghị của Don Bosco của Torino, được gọi cách
đặc biệt về Roma”. Tại Milan, một tờ báo gọi Don Bosco là
“Đức Thánh Cha bé nhỏ của xứ Piemonte” (và như người ta
biết, một Giám mục thì phải lệ thuộc vào Đức Thánh Cha).
Tờ Gazzetta của Torino, ngày 8-1-1878 đã viết: “Don Bosco
nổi tiếng đã có mặt ở Roma. Ngài được hưởng các cuộc vào

60.10 Page 600

▲back to top
Vaticano danh giá, tại đó Đức Thánh Cha nhìn ngài với con
mắt thiện cảm. Ngay cả các cửa của chính quyền cũng rộng mở
ra cho Don Bosco”. Trong số 6-7 tháng 5 – 1876, tờ Lanterna
del Ficácanaso còn viết rằng Đức Tổng Giám mục đã cấm Don
Bosco cử hành Thánh lễ bởi vì ngài đã quá gắn bó với Roma,
tách mình khỏi quyền bính Giám mục của ngài và đòi hỏi gia
sản thừa kế cho các người hấp hối. Rồi tờ báo kết luận: “Chúng
ta sẽ xem xem ai quyền thế hơn, phải chăng là Don Bosco hay
là Đức Tổng Giám mục Gastaldi”.
Những hàm ý mà báo chỉ kể ra ở trên (và của cả những phương
tiện khác mà chúng tôi không thể đan cử các danh tính ra) đã
đổ thật nhiều dấm vào các vết thương nhức nhối này.
Cắt nghĩa sự kiện sứt mẻ tình bạn giữa hai người bằng những
hạn từ như vậy, xem ra sự bất đồng giữa hai vị có thể bị nhìn
một cách thiên vị. Một đàng đóng một vai trò trong chuyện này
là sự được yêu mến và khâm phục của Don Bosco và tính nhạy
cảm quá mức của Gastaldi, một người không muốn làm một
thứ “đại diện” cho Don Bosco” (theo như những lời phát biểu
của nhà thần học Belasio trong năm 1876). Nhưng còn một vai
trò khác còn quan trọng hơn được thủ diễn bởi các yếu tố khác
nhau mà chúng ta sẽ lần mò ra (dù là qua một sự trình bày vắn
gọn) khỏi cuộn chỉ đã càng ngày càng rối tung lên trong suốt
13 năm của cuộc chung sống giữa hai nhân vật này.
Quyền lực đúng mức và quyền lực đi quá mức
Đức Tổng Giám mục đã làm những chuyện lớn để tái cơ cấu lại
giáo phận. Nhưng cái giá của những sự mất mát những con
người mà ngài phải trả để thực hiện những chuyện này là khá
cao: kết án các nhân vật trong địa phận, sự cứng ngắc thiếu
mềm dẻo, các quyết định thiếu cân nhắc, các thủ tục đáng ghét.
Với năm tháng trôi qua, “cái tính khí quá mạnh” của ngài càng
trở nên nghiêm trọng. Kinh sỹ Sorasio, thư ký của Tòa Giám

61 Pages 601-610

▲back to top

61.1 Page 601

▲back to top
Mục là người vào thời đó phải chấp thuận một số những việc
can thiệp nặng nề, đã viết vào năm 1917 cho Đức Hồng Y chủ
tịch Thánh Bộ Lễ Nghi rằng: “Thiên Chúa tha thứ cho con.
Đây là thời gian của quyền lực và quyền lực toàn năng, nếu
không muốn nói nhiều hơn nữa”.
Ngài dễ dàng cấm các linh mục của ngài hành lễ và giải tội (từ
thông dụng bên Công giáo là “treo chén”, tức là những hình
phạt nghiêm trọng đối với hàng giáo sĩ). Nhiều người đã theo
đuổi một vụ kiện tại Roma chống lại ngài. Trong tháng Hai
1878, tại Tòa Thánh, có tới 30 vụ kiện tụng giữa Đức Tổng
Giám Mục Gastaldi và các linh mục của địa phận Torino.
Trong những thời gian đầu tiên (khi sợi dây liên hệ còn thả
lỏng), Don Bosco đã kêu xin để ủng hộ cho một giáo sĩ cấp cao
tại nhà thờ chính tòa, tuy có một chút bướng bỉnh, nhưng rất tốt
lành. Đức Tổng Giám Mục đã cấm vị đó cử hành thánh lễ và
giải tội, và vị linh mục khốn khổ đó vì xấu hổ phải rời thành
phố Torino.
Một trường hợp vang âm khác là trường hợp của nhà thần học
Bertagna mà Don Bosco đã gợi ý để được bổ nhiệm làm phó
đại diện của giám mục. Khi đó vị này dạy thần học luân lý tại
Trung Tâm Mục Vụ Giáo sĩ kể từ 20 năm qua. Ngài thình lình
bị cấm dạy vào tháng Chín 1876. Ngài đã chịu cú đau này
trong im lặng và tới ẩn náu tại xứ quê hương ngài là
Castelnuovo trong khi Trường Mục Vụ giáo sĩ bị đóng cửa. Do
bị nhục nhã, Don Bertagna đã ốm nặng. Sau đó, vào năm 1879,
Đức Giám Mục Asti là Đức Cha Saviô, đã gọi ngài về Asti và
bổ nhiệm làm Tổng Đại diện. Cha Bertagna xứng đáng được
coi là một trong những nhà luân lý có uy tín nhất trong thời đại
ngài. Năm 1884, Đức Hồng Y Alimonda (người kế vị Gastaldi)
đã phong chức Giám mục Phụ tá của giáo phận Torino và đặt
ngài làm Giám đốc chủng viện của Tổng Giáo phận.

61.2 Page 602

▲back to top
Cha Luigi Testa, thuộc Dòng Tên, rất được lắng nghe tại
Roma, đã viết khi ấy rằng: “Tôi đã giàn xếp rất nhiều các
chuyện bất đồng giữa Đức Tổng Giám Mục Gastaldi và các
nhân vật quan trọng... Tại Roma, người ta mệt nhọc và đầy ắp
đến cổ các vụ việc của Tổng giáo phận Torino này”.
Tuy nhiên sẽ nông cạn nếu coi Tổng Giám Mục Gastaldi là một
hỏa diệm sơn. Do bản chất tự nhiên, ngài khiêm nhường, quảng
đại, dễ mến. Như người ta nói: Ngài có một “trái tim vàng”.
Nhưng đối với các công việc ngài xử lý, vừa khi ngài cảm thấy
mình trong tư cách Tổng Giám Mục, thì xẩy ra ngay điều mà
trong lịch sử Hội Thánh (tôi nghĩ mình có thể nói như vậy đã
đến với nhiều nhân vật: Ngài liền trở thành quyền uy, bất biến.
Những nhân vật này tỏ ra “không thương xót nhân danh Thiên
Chúa”. Người ta cảm nghiệm ở nơi họ cái con người đại diện
cho Thiên Chúa toàn năng hơn là đại diện của “Con Thiên
Chúa – trong vai bác thợ mộc, Đấng đã nên tôi tớ của các tôi
tớ, đã rửa chân cho những tôi tớ khác và để cho mình bị đóng
đinh vào thập giá”!
Yếu tố thứ nhất: Nguyện Xá của Don Bosco thiếu kỷ luật
Sự cứng rắn của Đức Tổng Giám mục, càng trở nên cứng cỏi
hơn vì sợ mình “bị coi là một tạo vật của Don Bosco” trước
con mắt các giáo dân của mình, và ngài đã dùng nó đế chống
lại Tu Hội trẻ còn trong trứng nước.
Yếu tố thứ nhất ngài tấn công chính là “tính cách thiếu kỷ luật
tại Nguyện Xá”. Cha Pietro Stella viết: “Ngài không chịu nổi
nhiệt tình giống như sức một núi lửa của Nguyện Xá và của Tu
Hội Salêdiêng, là cái được làm chủ bởi nắm tay của Don
Bosco, nhưng nó có thể hiện ra đối với những người bên ngoài
như là một đống ồn ào và hỗn độn chứa đựng các sức lực
không ăn khớp với nhau, khiến cho trong tương lai rất gần sẽ

61.3 Page 603

▲back to top
phải đòi hỏi đến các biện pháp can thiệp đau đớn của quyền
bính hợp pháp”.
Cả những người khác tại Torino cũng có ấn tượng tiêu cực về
bầu khí của sự thân tình thánh thiện mà sự vui tươi của Don
Bosco tạo nên. Đức cha Gaetano, đặc trách về các chuyện của
Tòa Thánh tại chính phủ Torino, trong một bài tường trình dài
đã viết: “Tôi có một ấn tượng đau đớn khi thấy vào các giờ
chơi các thầy giáo sĩ trộn lẫn với đám trẻ đang theo học các
nghề may, mộc, đóng giầy,v.v..., họ chạy nhẩy, vui chơi, với
rất ít sự trang nghiêm giáo sĩ. Don Bosco tốt lành thì bằng lòng
là các thầy tư giáo của mình cầm lòng cầm trí tại nhà thờ là đủ,
còn ít quan tâm đến gieo sâu vào trong lòng họ những tình cảm
của sự nghiêm trang của bậc sống của mình mà họ muốn ôm
ấp”. Theo Đức Cha Tortone, thì Don Bosco lẽ ra phải dạy các
thầy tư giáo của mình “giữ một khoảng cách” khỏi các trẻ học
may hay đóng giày. Cái đó thực là rất xa với cảm nhận của
Don Bosco.
Một lý do khác của sự căng thẳng
Với “cái tính cách vô kỷ luật” này, thì xem ra Đức Tổng Giám
Mục Gastaldi đã nghĩ đến đích thân sửa chữa lại. Và chúng tôi
xin đan cử ra đây hai giai thoại khá huyền bí mà chúng ta khó
có thể cắt nghĩa thấu suốt được, nhưng có lẽ nó nói lên lý do
khác của “mối quan hệ rất căng” giữa đôi bên.
Vừa mới nhận chức Tổng Giám Mục Torino, thì Don Bosco
ốm nặng tại Varazze (như chúng ta đã kể). Đức Tổng Giám
Mục Gastaldi hỏi thăm tin tức, và khi ngài nghiệm ra bệnh tình
Don Bosco nghiêm trọng, ngài liền hỏi cha Cagliero:
- Vậy anh em có vững chắc và quyết tâm trong ơn gọi của anh
em không?
- Thưa Đức Cha chúng con hiện có hơn 150 hội viên.

61.4 Page 604

▲back to top
- Vậy nếu người cha Don Bosco của anh em qua đời thì sao?
- Chúng con sẽ tìm một người “Bác” tiếp nối chỗ của cha.
- Tốt lắm, tốt lắm! Nhưng chúng ta hy vọng là Chúa gìn giữ
ngài.
Cha Amadei bình luận rằng: Đối với cha Cagliero, thì hình như
nếu Don Bosco có chết đi, thì các Salêdiêng sẽ chạy tới ngài để
xin ngài điều hành”. Đó cũng là ý tưởng của Đức Ông
Marengo, người mà Don Cagliero kể lại cuộc gặp gỡ trên, và
ngài có bình luận rằng: “May là cha đã không nói gì thêm. Một
đề nghị thêm sẽ rất tai hại cho Tu Hội”.
Khi Don Bosco lành bệnh trở lại Torino từ Varazze, Đức Tổng
Giám Mục tới chào ngài. Kinh sỹ Anfossi có mặt tại Valdocco,
kể lại rằng trong khi các trẻ con tìm cách nói lên một lời chào
đón để chúc mừng Đức Tổng Giám Mục đến, “thì tôi thấy Đức
Tổng Giám Mục xuống cầu thang với những bước đi vội vã mà
Don Bosco không theo kịp. Ngài không quan tâm đến những
tiếng chúc mừng của đám trẻ. Tôi mới nói với Don Bosco:
“Buổi lễ kết thúc không tốt rồi. Liệu có điều gì chăng?” Don
Bosco trả lời: “Cha còn muốn gì thêm nữa! Đức Tổng Giám
Mục muốn đứng đầu Tu Hội và chuyện này không thể được;
người ta sẽ không bao giờ thấy chuyện này xẩy ra...:” (M. B.
Cuốn X, tr. 311). Cụ thể Đức Tổng Giám Mục Gastaldi muốn
đề nghị gì? Chắc là ngài muốn Don Bosco có quay trở lại phía
sau để biến các Salêdiêng thành một Tu Hội thuộc giáo phận?
Rất có thể sự thể là như thế. Thật mạo hiểm biết mấy khi nghĩ
rằng Đức Tổng Giám Mục suy nghĩ đến chuyện ngài trở thành
thủ lãnh thực thụ của Tu Hội Salêdiêng? Năm 1874, ngài sẽ
viết cho Đức Hồng Y Bizzari như sau: “Don Bosco là một
thiên tài đặc biệt để giáo dục của học sinh, nhưng hình như cha
không có cái tài năng đó để giáo dục các giáo sĩ trẻ”. Còn Đức
Tổng Giám Mục thì ngài nghĩ mình có tài năng đó để đưa tay

61.5 Page 605

▲back to top
nắm chắc lấy Tu Hội trong giây lát và “sắp đặt mọi chuyện vào
chỗ của nó”. Còn Don Bosco kể từ đây sẽ tiếp tục là “người
cha tốt lành” sao cũng được của Nguyện Xá. Cái khả thể đó giờ
đây đã vuột khỏi tay Đức Tổng Giám Mục, nên ngài tìm cách
áp đặt một kỷ luật sắt, mà đã sớm trở thành một cuộc bách hại.
Mọi khiếm khuyết, mọi sự chậm trễ đều bị lên án là “sự bất
tuân phục”, “sự nổi loạn”, “sự vô kỷ luật”.
Nói thêm các chi tiết khác sẽ là chuyện không có cảm quan tốt.
Cuộc cãi lộn rốt cuộc vẫn là những cuộc cãi lộn.
Luật Tu Hội được phê chuẩn vĩnh viễn
Ngày 30-12-1873 Don Bosco lên đường đi Roma.
Có cuộc thảo luận tại Tòa Thánh, sau khi đã có những cuộc dãn
lại và đặt lại vấn đề rất nặng nề, về một vấn đề sinh tử cho Tu
Hội Salêdiêng: việc phê chuẩn vĩnh viễn Tu luật.
Đức Thánh Cha bổ nhiệm một ủy ban gồm bốn Hồng Y.
Các cuộc thảo luận và các việc sửa liên tục bản văn kéo dài cho
tới tháng Tư. Đức Tổng Giám Mục Gastaldi can thiệp chống lại
việc phê chuẩn qua lá thư ngài viết cho Đức Hồng Y Bizzari
trình bày quan điểm của ngài như chúng ta đã nêu ra ở phía
trước: Don Bosco có khả năng giáo dục các người trẻ nhưng
không có khả năng giáo dục các giáo sĩ và các linh mục.
Vào đầu tháng Tư có cuộc biểu quyết cuối cùng của ủy ban các
Hồng Y: ba phiếu thuận, một phiếu chống. Đức Piô IX được
cho hay còn thiếu một phiếu nữa để giải quyết cuộc thảo luận,
đã tuyên bố:
“Lá phiếu đó sẽ là của Tôi”.
Hôm đó là ngày 3 tháng Tư, Mười ngày sau sắc lệnh chấp
thuận vĩnh viễn Tu Hội Salêdiêng được ban hành. Thánh bộ lúc
này được đặt dưới quyền lệ thuộc chặt chẽ vào Đức Thánh Cha

61.6 Page 606

▲back to top
ban cho Don Bosco năng quyền mười năm giới thiệu bất cứ
người Salêdiêng nào để thụ lãnh các Chức Thánh.
Nhưng tại Torino sự việc không thay đổi gì cả.
Các danh sách “những biện pháp trừng phạt”
Ngày 16-12-1876, Don Bosco trình bày trong một lá thư cho
Hồng Y Ferrieri các “điểm chính của sự xích mích”. Và đây là
danh sách:
- Tháng Chính 1876, Don Bosco bị treo quyền giải tội (Kinh sĩ
Zappato bình luận trong cơn tức giận: “Nhưng đó là những
chuyện chỉ những kẻ say sưa mới phải gánh chịu!”). Don
Bosco buộc phải rời khỏi Torino vì các trẻ em có thói quen
xưng tội với ngài. Không bao giờ Đức Tổng Giám Mục cho
biết lý do của biện pháp này;
- Cấm các nhà Salêdiêng tổ chức giảng Tuần Tĩnh tâm cho các
giáo viên ngoại trú;
- Thu hồi phép giảng thuyết khỏi một số các linh mục
Salêdiêng;
- Đức Tổng Giám Mục từ chối tham dự vào các cuộc cử hành
lễ long trọng của Nguyện Xá và cấm mời các Đức Tổng Giám
Mục khác (ngay cả các đợt xuất phát truyền giáo cũng chỉ được
cử hành không có Giám mục);
- Từ chối ban phép Thêm Sức cho các trẻ em Nguyện xá và
cấm các Đức Giám Mục khác ban thêm sức tại đó.
Don Bosco bình luận trong một lá thư rằng: “Những biện pháp
này giả thiết các lý do nghiêm trọng, và chúng con không được
biết các lý do đó. Điều này tạo nên một gương mù trong thành
phố”.

61.7 Page 607

▲back to top
Ngày 25-3-1878, Don Bosco cho Đức Hồng Y Oreglires hay
một danh sách mới “các hình phạt”:
- Don Bosco bị đe dọa ngưng lập tức quyền giải tội nếu ngài
viết bất cứ một điều gì bất lợi cho Đức Tổng Giám Mục, trừ
trường hợp viết cho Đức Thánh Cha, cho Đức Hồng Y Quốc
Vụ Khanh, cho Đức Hồng Y đặc trách Các Dòng Tu;
- Một số các Salêdiêng bị ngưng quyền giải tội, và còn tiếp tục
bị ngưng như thế suốt 8 tháng;
- Đức Tổng Giám mục từ chối phong chức cho những ứng sinh
linh mục được đệ trình lên ngài, điều đó gây thiệt hại cho các
nhà Salêdiêng và các công cuộc truyền giáo Salêdiêng.
Nhưng Đức Tổng Giám Mục còn gửi tới Roma “các danh
sách” của ngài nữa. Cha Ceria viết: “Sự tiếp tục không ngừng
nghỉ các lời tố giác vì bất cứ lý do gì mà Đức Tổng Giám Mục
coi là không đáng vinh dự cho Don Bosco và Tu Hội của ngài
kết cuộc đã dẫn tới những sự nói bóng gió, hay thì thầm làm
mất uy tín của Don Bosco và Tu Hội của ngài giữa các Hồng Y
không có một sự hiểu biết chính xác về các sự việc”.
Chẳng hạn Đức Hồng Y Ferrieri, trong suốt cả đời sống ngài,
chống lại các Salêdiêng, tin chắc rằng đó là “một đống hỗn độn
giả tạo và tạm bợ của một số đông tụ tập lại”.
Nhưng điều làm đau lòng Don Bosco hơn cả chính là sự kiện
chính bản thân Đức Piô IX, sau bao năm luôn luôn là bạn và
người che chở cho Don Bosco, đã lạnh lùng đối với ngài. Don
Ceria viết: “Việc liên tục trình bày Don Bosco như là một con
người bướng bỉnh và nổi loạn đã tác động trên tình cảm của
Đức Thánh Cha”.
Đức Piô IX qua đời vào ngày 7-2-1878. Don Bosco lúc đó
đang ở Roma và gõ mọi cánh cửa để được bệ kiến ngài, nhưng
đã không thể được thấy ngài.

61.8 Page 608

▲back to top
Đức Thánh Cha mới thử thách Don Bosco
Ngày 20-2-1878, Mật tuyển viện các Hồng Y đã bầu Đức Leon
XIII làm Đức Thánh Cha mới.
Ngài tiếp nhận Don Bosco vào bệ kiến ngày 16-3-1878. Lập
tức một tin đầy phấn khởi loan báo về cuộc bệ kiến này: Đức
Thánh Cha chấp nhận ghi danh mình vào danh sách các Cộng
Tác Viên, nhìn nhận “ngón tay của Thiên Chúa” trong các công
cuộc Salêdiêng, ban những chúc lành nồng nhiệt cho các nhà
truyền giáo. Nhưng chỉ có một điểm việc thông tin chỉ thoáng
qua mà thôi: về phía “những khác biệt của chúng ta với Đức
Tổng Giám Mục Torino, thì Đức Thánh Cha nói là là ngài đợi
báo cáo chính thức của Thánh Bộ các Dòng Tu”.
Trong tường trình riêng tư cho các Salêdiêng, Don Bosco nói
kém vẻ đắc thắng hơn: “Ngài cho thấy rõ ràng ngài đã phải
chịu đau khổ đến mức nào: những cuộc bệ kiến bị ngăn cản,
những lá thư bị chặn lại, sự chống đối công khai hay bí mật từ
mọi phía, những lời nói cứng cỏi và cay đắng, nhục nhã”.
Đức Thánh Cha Leon XIII hiển nhiên biết đến các cuộc tranh
cãi nghiêm trọng đang treo lơ lửng trên đầu vị linh mục Torino
này và nếu ngài giải quyết chúng với bàn tay đeo găng, thì
chính ngài lại hết sức lo lắng tìm hiểu cách tường tận. Quanh
Don Bosco, các đối thủ rất nhiều và rất thiện chiến.
Một trong các người bạn trung thành của Don Bosco vào thời
điểm đó là Đức Hồng Y Alimonda, người đang tìm cách để
“chứng minh” cho Đức Leo XIII về sự thánh thiện của Don
Bosco; một bằng chứng nghiêm chỉnh trong đó tỏa sáng tất cả
cái giá trị của vị linh mục khổ đau này.
Vậy trong thời điểm đó người ta đã cố gắng xây tại Roma một
Đền thánh kính Thánh Tâm Chúa Giêsu. Bất chấp những cố
gắng của chính bản thân Đức Thánh Cha tham gia vào công

61.9 Page 609

▲back to top
việc này, lời kêu gọi các Giám mục của toàn thế giới, cuộc lạc
quyên được thực hiện trong nhiều quốc gia, các công việc đã
phải ngừng lại ở ngay tại sân nền móng mà thôi.
Đức Thánh Cha thất vọng về chuyện này. Chính trong những
trường hợp này, Đức Hồng Y Alimonda can thiệp vào:
- Tâu Đức Thánh Cha, Con đề nghị với Đức Thánh Cha một
phương thức chắc chắn để công trình này thành công.
- Phương thức nào?
- Trao nó cho Don Bosco.
- Nhưng Don Bosco sẽ nhận hay sao?
- Tâu Đức Thánh Cha, con biết rõ Don Bosco và lòng sùng
kính hoàn hảo và tuyệt đối dành cho Đức Thánh Cha. Nếu Đức
Thánh Cha đề nghị chuyện này với Don Bosco, con tuyệt đối
chắc chắc là Don Bosco sẽ nhận lời.
Don Bosco khi đó đã ngụp chìm trong các phí tổn lớn lao. Ngài
đã xây dựng hai thánh đường: Nhà thờ thánh Gioan, Tác giả
Tin Mừng, tại Torino và Nhà thờ Đức Mẹ Phù Hộ tại
Vallecrosia[15] Ngài còn đang xây dựng ba nhà tại Marseille,
Nice, la Spezia, và đã 65 tuổi.
Ngày 5-4-1880, Đức Lêô gọi ngài đến. Đức Thánh Cha đưa ra
đề nghị và thêm rằng nếu Don Bosco nhận, thì Don Bosco sẽ
làm một việc rất thánh thiện và “vô cùng tốt đẹp” đối với Đức
Thánh Cha. Don Bosco trả lời:
- Ước ao của Đức Thánh Cha đối với con là một lệnh. Con
chấp nhận nhiệm vụ mà Đức Thánh Cha đã ưu ái trao phó cho
con.
- Nhưng cha không thể cho con tiền bạc được.

61.10 Page 610

▲back to top
- Con không xin tiền bạc. Con chỉ xin chúc lành của Đức
Thánh Cha. Và nếu Đức Thánh Cha cho phép, thì ở bên cạnh
nhà thờ này, chúng con sẽ xây một Nguyện Xá với một trung
tâm lớn từ đó có thể rất nhiều trẻ em sẽ được gửi tới trường học
và các xưởng học nghề và nghệ thuật, cách riêng là các trẻ em
thuộc các khu phố bị bỏ rơi.
- Tốt lắm. Cha chúc lành cho con và tất cả những người sẽ góp
sức cho công cuộc thánh thiện này.
Tiến trình xét xử tại Vatican
Các mối tương quan với Đức Tổng Giám Mục trong những
tháng này càng trở nên tệ hại hơn. Don Bosco để bảo vệ Tu
Hội buộc phải đem sự việc lên Vatican, nơi diễn ra một phiên
xử bình thường.
Người cháu của Đức Tổng Giám Mục tên là Lorenzina Mazé
della Roche, khi lo việc tiến hành phong chân phước cho Don
Bosco, đã tuyên bố bằng lời thề rằng:
“Kể từ năm 1873, xẩy ra những chuyện xích mích giữa Don
Bosco và Đức Tổng Giám Mục Gastaldi, người bác đáng kính
của tôi...Tôi được biết những tin đồn giữa công chúng và qua
những lời tâm sự của Don Bosco cho chính bản thân tôi và cho
mẹ của tôi, để khích lệ chúng tôi tìm cách trực tiếp báo cho
Đức Tổng Giám Mục những chuyện xì xầm đang phổ biến
cách riêng giữa hàng giáo sĩ và đồng thời kinh qua các kênh
báo chí. Cáo hại cho cả hai bên. Những cuộc đối kháng đã là
chiếc gai đâm mãi mãi vào trái tim tôi và vào trái tim mẹ tôi...
Trong tất cả các cuộc nói chuyện với mẹ tôi và với tôi về điều
này, ta thấy rõ được là Don Bosco đã đau khổ đến mức nào vì
các thử thách cam go... Nhưng Don Bosco luôn luôn nói về
Đức Tổng Giám Mục với một sự tôn kính và một đức bác ái
mà chúng tôi cảm thấy phải ngưỡng mộ mà noi gương.

62 Pages 611-620

▲back to top

62.1 Page 611

▲back to top
Trên trang nhật ký của tôi vào những năm đó, tôi rút ra được
những lời tôi đã ký thác vào đó: “Tại sao Đức Tổng Giám mục,
Bác của chúng ta lại đã thay đổi như thế? A! Con người đã
đóng vai trò buồn thảm là khơi dậy cuộc bất hòa như vậy, chắc
chắn sẽ cảm thấy những sự hối hận lớn lao”.
Tôi như nhận thấy rằng một trong những kẻ chủ yếu khơi dậy
những cuộc bất hòa này phải kể vị thư ký của Đức Tổng Giám
Mục Bác của chúng tôi, tức là nhà Thần học Tommaso Chiuso,
vừa mới chết cách đây vài năm, đó là người mà tôi ngầm nhắc
tới trong những lời tôi vừa nói đến ở trên. Tôi rất thường được
mời tới dùng bữa với Bác của tôi Đức Tổng Giám Mục, tôi đã
nghe được những lời diễu cợt và những lời châm biếm liên
quan tới những người ở Valdocco, hay đúng hơn: những người
ở chỗ đó...
Tôi ghi nhận trong những trang nhật ký của tôi những lời của
Don Bosco: “Mình cứ muốn mình phải mạnh mẽ và duy trì sự
can đảm đi, nhưng để rồi chất đống những phản cảm và những
phản cảm, và trái tim khốn khổ cảm nhận những sự tê tái của
chúng và tan nát ra”. Chưa bao giờ tôi đã trông thấy trong suốt
cả đời tôi là Don Bosco đã đổi dạng cả dung mạo, nhưng mà
lần đó, trong khi ngài nói chuyện, thì mặt ngài lúc thì xanh lợt,
lúc thì tím lại...
Đàng khác, tôi có thể và phải làm chứng rằng Bác đáng kính
của tôi trong khi nói với tôi đã tỏ ra là rất đau khổ, không
những chỉ qua các lời nói, mà còn trong những nét buồn bã, vì
lẽ những mối tương quan với Don Bosco đã không còn được
như lúc ban đầu của Nguyện Xá nữa”.
Cuộc xử án giữa Don Bosco và Đức Tổng Giám Mục đã được
bàn cãi ngày 17-12-1881. Tám Hồng Y tham dự vào đó. Hai vị
bỏ phiếu ủng họ Đức Tổng Giám Mục, 4 vị bỏ phiếu cho Don
Bosco. Đức Thánh Cha sau khi đã nhận ra kết quả, đã cho

62.2 Page 612

▲back to top
ngừng cuộc bàn cãi lại. Ngài nói với Đức Hồng Y Nina, Đấng
bảo vệ chính thức cuả Tu Hội Salêdiêng: “Phải cứu vãn quyền
bính. Don Bosco nhân đức nên có thể thích nghi với mọi sự”.
Đó là ván bài thứ hai mà Đức Thánh Cha muốn thử, để đo
lường mức thánh thiện của Don Bosco.
Chén đắng dành cho Don Bosco
Chính Đức Thánh Cha ấn định các điều kiện cho cuộc “hòa
giải”, với một khuôn phép ngôn từ chỉ có trong một nền ngoại
giao tinh tế. Tuy nhiên điều cốt yếu lộ ra rất rõ và không để lại
chỗ cho một sự tránh né. Đó là một đàng Don Bosco phải viết
một lá thư xin lỗi Đức Tổng Giám Mục, một đàng Đức Tổng
Giám Mục trả lời là ngài sung sướng lấy một tảng đã lấp đi cái
quá khứ.
Don Bosco phải nuốt mật đắng. Ngài họp Hội đồng của Tu Hội
lại, và đọc nguyên bản của tờ “Hòa giải”. Tất cả đều kinh ngạc.
Có người đề nghị là phải xin một thời gian để suy nghĩ đã.
Chính Don Cagliero đã cho nổ bung cái nút khúc mắc đó bằng
những lời thẳng thắn:
- Đức Thánh Cha đã nói và chúng ta buộc phải vâng lời. Đức
Thánh Cha đã lấy quyết định trên vì ngài biết Don Bosco và
ngài biết rằng mình có thể tin tưởng vào Don Bosco. Không
cần phải có gì thêm nữa. Chỉ cần duy một việc là phải vâng
phục”.
Don Bosco đã viết thư xin lỗi. Và Đức Tổng Giám Mục đã trả
lời: “Với tất cả tấm lòng, tôi chấp thuận lời xin tha thứ”.
Ngày sau đó Don Bosco viết cho Đức Hồng Y Nina một lá thư
theo đó người ta có thể đo lường được liều thuốc cay đắng mà
ngài đã phải cố nuốt và những hậu quả chua chát đang dần thể
hiện:

62.3 Page 613

▲back to top
“Tại Tòa Giám mục, người ta vui sướng vì những sự nhục nhã
người ta đã làm cho Don Bosco phải đau khổ. Những chuyện
đàm tiếu, phổ biến với ác ý, cắt nghĩa sai lệch, đè bẹp những
người Salêdiêng khốn khổ. Đã có hai vị giám đốc nhà xin rút
lui khỏi Tu Hội vốn đã trở thành trò cười của các bậc quyền
thế. Đàng khác các linh mục của chúng con và các chủng sinh
của chúng con cũng xin y như thế. Tuy nhiên con muốn giữ
tuyệt đối im lặng, như con đã viết cho Đức Hồng Y đáng kính”.
Thanh thản nhưng hoàn toàn suy sụp
Đức Lêô XIII, vị Đại Giáo Hoàng trong lịch sử Hội Thánh khởi
sự từ giờ phút đó đã có những cử chỉ tốt lành rất tinh tế đối với
Don Bosco. Chính ngài bổ nhiệm Don Gioan Cagliero làm
Giám Mục Salêdiêng đầu tiên và còn ban cho các “đặc ân” làm
cho Tu Hội được quyền miễn trừ không chỉ trong 19 năm, mà
còn vĩnh viễn khỏi sự lệ thuộc vào quyền bính của các Đức
Giám Mục trong vấn đề tế nhị là việc phong chức thánh.
Nhưng khi ngài mới được bầu làm Giáo hoàng, Ngài đã tìm
thấy ở Vatican có cả một môi trường thù nghịch với Don
Bosco và qua hai thử thách trên, ngài đã đo lường được sự
thánh thiện của Don Bosco.
Để xem xem một viên đá có chứa vàng hay không, người ta
phải vất nó vào trong độ nhiệt của nồi nấu kim loại. Nếu nó sản
xuất ra vàng, nó sẽ là một khoáng sản quí, còn nếu không nó
chỉ là rác rưởi. Don Bosco đã bị thử thách như thế. Từ ngài
xuất ra vàng, và là vàng ròng. Tuy nhiên con người nhân loại
của ngài bị tiêu hao, thành bọt. Cha Morand Writh viết: “Kể từ
năm 1884, Don Bosco chỉ còn là cái bóng của chính mình”.
Xin lỗi Đức Tổng Giám Mục là người đã quất đòn vào ngài
trong suốt 10 năm trời là cái đã khiến ngài phải trả giá quá
mắc. ngài không sinh ra, như chúng ta đã nói, để mà đưa má
bên kia cho người ta vả. Ngài buộc cho người ta phải chấp

62.4 Page 614

▲back to top
nhận ngài bằng một nỗ lực kinh khiếp. Việc xây dựng thánh
đường Thánh Tâm Chúa Giêsu đã nuốt chửng một triệu rưỡi
lires, đã buộc ngài phải gánh chịu trong những năm sức khỏe
thể lý giảm thiểu, những nỗi khó nhọc vượt quá sức con người.
Don Bosco đã chấp nhận tất cả bởi đức tin vào Đấng Đại Diện
Chúa Kitô và bởi tình yêu Tu Hội đang cần một cách tuyệt đối
sự quí mến của Đức Thánh Cha.
Don Bosco đã thoát ra khỏi những thử thách này một cách
thanh thản nhưng hoàn toàn suy sụp. Vì lý do đó Tu Hội đã
triển nở một cách rực rỡ: Tu Hội đã được phát sinh từ một linh
mục chịu đóng đinh.
Lorenzo Gastaldi (1815-1883), Giámmục Saluzzoe Tổng Giám
mục Torino

62.5 Page 615

▲back to top
Chương 48
CÁC CUỘC HÀNH TRÌNH LỚN:
QUA PHÁP VÀ TÂY BAN NHA
“Cây Thánh Giá của Công trình Nhà Thờ Thánh Tâm” bắt đầu
đè nặng lên vai Don Bosco.
Trước tiên Don Bosco sai Don Dalmazo, rồi Don Angelo Saviô
tới Roma để tìm hiểu về công việc và “kiểm soát những chi
phí”. Tiếc thay theo một truyền thống thông thường tại Roma,
thì “các công trình của Giáo Hoàng là có ăn cho mọi người”.
Don Bosco chuyển đến cha Dalmazzo những những yêu
cầu rất thúc bách theo hướng này: “Có thiếu một kiểm soát
viên theo dõi các đồ đạc nhập vào không?”, “Hãy để ý đến giá
cả”, “Ai coi sóc các vật liệu buộc phải di chuyển sang chỗ
khác?”, “Người ta có làm việc ít? Có ăn cắp trong nhà hay ở
ngoài? Có phí phạm vật liệu? Nhất là những chiếc bàn?”, “Hãy
để một người biết công việc giám sát”…
Thế rồi Don Bosco lại tái thúc đẩy cả một bộ máy hoạt động
quyên góp tiền đã bao lần được thử nghiệm: Các thư luân lưu
bằng nhiều ngôn ngữ, các cuộc xổ số, việc quyên góp, các thư
cá nhân. Công việc này không phải là một thứ đũa thần. Nó đòi
hỏi nhiều lao nhọc, những sự nhục nhã, việc kiểm soát, những
nặng nhọc ghê gớm của nhiều hội viên. Gánh nặng hơn cả
chính Don Bosco đưa vai gánh vác.
“Cha gánh vác nhà thờ Thánh Tâm Chúa trên đôi vai”
Don Rua trong lời khai có kèm theo việc tuyên thệ trong án vụ
phong chân phước cho Don Bosco làm chứng rằng: “Thật xe
lòng thấy cha lên xuống các bậc cầu thang để xin bố thí, và trơ
mặt chịu những sỉ nhục gay go. Ngài chịu đau khổ biết mấy,
nên đôi khi giữa những người thân, trong nơi riêng tư, có hỏi

62.6 Page 616

▲back to top
ngài là làm sao một người có thể cúi mình xuống như vậy, ngài
trả lời: “Cha gánh vác nhà thờ Thánh Tâm Chúa trên đôi vai”.
Một lần khác, trong khi nói đùa vui vẻ, ngài nói: “Người ta nói
Hội Thánh bị bách hại. Còn cha, ngược lại, cha có thể nói Hội
Thánh bách hại cha!”. Người ta có thể nói được rằng cha đã rất
yếu ớt về vấn đề sức khỏe trong nhiều năm rồi, và một công
việc nặng nề như vậy sẽ làm cạn kiệt một phần lớn sức lực của
cha nữa”.
Nỗi mệt nhọc nặng nề nhất mà cha phải dấn mình vào chính là
“cuộc hành trình lớn sang Pháp” mà cha đi từ tỉnh này sang
tỉnh khác để ăn xin trong suốt 4 tháng: từ 31-1 cho đến 31-5
năm 1883.
Chúng tôi xin có một thoáng nhận định. Don Bosco khi đó đã
68 tuổi, cha còn sống được 5 năm nữa. Tu Hội của cha đã phát
triển rộng rãi và thế giới đang trải qua một trong những thời kỳ
biến động sâu xa nhất về các ý tưởng và các cơ cấu. Don Bosco
đáng lý đang cần phải có có thời giờ để có thể thử làm một
tổng hợp ý tưởng của ngài, các trực giác của ngài là những cái
tạo nên nền tảng cho các công cuộc của ngài. Ngài phải sử
dụng chút ít thời gian còn lại để tái suy nghĩ lại về các

62.7 Page 617

▲back to top
Chương trình hành động của mình trong bối cảnh xã hội đang
thay đổi nhanh chóng, để cung cấp một tổ chức vững chắc cho
Tu Hội.
Trái lại, trong những năm còn khả năng làm việc cuối đời, ngài
bị bó buộc “phải đi kiếm các đồng tiền xu” để xây dựng một
nhà thờ. Đấy chẳng phải là việc đi xin tiền cho các trẻ nghèo
khổ của ngài, mà là đã xây dựng những bức tường của một nhà
thờ tại Roma. Từ vòm mái cho tới tận đất, đấy là một câu
chuyện hoàn toàn làm cho người ta phải sững sờ.
Nhưng đồng thời, chính những năm “bị đốt cháy” này đã buộc
Don Bosco phải thực hiện hai cuộc hành trình lớn (qua Pháp và
Tây Ban Nha), đã trở thành cho ngài một cuộc khải hoàn của
“người của Thiên Chúa”. Những thời gian đó cho ngài cơ hội
để đốt sáng lên “cảm thức về Thiên Chúa” giữa những khối
quần chúng đông đảo.
Marx đã định nghĩa “tôn giáo là thuốc phiện của dân chúng” có
sức làm quên đi mọi sự. Bakounine đòi hỏi các người tham gia
phong trào của ông ta phải công khai hành nghề “chủ nghĩa vô
thần”. Công Xã Paris[16] lại vừa mới biểu lộ những dấu hiển
nhiên của chủ nghĩa vô thần chiến đấu. “Các Hội Thánh Kitô
giáo buộc phải duyệt xét lại các toan tính của mình, không phải
với các hiện tượng vô tín ngưỡng có giới hạn trong các lãnh
vực tương đối của các nhà lãnh đạo, mà là với sự xa lìa thực
hành tôn giáo và sự vâng phục Hội Thánh rất nghiêm trọng”
(Trích từ Francesco Traniello).
Toàn thể xã hội đánh mất cảm thức về Thiên Chúa và sự kính
trọng thần linh đối với sự sống của con người. Trong những
ngày của Công Xã Paris, sự vô đạo của các thành viên Công xã
hiển nhiên không tệ hại hơn sự vô đạo của những người phe
trưởng giả đã dập tắt Công xã bằng những phát đại bác, giết hết

62.8 Page 618

▲back to top
thảy 14000 công nhân (và những công nhân thời đó là những
đàn ông, đàn bà và trẻ con).
Don Bosco đã gánh chịu những nỗi mệt nhọc cuối cùng của
ngài không phải vì một nhà thờ hay vì các người trẻ nghèo khổ,
mà còn vì tất cả một thế hệ đang liều đánh mất cảm thức về
Thiên Chúa và về những giá trị của cuộc sống. Thế hệ này tại
Pháp và tại Tây Ban Nha tái khám phá ra được “cảm thức về
Thiên Chúa” và “sự tận tụy phục vụ tha nhân” nhờ vào cuộc
hành trình của ngài.
Paris bừng lửa nhiệt tình
Chúng ta hãy dõi theo cuộc hành trình sang Pháp qua bài tường
thuật của Henri Bosco dựa trên không chỉ các tài liệu Salêdiêng
mà còn trên cả các tờ báo ở Pháp vào thời đó.
Khi lên đường, mắt Don Bosco hầu như mù, ngài hầu như
không thể đứng nổi trên đôi chân ngài do chứng giãn tĩnh
mạch. Thân thể ngài gần như kiệt lực. Ngài vào Pháp qua ngã
thành phố Nice là thành phố từ 18 năm qua đã không còn thuộc
về Ý nữa. Ngài tới Paris qua ngã Toulon – Marseille Avignon
Lyon – Moulins. Một cuộc hành trình chậm rãi kéo dài 2
tháng 19 ngày.
Không một ai, lại càng không phải chính ngài, đã có thể tiên
đoán trước được nỗi cảm xúc lạ thường, sự hồ hởi, việc dân
chúng tuôn đến, và sức cháy bừng của niềm tin được khơi dậy
bởi “một linh mục nghèo khổ thuộc miền quê”.
Những người cẩn trọng đã khuyên ngài: “Đừng đi Pháp. Tại
Paris người ta đang xây dựng Thánh Đường kính Thánh Tâm
Chúa Giêsu tại Mont Martre. Nó đã ngốn hằng triệu Francs và
vẫn còn chưa xong. Vậy liệu có ai còn có thể cho cha một xu
nào chăng?”

62.9 Page 619

▲back to top
Tại Lyon, các nhà thờ đầy ắp. Chiếc xe ngựa những người đón
tiếp dành cho ngài bị bao vây, siết thắng và đông cứng lại.
Người đánh xe ngựa sốt ruột bởi sự náo nhiệt của đám đông
nên đã thốt lên: “Đánh xe cho quỉ còn dễ hơn đánh xe cho một
linh mục như vị này”.
Tại Paris, người ta đã sợ một sự thất bại hoàn toàn. Nước Ý
chính thức vừa chuyển mình từ liên minh với Pháp sang liên
minh với Đức và Áo bởi hiệp ước ba Đồng Minh. Và Don
Bosco là người Ý. Hơn nữa, chính quyền ở đây chống giáo sĩ
cách gắt gao.
Bất chấp sự nhạy cảm của mình, Paris đã tiếp đón vị tông đồ
của những người nghèo với một sự nhiệt tình đầy đam mê. Don
Bosco đến vào ngày 19-4-1883, và ở lại đó năm tuần lễ (trừ
một lần dừng chân ngắn tại Amiens và Lille). Ngài được đón
tiếp tại một gia đình bạn hữu tại Paris, số 34 Đạo lộ Messine.
Tuy nhiên mỗi buổi sau trưa ngài đi đường Ville- l’ Êvêque tới
ở nhà các Tu sĩ Tận Hiến cho Thánh Tâm Chúa, và ngài thực
hiện việc này để tránh cho chủ nhà đón tiếp ngài khỏi bị áp lực
của đám đông lập tức tràn tới nơi ngài ở.
Người ta đồn thổi: “Đó là một vị thánh”; lời quả quyết này rất
nguy hiểm. Sẽ có cả một đống người sẵn sàng tỏ ra mối hoài
nghi và chỉ một chuyện không không mà thôi cũng đủ để
chuyển mọi sự thành một trò cười. Ngài để cho người ta thoải
mái chụp hình ngài, một mình hay cùng những người khác. Có
người trách ngài rằng: đó là một chuyện phù phiếm. Nhưng
ngài trả lời: “Đó là một phương tiện tốt, không phải để cho
người ta biết tôi, mà để công bố cho dân chúng biết công cuộc
của tôi”. Ngài giúp cho các người viết sử hạnh ngài được dễ
dàng hoàn thành nhiệm vụ của họ hơn, như bác sĩ vùng
Espiney, người đầu tiên viết tiểu sử ngài bằng tiếng Pháp.
Cuốn sách này có những chỗ sai lớn, nhưng nó đã được in
50.000 bản trong vòng vài tháng.

62.10 Page 620

▲back to top
Một bức hình chụp Don Bosco Tại Pháp
Có một bức hình chụp Don Bosco, là một hình chụp nổi tiếng
nhất được chụp tại Paris. Khuôn mặt Don Bosco trong bức hình
chụp này thật già, mệt nhọc, tàn tạ; ngài già một vẻ già không
thể tin được, giống như một tờ giấy nhàu nát. Những nét nhăn
hằn lên trên trán, miệng ngài vẻ tốt lành, những méo mó do vẻ
phờ phạc không cách nào hồi phục được. Mắt ngài chìm sâu
sau dẫy lông mày dày đặc, chỉ hơi lóe lên một chút ánh sáng,
thật là một ánh nhìn hầu như mù lòa; Nhân vật sống sau khuôn
mặt này từng biết đến sự đau khổ gồm cả đau khổ của mình và
đau khổ của những người khác mà ngài đã coi như là những
người thân của mình, mà ngài đã cứu vớt họ để ở dưới trần
gian này họ sống mà được bớt đi những đau khổ, và có một
thiên đàng mà người ta được thị kiến thấy vào giờ chết của họ.
Thoạt nhìn, khuôn mặt này gợi ra cho người ta thương xót ngài
hơn là hồ hởi.
Nhưng trên bức hình chụp này người ta cũng thấy đôi bàn tay
của Don Bosco; những bàn tay của một người lao động, một
con người lao động lương thiện, một con người lao động đầy
quyền lực để tạo nên sự sống. Đôi bàn tay này giơ lên để chúc
lành cho những người đau ốm, vuốt ve những đứa trẻ và đem
lại sức khỏe giống y như nước của Lộ Đức. Khi thấy những
bàn tay này giơ lên, hoạt động, những người Paris không còn
thấy xót thương cho Don Bosco, nhưng là xin ngài xót thương
họ. Họ nhìn thấy nơi ngài con người được Thiên Chúa sai tới
đem lại niềm hy vọng, giống như một con người của Thiên
Chúa, kẻ phân phát những sự chữa lành và những ân sủng của
Chúa Quan Phòng.
Tại thủ đô cũng nhắc lại những chuyện y như tại tỉnh lỵ. Dân
chúng chạy ùa tới ngài càng đông hơn và càng vội vã hơn và
Don Bosco chịu nhiều đợt ào đến thô bạo hơn và cực nhọc hơn.
Đó là cái khác lạ duy nhất.

63 Pages 621-630

▲back to top

63.1 Page 621

▲back to top
Trong những ngày đó người ta đọc thấy trên
tờ Le Figaro: Trước căn nhà của phố Ville-l’ Évêque, nơi Don
Bosco bước xuống, các dòng xe đậu lại suốt ngày trong cả một
tuần lễ. Những bà lớn cầu khẩn ngài làm các phép lạ cho họ và
cho thân quyến họ, các phép lạ ngài làm, như người ta nói, thật
rất dễ dàng”.
Tờ báo Le Pèlerin thì viết: “Người ta kể lại, và thậm chí người
ta còn sáng tác ra các phép lạ… Các bà thuộc thế giới cao tuổi
chạy tới sau các vết của vị thánh không hề lo để thế gian vỗ tay
khen mình, và giảng những bài giảng cho mọi giới, bất phân
biệt đó là những cô như Mađalêna, hay đó là là một người ăn
mày, và dành thời giờ cho một người thợ cũng y như cho một
ông hoàng tử”.
Một ngày của một linh mục nghèo
Don Bosco dậy sớm, vào 5 giờ sáng, và đi ngủ vào nửa đêm,
khi đã mệt nhoài. Vào 6 giờ sáng bắt đầu các cuộc thăm viếng.
Rồi ngài đi cử hành thánh lễ tại xứ này hay xứ kia, luôn luôn
người ta rình gặp ngài khi vừa ra khỏi nhà thờ, với những câu
hỏi dồn dập, những yêu cầu tới tấp, rồi những lời cầu xin,
những lời xin cầu nguyện. Người ta muốn nói chuyên với ngài,
chạm đến ngài, hay ít là trông thấy ngài. Người ta chặn ngài lại
ở mọi nơi, tại cầu thang, trong hành lang, tại cửa phòng áo, trên
đường phố. Tiếng Pháp của ngài không xuôi, giọng không
chuẩn, sự lưu loát không tốt lắm.
Tại Tổng Hiệp Hội cầu nguyện cho các người tội lỗi ăn năn trở
lại”, ngài chuẩn bị cử hành thánh lễ. Đám đông thật lớn: có
người muốn vào, không vào được; người ấy ngạc nhiên mới
hỏi: “Có gì vậy?”. Một phụ nữ thuộc quần chúng trả lời:
“Chúng tôi đến để dự thánh lễ, thánh lễ cầu cho những kẻ có
tội. Có một vị thánh sắp cử hành thánh lễ”.

63.2 Page 622

▲back to top
Khi người ta xin ngài ban cho họ phép lạ “của ngài”, Don
Bosco trả lời: “Tôi là một tội nhân, xin cầu cho tôi. Nhưng
chúng ta cùng nhau kêu xin Đức Mẹ Phù Hộ. Chính Mẹ chữa
lành, lắng nghe, hiểu hết, và thương xót chúng ta. Mẹ từ trời
cao trả lời cho chúng ta. Tôi, tôi chỉ biết cầu xin Mẹ mà thôi”.
Nhưng khi con người khốn khổ này cầu xin, thì Đức Mẹ luôn
trả lời. Người ta tin rằng Đức Mẹ đang ở đây, ngay bên cạnh
ngài, sẵn sàng làm theo điều ngài kêu xin.
Các bậc có quyền bính tiếp đón ngài cách thân tình. Đức Hồng
Y Lavigerie đợi ngài ở nhà thờ Thánh Phêrô biệt danh Tảng Đá
Lớn, và nói chuyện với cử tọa hiện diện trong khi nhiệt tình gửi
gắm ngài cho lòng quảng đại của họ. Ngài gọi Don Bosco là
“vị thánh Vinh sơn Phaolô của nước Ý”.
Những lời kêu gọi tới lòng quảng đại không chỉ được đáp ứng
bởi những gia đình giàu có, mà còn bởi cả dân chúng khiêm
tốn. Tất cả mọi người dâng cúng cho ngài. Don Bosco đón
nhận các tiền giấy, các đồng nhỏ, các lượng vàng, và cả đến
các đồ trang sức. Có xẩy ra những lúc Don Bosco chẳng còn
biết để tiền ở đâu nữa.
Ngài rời Paris để đi Lille và Amiens; cũng cùng một lòng nhiệt
tình như vậy tại những nơi đó. Trước những nhát kéo kinh
khủng cắt áo chùng thâm của ngài, ngài thốt lên: “Tất cả những
người điên không ở hết trong các viện tâm thần!”.
Sau đó là chuyến trở về. Trong xe lửa hai người bạn của ngài là
Don Rua và Don Barruel im lặng. Họ đang suy nghĩ lại về
những ngày trong mơ mà họ không bao giờ quên. Thình lình
Don Bosco cắt đứt sự im lặng:
Don Rua, cha có nhớ lại con đường đi từ Buttiglires đến
Murialdo không? Tại đó, ở phía bên phải, có một cái đồi và
trên đồi đó có một cái nhà nhỏ bé. Đó là nơi ở của tôi và mẹ
tôi. Trên những cánh đồng đó lúc tôi còn là một chú bé, đã đưa

63.3 Page 623

▲back to top
các con bò đi ăn cỏ. Nếu tất cả các ông tại Pháp biết được rằng
họ hầu như đã đưa một chú bé nhà quê nghèo nàn tại Bécchi
này tới chỗ vinh quang đấy…
Đức Hồng Y, người mang đến hòa bình
Ngày 18-11-1883, Đức Hồng Y Gaetano Alimonda, Đức Tổng
Giám Mục mới, đã tới Torino theo cách thức hoàn toàn riêng
tư. Trong một lần bệ kiến Đức Giáo Hoàng Lêô XIII vào năm
1884, Don Bosco đã nghe Ngài nói: “Trong khi cha gửi ngài
tới, cha đã nghĩ đến con. Đức Hồng Y Alimonda mến con rất
nhiều, rất nhiều”.
Cha Ceria viết rằng: “Sự tốt lành của Đức Hồng Y là một niềm
an ủi Chúa quan phòng gửi đến cho Don Bosco trong những
năm cuối đời ngài”.
Sau khi Đức Hồng Y đến được ít lâu, Don Bosco sai một ai đó
tới hỏi xem Đức Hồng Y có ở nhà không để đến gặp ngài. Đức
Hồng Y lấy xe ngựa và lập tức tới Valdocco.
- Để gặp gỡ cha thật sớm, tôi đã đích thân đến với cha.
Lúc ấy nhằm 10 giờ sáng, như lời một nhà viết sử hạnh hiện
diện tại đó, nhắc nhớ lại. Cuộc hội kiến ở ngay trong văn
phòng Don Bosco, và kéo dài hơn một giờ. Trong thời gian đó,
các trẻ em tại các xưởng thợ và các lớp học đã được báo cho
hay, các nhạc công vội đi lấy nhạc cụ và một em nào đó đã vội
kéo các lá cờ lên dẫy cột cờ ở các ban-công. Khi Đức Hồng Y
đi ra ngoài ban-công ở lối ra khỏi phòng Don Bosco, thì ban
kèn liền chơi, và các trẻ em vỗ tay chào đón. Đức Tổng Hồng
Y vui vẻ nói: “Tôi muốn đến để tạo cho cha một sự ngạc nhiên
nhưng chính cha lại đem sự ngạc nhiên đến cho tôi!”. Ngài vẫy
tay chào các học sinh và nói với các em:
- Các con rất thân mến, cha cám ơn các con. Cha chúc lành cho
các con và xin các con cầu nguyện cho cha.

63.4 Page 624

▲back to top
Ngài đi thăm các xưởng thợ và ở lại lúc lâu trước ảnh Đức Mẹ
Phù Hộ để cầu nguyện.
Nếu cha không trở lại nữa
Tiền quyên góp tại Pháp rất dồi dào, nhưng nhà thờ Thánh Tâm
Chúa Giêsu tại Roma cho thấy nó là một cái giếng không có
đáy. Vào đầu năm 1884, có những món nợ to lớn phải trả, mà
két tiền lại rỗng. Ngày 28 tháng Hai, bất chấp sức khỏe thê
thảm của mình, Don Bosco nói với các con cái ngài rằng:
- Cha lại đi Pháp một lần nữa.
Don Rua và Don Cagliero tìm cách thuyết phục ngài đừng đi.
Các vị xin bác sĩ Albertotti đến thăm ngài. Bác sĩ sau một cuộc
xét nghiệm lâu giờ, đã nói một cách rõ ràng:
- Đối với con, nếu cha tới Nice mà còn sống, thì đó là một phép
lạ.
- Nếu tôi chết, thì đành vậy! Don Bosco thì thầm. Trước khi đi,
tôi sắp xếp mọi chuyện cho ổn. Nhưng tôi phải lên đường.
Vừa ra khỏi phòng Don Bosco, Alberlotti nói với Don Rua:
- Cha phải lưu ý. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu Don Bosco chết
thình lình, mà không ai hay. Vậy đừng có ảo tưởng đấy!
Don Bosco gọi một Công chứng viên và các nhân chứng tới và
đọc cho viết lời di chúc. Rồi ngài gọi Don Rua và Don
Cagliero tới và chỉ cho các cha thấy tài liệu công chứng đang
đặt ở trên bàn. Ngài nói:
- Đây là di chúc của tôi. Tôi đã ghi tên cả hai cha như là những
người thừa kế mọi tài sản. Nếu tôi không trở về nữa, thì hai cha
đã biết trước công chuyện đã như thế nào rồi.

63.5 Page 625

▲back to top
Trái tim như nổ tung, Don Rua ra khỏi phòng. Don Cagliero ở
lại, nước mắt rưng rưng:
- Này cha, cha muốn đi trong tình trạng này ư?
- Thế con muốn cha làm khác đi sao? Con không thấy là chúng
ta không còn các phương tiện để tiếp tục hay sao? Nếu cha
không đi, thì cha tìm ở đâu ra cho các con những cái cần thiết
để trả các món nợ đã hết hạn? Chúng ta phải để cho lũ trẻ
không còn bánh ăn hay sao? Cha chỉ có thể tìm ra được sự trợ
giúp nơi nước Pháp.
Don Cagliero bật khóc. Cố gắng cầm mình lại, ngài nói với
Don Bosco:
- Chúng ta luôn luôn tiến bước nhờ các phép lạ. Cha sẽ thấy là
Đức Mẹ còn tiếp tục giúp đỡ chúng ta. Vậy cha hãy đi, chúng
con sẽ cầu nguyện.
- Được, cha đi. Chúc thư của cha ở đó nhé. Cha trao nó cho con
trong cái hộp này. Con hãy giữ nó như một kỷ niệm cuối cùng.
Cuộc hành trình qua Pháp lần này không dài. Ngài chỉ đi tới
miền nam nước Pháp, nhưng ngài đã thu lượm được đủ số tiền
quan trọng. Gia đình của Bá tước Colle tại Toulon một lúc trao
vào tay Don Bosco cả 150000 lires.
Tại Marseille, Don Albera lo lắng cho sức khỏe của Don
Bosco, đã xin bác sĩ nổi tiếng Combal tới thăm bệnh cho cha.
Sau một cuộc khám bệnh tỉ mỉ, Combal cho ý kiến bằng một
ngôn ngữ hình ảnh:
Cha chính là một chiếc áo đã hư nát. Cha đã mang nó cả tuần
lễ, và tới cả Chúa Nhật để còn duy trì được nó, phương thức
thứ nhất là đặt nó trong tủ áo. Cha hiểu là con căn dặn cha hãy
nghỉ ngơi tuyệt đối.

63.6 Page 626

▲back to top
- Tôi xin cảm ơn bác sĩ, nhưng đó là thứ thuốc duy nhất mà tôi
không muốn uống.
Những khó khăn đã buộc ngài phải thực hiện chuyến hành trình
quyên góp cuối cùng. Vào năm 1886, chỉ hai năm trước khi
ngài chết, ngài lại đi Tây Ban Nha. Tại Barcelona, ngài được
tiếp đón nồng nhiệt như ở Paris. Những đường phố tràn ngập
người, những mái nhà bị gỡ ngói, và những đám đông người tụ
lại dưới các đèn đường. Và người ta đã quảng đại tới mức nào!
Họ dâng cho ngài thậm chí cả một quả đồi, “đồi Tibi Dabo”
(Đồi “Ta Cho Con”), từ đó người có thể có một cái nhìn từ cao
điểm để thấy cả thành phố một cách phi thường.
Ngài trở về Torino qua ngã miền Nam Nước Pháp:
Montpellier, Tarascon, Valence, Grenoble. Một chuyến trở về
chậm chạp tới nước Ý của ngài, đó là chuyến trở về cuối cùng.
Ngài nói với một người cùng đi với ngài:
“Tất cả là công trình của Đức Mẹ. Tất cả đến từ kinh Kính
Mừng Maria mà ngài đã đọc lên với một đứa trẻ cách đó 55
năm, tại nhà thờ Thánh Phanxicô Assisi”.
Trong khi cơ thể của ngài còng xuống ngày càng nhiều, thì linh
hồn ngài tỏa ra thứ ánh sáng ngày càng sinh động. Don
Belmonte, giám đốc nhà Sampierdarena, một ngày kia tâm sự
với ngài: “Con mệt nhọc quá, con chẳng thể làm gì được nữa”.
Don Bosco cúi xuống phía trước một tí, kéo áo chùng thâm lên
và cho thấy đôi chân xưng phồng lên, những vành da phủ
xuống hai bên giầy của ngài. Và ngài chỉ góp ý thêm một lời:
- Con yêu quí, can đảm lên. Chúng ta sẽ nghỉ ở trên Thiên
đàng. Buổi chiều ngày 25 tháng 6, các cựu học sinh dâng lên
ngài những lời chào kính nồng nhiệt mừng lễ bổn mạng của
ngài. Cảm kích, Don Bosco cám ơn họ và vì quá mệt nên ngài
chỉ có thể nói lên được một lời:

63.7 Page 627

▲back to top
- Cha không là gì khác ngoài chuyện là con ve sầu kêu ve ve
rồi chết.
Nếu có ai đó thấy ngài đi một mình, còng lưng xuống, nên tới
giúp ngài và hỏi ngài: “Cha đi đâu đấy, Don Bosco?”, thì ngài
nhìn người ấy và mỉm cười dịu dàng rồi trả lời: “Chúng ta đi
tới Thiên đàng”.
Nữ hầu tước de Barolo và Thủ tướng Camilo Cavour Nước Ý
là những người có liên hệ nhiều với Don Bosco trong giai đoạn
đầu

63.8 Page 628

▲back to top
Chương 49
GIOAN CAGLIERO LÀM GIÁM MỤC
Don Gioan Cagliero dựa theo các

63.9 Page 629

▲back to top
Chương trình của Don Bosco, thì sẽ ở lại 3 tháng tại Châu Mỹ,
để củng cố địa bàn truyền giáo thứ nhất này, rồi lại trở về Ý.
Tuy nhiên ngài đã ở lại đó tất cả là hai năm.
Năm 1877, Don Bosco đã sai hai nhóm Salêdiêng khác với hai
vị đứng đầu mỗi nhóm là Don Luigi Lasagna và Don Giacomo
Costamagna, những vị này có khả năng giải quyết được các
tình huống.
Thế là Don Cagliero trở về Ý. Trong năm 1877, Tổng Tu Nghị
đầu tiên của Tu Hội họp tại Lanzo, và dĩ nhiên Don Cagliero
cũng tham dự trong tư cách Giám Linh của Tu Hội và chuyên
viên duy nhất về các vấn đề truyền giáo. Trong dòng những
năm sau đó, Don Bosco trao cho ngài hai nhiệm vụ tế nhị: phát
triển công cuộc Salêdiêng tại Tây Ban Nha và điều hành Tu
Hội Con Đức Mẹ Phù Hộ đang trong những bước khởi đầu.
“Ai có thể đảm nhận chỗ của cha?”
Năm 1879, Don Bosco mới có 64 tuổi nhưng ngài đã cảm thấy
kiệt lực và đang đi xuống mau chóng. Ngài muốn chọn giữa
những người đã theo ngài đầu tiên một người nào đó để dần
dần có thể đảm nhận trách nhiệm của tất cả các công việc của
Tu Hội, và vào thời điểm mong muốn, có thể thay thế ngài;
tóm lại là “một tổng đại diện” hay “phó bề trên cả”. Hai danh
tánh khả thể là Rua và Cagliero. Rất trung thành và có khả
năng, Don Bosco đều yêu quí cả hai và trong một mức độ nào
đó ngài còn lưỡng lự. Chọn một người có nghĩa là để người kia
trong bóng của kẻ khác chăng?
Và sau đây là tiến trình tế nhị Don Bosco sử dụng. Một buổi
sáng mùa thu năm 1879, vào lúc ngài lên đường đi Foglizzo,
ngài xin Don Cagliero đi theo ngài. Trong cuộc hành trình,
ngài hỏi Don Cagliero:
- Nếu cha chết đi, thì con nghĩ ai sẽ thế chỗ của cha?

63.10 Page 630

▲back to top
Don Cagliero không thề thốt, nhưng nhấp nháy mắt:
- Don Bosco yêu dấu, cha không nghĩ rằng còn quá sớm để nói
về chuyện này sao?
- Đồng ý như vậy. Nhưng chúng ta cứ giả thiết là nó xẩy ra đi:
Con sẽ nói cho cha hay những tên ai có thể làm?
- Những tên ai ư? Con chỉ thấy có một người sẽ đảm nhận chỗ
của cha.
- Còn cha ngược lại cha chọn hai hay ba tên.
- Tiếp theo đó có thể có hai hay ba tên. Còn hiện tại con không
tin là như vậy. Vậy cha hãy nói cho con nghe xem hai hay ba
người đó là những ai?
- Trước hết con hãy nói cho cha nghe ứng cử viên của con.
- Don Rua. Vâng chỉ có một mình Don Rua thôi.
- Con có lý; Rua luôn luôn là cánh tay phải của cha.
- Là cánh tay, là đầu, là trái tim của cha đấy, Don Bosco thân
yêu. Đó là người duy nhất có thể thay thế cha khi Chúa thật sự
muốn gọi cha về Thiên Đàng.
Don Bosco đã rất tế nhị và Cagliero cũng rất tế nhị trong việc
tránh đưa mình vào.
Chẳng có một bóng tối nào làm rối loạn việc tuyển chọn “Don
Bosco thứ hai”.
Don Bosco không bao giờ nói lên lời cảm ơn, nhưng thật sự
Don Bosco rất biết ơn Don Cagliero vì những lời cha nói đó
với một sự khiêm cung thẳng thắn trong chiếc xe ngựa dẫn họ
tới Foglizzo.
Một cái ôm hôn nồng thắm người con giám mục đầu tiên

64 Pages 631-640

▲back to top

64.1 Page 631

▲back to top
Ngày 16 và 20 tháng 11 năm 1883, Tòa Thánh công bố hai tài
liệu quan trọng. Miền Bắc và miền Trung Pantagonia (gồm
phần lãnh thổ gần con sông Rio Negro, Chubut và Santa Cruz)
được tuyên bố là “Hạt Đại diện Tông Tòa” tương đương với
giáo phận, dưới quyền của Don Gioan Cagliero, được bổ nhiệm
làm Quyền Đại diện Tông tòa. Và vùng đất Lửa (vùng đất cực
Nam của Pantagonia) được tuyên bố là “Hạt Phủ Doãn Tông
Tòa” và Don Fagnano được bổ nhiệm làm “Phủ Doãn Tông
Tòa”.
Don Cagliero sẽ phải đi tới Mỹ Châu với tư cách là Quyền Đại
diện tông tòa, chứ không phải với tư cách Giám mục: chỉ sau
này ngài mới được nâng lên chức giám mục. Nhưng Don
Bosco không đồng ý. Ngài nói với Đức Hồng Y Alimonda, và
viết cho vị bảo trợ các Salêdiêng là Đức Hồng Y Nina, tha thiết
khẩn cầu Đức Thánh Cha. Chính Đức HồngY Ferrieri không
lắng nghe lời xin chi hết, nhưng lần này Đức Thánh Cha Leô
XIII đã nhận lời khẩn cầu của Don Bosco.
Ngày 9-11-1884, một lá thư từ Roma gửi tới Valdocco: “Đức
Thánh Cha trong lần bệ kiến thứ sáu cuối cùng này, đã ưu ái
nhận lời cầu khẩn của Don Bosco, đồng ý trao ban chức Giám
mục cho Don Cagliero, vị Quyền Đại diện Tông tòa mới tại
Pantagonia”.
Don Bosco trải qua một ngày vui sướng. Giấc mơ xưa về con
chim bồ câu và ngành lá ô-liu được thực hiện. Những lời nói
cho đứa bé hấp hối tức Cagliero: “Các Sách Kinh nguyện linh
mục, con sẽ phân phát cho nhiều người khác nữa... Con sẽ đi
xa, đi thật xa...”, chẳng phải là một ảo tưởng sẽ trôi qua: tất cả
đã trở thành hiện thực.
Lễ Tấn phong giám mục diễn ra tại thánh đường Đức Mẹ Phù
Hộ vào ngày 7-12-1884. Đối với Valdocco, đó là biến cố
không thể nào quên. Một trong các học trò đầu tiên của Don

64.2 Page 632

▲back to top
Bosco, một cậu bé vào Nguyện Xá khi mới 13 tuổi, mồ côi cha,
được tấn phong giám mục ở tuổi 46 để cai quản một vùng đất
truyền giáo mênh mông.
Có hai chi tiết. Cuối buổi lễ nghi rất vĩ đại, vị Giám mục trẻ
tách ra khỏi đoàn rước tiến về phía mẹ của mình. Bà cụ già bé
nhỏ, bà Têrêsa tốt lành (đã 80 tuổi) đến gặp người con Giám
mục của mình nhờ sự nâng đỡ của một người con trai và một
người cháu. Đức Cha Cagliero xiết chặt vào ngực mình cái đầu
trắng bạc phơ của mẹ, và giữa các người chứng kiến hết sức
cảm động, ngài lại dẫn mẹ ngài với tất cả sự trìu mến về chỗ
ngồi của mẹ. Bên cạnh phòng áo, trộn lẫn trong đám đông, Don
Bosco đợi vị Giám mục với mũ Berét – linh mục cầm ở tay.
Đức giám mục chạy lại và ôm siết ngài bằng cái hôn chào tha
thiết. Đức cha đã dấu ngón tay đeo nhẫn Giám mục của mình
trong các nếp áo. Chính Don Bosco “của ngài” mới là người
đầu tiên hôn lên chiếc nhẫn mục tử mới này.
Don Rua Phó Bề trên đại diện Don Bosco
Don Bosco chỉ loan báo việc chọn vị Phó Bề Trên đại diện ngài
sau khi Don Cagliero được tấn phong giám mục vùng
Pantagonia. Ngày 24-10-1884, tại Ban thượng Cố vấn của Tu
Hội, ngài nói: “Tôi cần một người để tôi có thể trao phó cho vị
đó Tu Hội, để đặt Tu Hội trên đôi vai vị đó và trao cho vị đó
toàn bộ trách nhiệm. Đức Thánh Cha sẽ bằng lòng là Don
Bosco rút lui hoàn toàn. Đầu óc của tôi không tiếp tục chịu
đựng được nữa...”.
Ngài viết cho Đức Thánh Cha trong khi đề nghị tên cha Michel
Rua.
Sự phê chuẩn đến vào đầu tháng Mười Hai.
Don Bosco cầm lấy tay của ngài

64.3 Page 633

▲back to top
Đức Cha Cagliero phải rời Torino đi Nam Mỹ vào ngày 1-2-
1885. Ngài mang theo với mình 18 Salêdiêng và 6 Con Đức
Mẹ Phù Hộ. Nhưng vào buổi chiều ngày 1 tháng 2, sau khi đã
đồng hành cùng các nhà truyền giáo trong xe lửa, ngài cảm
thấy mệt nhọc và trở lại qua đêm tại Valdocco. Ngài lên phòng
Don Bosco, ngồi bên cha và cả hai đều giữ im lặng. Sau khi
ngưng lại một lúc lâu, Don Bosco hỏi:
- Các bạn của cha đã đi rồi chứ?
- Vâng.
- Còn cha, khi nào cha đi?
- Con sẽ tới Samperdarena, ngày mai đi xuống tàu[17].
- Nếu được, cha hãy đi muộn hơn; cha đi nghỉ ngơi cho khỏe.
- Cứ để cho con đi. Bây giờ xin cha ban phép lành cho con.
- Tại sao lại phải ban chiều này? Sáng mai cha đến đây, chúng
ta sẽ nói chuyện cách yên lành hơn.
- Không, Don Bosco, ngày mai con đi rất sớm.
- Nhưng cha đang mệt... Dẫu sao, cha cứ làm điều gì cha nghĩ
là tốt nhất.
- Vậy cha hãy chúc lành cho con và đồng bạn của con.
- Vị giám mục quì xuống. Don Bosco cầm lấy tay ngài.
- “Con hãy đi một cuộc hành trình tốt đẹp. Nếu chúng ta không
còn thấy nhau trên trái đất này nữa, chúng ta sẽ thấy lại nhau
trên Thiên đàng.
- Cha đừng nói ra điều này. Chúng ta sẽ còn gặp lại nhau.

64.4 Page 634

▲back to top
- Cứ như Chúa muốn. Ngài là chủ của chúng ta. Tại Áchentina
và tại Pantagonia, các con sẽ có rất nhiều điều để làm; các con
hãy làm việc thật nhiều. Đức Mẹ sẽ giúp các con.
Don Bosco bắt đầu đọc công thức ban phép lành. Ngài nói
bằng một giọng chậm rãi và có lúc ngài không nhớ được các
lời lẽ. Đức Cha Cagliero phải nhắc lại cho ngài cách nhẹ nhàng
và Don Bosco dễ dạy, nhắc lại y nguyên các lời ấy trong khi
vẫn cầm lấy tay Đức Cha Cagliero. Cuối cùng vị giám mục
đứng dậy:
- Don Bosco thân yêu, con chúc cha giấc ngủ ngon lành. Bây
giờ cha hãy đi ngủ đi.
- Con hãy chào thay cha các bạn đồng hành của con, các hội
viên đang làm việc tại Châu Mỹ, các cộng tác viên... Cha còn
nhiều điều khác phải nói với con...Xin Thiên Chúa chúc lành
cho con.
Nhà của Đức Giám Mục là một nhà gỗ nhỏ bằng thân cây
Don Bosco theo dõi với nỗi cảm xúc âu yếm trong những năm
cuối cùng của đời ngài các công việc truyền giáo của người con
trai cường tráng và lạc quan này. Ngài đọc các lá thư và lập tức
đưa sang cho Tập san Salêdiêng để ấn hành.
Vào tháng 7 năm 1886, Đức Cha Cagliero loan báo rằng phần
đất quan trọng nhất và đông dân nhất tại phía bắc Pantagonia
kể từ nay đã được biết đến, được thăm viếng và được dạy giáo
lý do các nhà truyền giáo Salêdiêng.
- Cũng trong tháng Bẩy đó, người con trai của tộc trưởng
Sayuhueque từ vùng thung lũng đi tới nơi ở của Đức Cha tại
Pantagonès để xin ngài tiến vào trong vùng thung lũng
Chichimal để rao giảng Tin Mừng cho các người lớn thuộc bộ
lạc. Đức Cha Cagliero kể lại rằng: “Trong thung lũng rất rộng
Chichinal, chúng tôi đã rửa tội cho 1700 dân bản địa. Hằng

64.5 Page 635

▲back to top
ngày chúng tôi dạy 3 giờ giáo lý vào ban sáng, và 3 giờ giáo lý
vào ban chiều. Nhà của Đức Giám mục giống như một túp lều
làm bằng thân cây và mái trét bùn để che chở cho tôi và các
bạn hữu ... khi trời không mưa. Không có dấu vết sử dụng đến
giường. Chúng tôi ngủ trên các bộ da lông mà các người dân
bản địa có tính tình tốt lành và đầy phấn khởi đã trao tặng cho
chúng tôi cùng với một tấm lòng yêu thương lớn lao”.
- Năm 1887, Đức Cha Cagliero thực hiện một cuộc xuất phát
truyền giáo mới với cha Milanesio và hai Salêdiêng khác. Cuộc
hành trình truyền giáo này trải rộng trên 1500km gồm: các
thung lũng Rio Negro, Andes, các dẫy đồi Cordillìeres và sườn
dốc vươn xuống dưới vùng Concepción của nước Chilê.
- Trong vòng 1300km đi bằng ngựa, mọi sự diễn ra tốt đẹp.
Đức Giám Mục ban phép rửa cho 997 người, hầu như tất cả là
các người lớn da đỏ, chứng hôn cho 101 đôi, phân phát mình
thánh cho hằng ngàn người và trao ban phép thêm sức cho
1513 người. Không thể kể hết được những giờ đã trải qua để
dạy giáo lý cho các trẻ em và giảng Tin Mừng cho những
người lớn.
- Sáng ngày 3 tháng Ba, trong khi các nhà truyền giáo vừa mới
lên đường đi Malbarco trên bờ sông Neuquén, thì xẩy ra một
tai nạn nghiêm trọng. Chính Đức Giám Mục đã kể lại trong
một lá thư:
- “Sau khi đã đi ngang qua dẫy núi Cordillère cao 2000m, thì
chúng tôi phải leo lên thềm nhiều ngàn mét khác. Con đường
mòn đi ngoằn ngoèo bên cạnh các vách đá granít, và lao sâu
xuống dưới thung lũng sâu. Thình lình con ngựa của tôi hoảng
sợ và nhẩy cẫng cách điên cuồng. Tôi cầu khấn Đức Mẹ Phù
Hộ và nhẩy khỏi yên ngựa. Một viên đá nhọn chọc vào người
tôi, làm bể hai xương sườn và chọc thủng phổi tôi. Tôi chết lịm
người đi và thở rất khó khăn. Các bạn tôi tới, và tôi nắm bắt sự

64.6 Page 636

▲back to top
việc từ góc cạnh lạc quan để tạo sự can đảm cho họ. Tôi nói
rằng vì chúng ta có tất cả 24 cái xương sườn, nên chúng ta có
thể thoải mái hy sinh vài cái. Chúng tôi phải trở lại phía sau đi
qua hai con sông và leo hai dãy núi để tìm ra một chỗ nghỉ ngơi
chăm sóc cho tôi. Nhưng chăm sóc theo kiểu nào! Chúng tôi
chỉ có duy một người biết chữa chạy đứng ra lo cho các cơn
bệnh với các cách chữa trị cổ xưa. Tôi xin anh ta làm thợ rèn
chữa lành hai bên xương sườn của tôi. Tôi ở lại đó một tháng
và “như Chúa muốn”, tôi được chữa lành. Tuy còn trong thời
dưỡng bệnh, tôi lại phải lên ngựa và hành trình trong bốn ngày
cùng với các người truyền giáo của tôi, tôi lại đi 3000 mét
ngang qua dẫy núi Cordillères và rồi đi xuống các đồi dốc nhẹ
của nước Chilê để tới ven bờ Thái Bình Dương. Tại đó chúng
tôi thiết lập các nền tảng cho những nhà Salêdiêng mới của
vùng Concapción, Talca, Santiago và Valparaiso. Như vậy
trong suốt năm đó, luôn luôn trên lưng ngựa, cùng với ba người
bạn đường, ngủ trong các hốc đá, hay dưới bóng cây, chúng tôi
đã vượt qua Châu Mỹ từ biển này sang biển khác.
Phỏng vấn Don Bosco
Vào tháng Tư năm 1884, Don Bosco phải đi Roma. Một số các
ân nhân đã hứa một món tiền lớn cho nhà thờ Thánh Tâm
Chúa Giêsu, nhưng họ đã không xuất đầu lộ diện nữa. “Vậy
phải đi rung chuông báo cho”, Don Bosco nói với một nụ cười
buồn bã.
Vào dịp đó, lần đầu tiên trong đời, Don Bosco đứng ra trả lời
cho một cuộc phỏng vấn (lối thông tin này đã được sáng chế ra
vào năm 1859 do một người Mỹ có tên là Horace
Greely). Chúng ta tin rằng có nhiều cái đang tò mò để đọc xem
Don Bosco đã trả lời ra sao trước các câu hỏi trực tiếp của một
nhà phóng viên Tờ Báo Roma . Buổi phỏng vấn này được ấn
hành trong số báo ra ngày 25-4-1884.

64.7 Page 637

▲back to top
Câu hỏi: Do một phép lạ nào ngài đã thiết lập biết bao nhiêu
nhà tại các nước trên thế giới rất khác biệt nhau?
Trả lời: Tôi đã thực hiện được điều tôi không dám mơ ước,
nhưng làm thế nào thì tôi cũng không biết nữa. Chính Đức Nữ
Trinh, Đấng biết những nhu cầu của thời đại chúng ta, đã giúp
đỡ tôi.
Câu hỏi: Nhưng Đức Mẹ đã giúp cha như thế nào?
Trả lời: Ông hãy nghe đây. Có một lần, để thực hiện nhà thờ
chúng tôi đang xây dựng tại Roma, người ta đã viết cho tôi từ
Torino rằng cần phải có 20.000 lires trong vòng tám ngày. Vào
lúc đó, tôi không có tiền. Tôi đã đặt lá thư đó tại nơi có bình
nước phép để xin chúc lành. Tôi đã nhiệt thành kêu xin Đức
Mẹ và trao phó tất cả mọi chuyện này trong tay Mẹ, rồi tôi lên
giường ngủ. Sáng hôm sau, tôi nhận được một lá thư từ một
người lạ nói với tôi rằng: “Con đã làm một lời khấn xin Đức
Mẹ nếu Mẹ ban một ơn chắc chắn cho con, thì con sẽ dâng
20.000 lires cho một công việc bác ái. Nay con đã nhận được
ân huệ này và con trao số tiền này cho cha sử dụng”. Một lần
khác, khi tôi đang ở Pháp, tôi nhận được một tin xấu là một
trong các nhà của tôi thật sự đang cần tới 70.000 lires để tránh
xa một nguy cơ. Tôi không thể tìm ra được một giải pháp nào,
mà chỉ biết cầu nguyện thôi. Vào 10 giờ chiều, tôi đi ngủ thì
thình lình tôi nghe tiếng gõ cửa căn phòng của tôi. Tôi đi mở
cửa. Một người bạn vào cùng với một tập hồ sơ trong tay và
nói với tôi: “Don Bosco thân mến, trong chúc thư của con, con
đã tiên liệu một số tiền cho các công cuộc của cha. Nhưng hôm
nay, con thoạt suy nghĩ là để làm sự thiện, tốt hơn là đừng đợi
cho đến khi chết. Vậy nên con đã lập tức đem tới cha số tiền
70.000 lires”.
Câu hỏi: Đó quả là những phép lạ. Cha cho phép cho con một
sự tò mò: Liệu chính cha có làm một phép lạ nào chăng?

64.8 Page 638

▲back to top
Trả lời: Tôi chỉ luôn nghĩ là mình hoàn thành tốt bổn phận của
mình thôi. Tôi cầu nguyện và tôi gửi gắm tôi cho Đức Mẹ.
Câu hỏi: Cha có thể nói cho chúng con hay hệ thống giáo dục
của cha như thế nào chăng?
Trả lời: Điều đó thật vô cùng đơn giản: là hãy để cho các trẻ
em được hoàn toàn tự do làm những điều mà các em thấy thích
nhất. Vấn đề là phải làm sao tìm ra những mầm mống của các
khả năng tốt lành và phải làm sao để làm điều mình cần phải
làm để phát triển chúng. Mỗi người sẽ chỉ vui lòng làm điều
mình biết là có thể thành công thôi. Tôi dựa trên nguyên lý này
và tất cả các học sinh của tôi đều đã làm việc, không những với
nhiệt tình mà còn với cả tình yêu. Trong 46 năm, tôi chưa bao
giờ nghiêm phạt chúng. Tôi dám quả quyết rằng các học sinh
của tôi thương mến tôi nhiều lắm!
Câu hỏi: Làm thế nào mà cha có thể trải rộng các công cuộc
của cha sang tới tận Pantagonia và Vùng đất lửa?
Trả lời: Dần dần trong mỗi lúc..
Câu hỏi: Cha nghĩ gì về các điều kiện mới của Hội Thánh tại
Âu châu, tại Ý, và tương lai của Hội Thánh?
Trả lời: Tôi không phải là một tiên tri. Ngược lại, chính tất cả
các ông là những nhà báo mới là những người tiên tri đấy! Vậy
các ông phải hỏi chính các ông chuyện gì sẽ xẩy đến chứ.
Không có ai cả, ngoại trừ Thiên Chúa, mới biết được tương lai.
Tuy nhiên, nói theo kiểu loài người, ta có thể tin rằng tương lai
chắc sẽ khó khăn. Những tiên đoán của tôi thật là buồn thảm,
nhưng tôi không sợ gì cả. Thiên Chúa sẽ luôn luôn cứu Hội
Thánh và Đức Mẹ, Đấng hiển nhiên che chở thế giới hiện đại
một cách hữu hình, sẽ làm nẩy sinh ra những vị cứu tinh.
Căn nhà của Don Bosco tại thôn Becchi

64.9 Page 639

▲back to top

64.10 Page 640

▲back to top
Chương 50
NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT NÓNG HỔI
ĐỜI SỐNG THIÊNG LIÊNG của Don Bosco trong những năm
cuối cùng càng ngày càng thêm tinh tế. Nỗi đau đớn có thể đẩy
đến một sự thất vọng hay sự chỉ trích cay độc, nhưng cũng nẩy
sinh sự thánh thiện. Sự ươm mầm thánh thiện này đã biểu lộ
nơi Don Bosco ngày càng nổi bật. Nhân cách ngài như được
biến đổi.
Pietro Stella viết: “Trong mười năm cuối cùng của cuộc sống
ngài, cách riêng kể từ năm 1882, Don Bosco biểu lộ như một
con người kể từ nay đã thấm nhuần một mối lợi chất cao của
một kinh nghiệm lâu dài. Xem ra ngài không còn phải chịu nỗi
đau khổ của những sự bất đồng với anh Antôn của ngài, hay
với những cộng sự viên đầu tiên của ngài và với Đức Tổng
Giám Mục Gastaldi. Hơn bao giờ hết ngài từ bỏ sự tranh luận;
ngài không thích người ta đánh nhau; ngài đòi hỏi ngay cả
trong các cuộc tranh cãi hay đối đầu, người ta không được cao
giọng, không được tấn công, không được bắt chước cung cách
của những tờ báo Công giáo chỉ thích tranh cãi gay gắt và
mang tính chất đả phá. Ngài muốn người ta đi qua giữa những
giọt nước của cơn bão mà không bị ướt”. Những năm cuối
cùng của đời ngài là những năm của những bất đồng lớn và
những sự tôn trọng rất thô thiển của chính quyền, của các mối
phiền toái về thuế má xẩy ra quá thường xuyên do các chính
quyền quản trị và chính trị, nhưng cũng chính khi đó ngài xem
ra hơn bao giờ hết thấm đượm cái lý tưởng của lòng dịu dàng
và của sự thông cảm”.
Một vị linh mục nghiêm chỉnh và suy tư
Năm 1883, một linh mục trẻ, nghiêm chỉnh, giàu suy tư, tới
Lombardia để được nhìn thấy ngài. Vị linh mục đó tên là
Achille Ratti. Don Bosco nói chuyện với ngài tới hơn nửa tiếng

65 Pages 641-650

▲back to top

65.1 Page 641

▲back to top
đồng hồ và trả lời cho ngài những điều mà ngài muốn biết. Sau
đó Don Bosco:
- Bây giờ cha hãy coi cha là chủ của nhà này. Tôi không thể đi
cùng cha được vì tôi rất bận, nhưng xin cha hãy đi, đến và xem
tất cả những gì cha muốn xem.
Cùng lúc ấy các giám đốc của các nhà Salêdiêng đến tham dự
cuộc họp, đã có mặt tại Valdocco. Sau bữa ăn, trong khi Don
Bosco đứng đó, dựa vào chiếc bàn ăn, thì họ đến trình bày
những khó khăn của họ. Cha Ratti muốn rút lui, thì Don Bosco
nói với ngài một cách kỳ lạ:
- Không, không, cha cứ ở lại đó!
Linh mục đó sẽ trở thành Đức Giáo Hoàng Piô XI. Bốn mươi
chín năm sau, khi nói về Don Bosco cho các chủng sinh tại
Roma, ngài kể lại sự kiện này và nói: “Có những người đến với
cha từ khắp mọi nơi: người thì với khó khăn này, kẻ khác có
khó khăn kia. Còn ngài, thì đó như là một chuyện của chốc lát,
lắng nghe tất cả, nắm bắt tất cả, trả lời tất cả. Con người đó chú
ý tới tất cả những gì xẩy ra xung quanh mình, và đồng thời,
ngài đang ở với Thiên Chúa. Hay, một chuyện lạ là ngài nói
chính xác điều gì cần cho mỗi người. Đó chính là một thứ cuộc
sống của sự thánh thiện, của kinh nguyện liên lỉ mà Don Bosco
đã sống giữa những bận rộn không ngừng và rất nặng nhọc”.
Một bông hoa giúp nghĩ về cõi đời đời
Vào tháng Tư năm 1885, ngài đi lại vài bước trong vườn của
một bà quí tộc đã mời ngài dùng bữa sáng cùng với vị thư ký
của ngài là cha Viglietti. Trong khi bước đi chậm rãi, ngài
dừng chân lại trước một thảm những cây hoa. Ngài ngắt một
bông vi-ô-lét (hoa tím) và tặng nó cho bà chủ:
- Thưa bà, bà đã ưu ái mời chúng tôi tới dùng bữa điểm tâm, tôi
muốn cám ơn bà với một bông hoa mà nó là một tư tưởng.

65.2 Page 642

▲back to top
- Tư tưởng nào đó, Don Bosco?
- Tư tưởng về cõi đời đời. Đó là tư tưởng phải luôn luôn đồng
hành với chúng ta. Tất cả mọi sự ở trần gian qua đi: chỉ có cõi
đời đời mới tồn tại vĩnh viễn. Chúng ta hãy làm việc cho cõi
đời đời của chúng ta thật là nơi hạnh phúc.
Don Bosco đã nghĩ về cái chết, về cuộc gặp gỡ cùng Thiên
Chúa. Đôi khi tư tưởng này khiến cho ngài trở nên nghiêm
chỉnh, tư lự. Một ngày kia vào năm 1885, trong khi chào một
người tại San Benigno Canavese, ngài nói với ông ta:
- Xin ông cầu nguyện cho tôi.
- Ồ, Don Bosco! Nhưng cha không cần lời cầu nguyện mà.
Don Pisetta có mặt ở đó làm chứng rằng:
- Khi đó ngài trở nên rất nghiêm nghị, nước mắt trào ra, và
nhắc lại với một dấu nhấn của một sự thành thực sâu xa: “Tôi
cần lắm”.
“Đức Mẹ ở đây”
Vào tháng Tám 1885, ngài đến Nizza Monferrato để chủ sự lễ
mặc áo dòng cho các các nữ tu Con Đức Mẹ Phù Hộ. Ngài thật
sự kiệt sức đến độ ngài chỉ có thể cho một vài sơ chịu lễ được
thôi. Ngài tham dự lễ mặc áo dòng và tuyên khấn khi ngồi tại
ghế bành. Nhưng ngài muốn nói một đôi chút. Giọng ngài thều
thào và Don Bonetti bên cạnh ngài đứng ra làm “loa phóng
thanh” trong khi nhắc lại với giọng to những câu mà người ta
không hiểu.
- Vậy các con muốn cha nói với các con vài lời. Nếu cha có thể
nói được một bài diễn văn, thì cha có biết bao nhiêu điều để nói
với các con! Nhưng cha già rồi, một cụ già sắp ngã xuống, như
chúng con thấy đó. Cha muốn nói với chúng con duy một điều

65.3 Page 643

▲back to top
thôi là Đức Mẹ yêu mến chúng con rất nhiều, rất nhiều. Và
chúng con biết đấy, Mẹ đang ở đây, giữa chúng con...
Và cha Bonetti lớn giọng cắt nghĩa rằng:
- Don Bosco muốn nói rằng nếu các chị em tốt lành, thì Đức
Mẹ là Mẹ của các chị em, sẽ gìn giữ và che chở các chị em.
- Không, không – Don Bosco lấy lại tư tưởng của mình – Cha
muốn nói rằng Đức Mẹ thật sự ở đây, trong nhà này, và Mẹ
bằng lòng với các con.
Cha Bonetti tiếp tục nói:
- Don Bosco nói rằng nếu các chị em tốt lành, Đức Mẹ sẽ bằng
lòng với các chị em…
- Khi ấy Don Bosco thu góp lại toàn thể sức lực của ngài, và
mở rộng đôi cánh tay ra và nói:
- Nhưng không phải thế, không phải thế! Cha muốn nói rằng
Đức Mẹ thật sự đang ở đây, ở giữa các con! Đức Mẹ đi dạo
trong nhà này và phủ áo lên nhà này.
Don Bosco và những người giàu có
Trong 25 năm cuối đời, những món tiền to kếch xù, đã qua tay
Don Bosco. Thực sự là những triệu đồng lires (và đó là tiền
lires của những năm 1800). Don Bosco vẫn luôn luôn là một
người nghèo, điều đó dĩ nhiên là vậy! Không bao giờ một đồng
xu ở lại trong tay ngài; nhưng người ta tự hỏi: “Những người
giàu cho cha cả những món tiền lớn, Don Bosco có khen ngợi
họ một cách quá đáng hay không? Ngài có làm cho lương tâm
họ yên lắng về trách nhiệm xã hội mà họ phải có chăng?”. Câu
hỏi này là một câu hỏi chính đáng.
Sau khi đã học hỏi về đời sống Don Bosco, có vẻ như ngài đã
cư xử rất tế nhị đối với những ai làm điều tốt cho ngài: người

65.4 Page 644

▲back to top
nông dân và thợ thuyền đã cho ngài 10 xu và bá tước Colle đã
cho ngài tổng cộng là 50 tờ ngân phiếu mỗi tờ 1000 lires.
Hơn là kể ra những lời (nhất là những lời liên quan đến "việc
làm yên ổn các lương tâm"), chúng ta muốn kể ra những sự
kiện.
Tại Sampierdarena, vào năm 1882, ngài đi thăm một cha dòng
Capuxin, cha giải tội của một ông quí tộc giàu có hằng triệu
triệu ở Genova, nay đã già mà không có con. Don Bosco sau
khi đã vào được trong vấn đề, đã hỏi ngài:
- Tại sao ông giàu có đó lại không làm sự thiện tương xứng với
gia sản ông ta có?
- Cha lầm rồi, thưa Don Bosco. Hằng năm, ông ta cho 20 ngàn
lires cho người nghèo.
- Hai mươi ngàn lires mà thôi sao? Nếu ông ta vâng lời
Chúa Giêsu Kitô, tức là cho tương xứng với tài sản ông ta có,
thì trăm ngàn có lẽ còn chưa đủ nữa là đàng khác.
- Tôi hiểu, nhưng tôi không biết làm sao thuyết phục ông ta.
Cha sẽ làm gì trong hoàn cảnh của tôi?
- Tôi sẽ nói là tôi không thể đi vào hỏa ngục vì cớ ông ta, và
rằng nếu ông ta muốn vào hỏa ngục, ông ta cứ đi vào một mình
đi. Sau đó tôi sẽ bó buộc ông ta làm việc thiện theo như hoàn
cảnh của ông ta. Nếu ông ta không muốn, tôi sẽ nói với ông ta
là tôi không thể tiếp tục trách nhiệm về linh hồn ông ta.
- Được, tôi sẽ nói cho ông ta – Vị linh mục Capuxin hứa.
Cha Capuxin đã làm như ngài đã hứa. Những lời lẽ của ngài
không làm vui lòng ông giàu có đó, và ông ta bảo ngài đi.
(M.B., Cuốn XV, tr. 520).

65.5 Page 645

▲back to top
Ông nhà thầu Borgo, cũng là người quê ở Sampierdarena, đã
làm rất nhiều công việc phục vụ cho nhà Salêdiêng, giúp đỡ
các trẻ em thật sự rất nghèo. Ông ta đã ứng trước những món
tiền rất lớn mà không đòi hỏi tiền lợi tức; ông ta đã thực hiện
các sơ đồ xây dựng và trong suốt hai năm, ông ta không đòi hỏi
tiền lương cho việc trông coi công việc xây cất.
Vợ ông ta đã chết từ 20 năm nay và ông ta giữ lại tại nhà ông
những đồ trang sức và những quần áo lộng lẫy của người vợ
quá cố. Một ngày kia, như tình cờ, ông ta nói với Don Bosco
rằng ông ta muốn làm cái gì đó để nhớ tới vợ ông ta và có ý
đảm bảo cho việc cứu rỗi linh hồn của bà ta. Don Bosco với
một vẻ đột ngột và đã hỏi ông ta:
- Nếu ông muốn là người Kitô hữu, thì tại sao ông lại giữ lại
nhà ông biết bao nhiêu đắt đỏ và vô ích thế?
- Cha muốn khuyên tôi điều gì?
- Ông hãy mang những thứ đó lại đây cho các trẻ con này.
Chúng chẳng có cả đến những cái cần thiết.
- Ông nhà thầu từ biệt cha, và cảm thấy bị xúc phạm. Hy sinh
mà Don Bosco nói tới đây thật là qúa đáng. Dẫu sao ông cũng
suy nghĩ kỹ lưỡng về những lời nói đó. Sau ít ngày, ông ta trở
lại. Don Bosco vẫn còn ở Sampierderena. Ông đích thân trao
lại cho ngài tất cả những kỷ niệm quí giá của người bạn đời của
ông.
Xem ra đối với rất nhiều các Salêdiêng, những lời lẽ Don
Bosco sử dụng đối với những người giàu có có vẻ quá nghiêm
khắc, nhưng vào ngày 4-6-1887, Don Bosco cắt nghĩa: “Trong
một số đêm cha đã thấy Đức Mẹ trong giấc mơ. Mẹ đã quở
trách cha nhiều lần là không nói về bổn phận thi hành việc bố
thí. Mẹ đã than phiền các linh mục, Giáo Hội, đã sợ hãi không
dám cắt nghĩa về bổn phận phải cho đi những thứ dư thừa cho

65.6 Page 646

▲back to top
người nghèo; chính vì lỗi của họ mà những người giàu có chất
đống vàng bạc của họ trong két.
Ngày 22-4-1887, cùng với Don Belmonte và Don Viglietti,
Don Bosco từ Sampierdarena tới Sestri Ponente để thăm bà
Luigia Cataldi, vị đại ân nhân của ngài. Cuối cuộc gặp gỡ,
trong khi bà đi theo Don Bosco đến lối ra, bà hỏi cha:
- Don Bosco, con phải làm gì để được cứu rỗi?
- Để được cứu rỗi, bà nên nghèo khó như ông Gióp.
Bà đâm hoang mang và Don Belmonte, người đã nghe được
câu hỏi và câu trả lời, cũng hoang mang. Don Bosco không nói
thêm một lời nào nữa. Khi chiếc xe đã đưa họ trở về nha, Don
Belmonte, với sự thẳng thắn của các hội viên Salêdiêng đầu
tiên, đã nói:
- Don Bosco, cha đã táo bạo tới mức nào mà dám nói như vậy
với người đàn bà khổ sở ấy như thế! Của bố thí thì bà ta đã
phân phát nhiều lắm mà!
- Cha hãy nghe - Don Bosco trả lời – Không bao giờ có ai dám
nói chân lý cho những người vĩ đại cả.
Trong cuộc hành trình cuối cùng của ngài sang Pháp, Don
Bosco thực hiện một chuyến đi tới Hieres. Ông chủ tịch Xã Hội
thượng lưu vì thương mại, đã đích thân đi qua các hàng ghế
nhà thờ vận động quyên góp cho Don Bosco. Vào cuối cuộc
quyên góp, ông đã chia vui với Don Bosco rằng đã có rất nhiều
người dự thánh lễ đã trút hết ví tiền vào khay quyên góp. Don
Bosco mới nói với ông ta:
- Tôi thấy đó là chuyện tự nhiên thôi. Nếu họ là các Kitô hữu,
họ phải đem cho những của dư thừa cho người nghèo. Ông
xem đấy, thưa ông Abeille, khi ông đã để dành ra được 100

65.7 Page 647

▲back to top
đồng Francs mỗi tháng và một trăm đồng Francs mỗi tháng là
nhiều lắm rồi, thì phần còn lại họ phải cho Thiên Chúa chứ!
Cái chết của một trong các nữ ân nhân của Don Bosco, một nữ
bá tước 84 tuổi. Vẫn còn mãi in sâu một cách đau đớn nơi tâm
trí Don Bosco. Bà đã cho gọi Don Bosco đến, đã xưng tội với
ngài, rồi bà nhìn cha Bosco với con mắt lạc lõng, rồi nói với
cha:
- Vậy là con sẽ phải thực sự chết sao?
Bosco mới tìm cách nói với bà về Thiên Chúa, nhưng bà ta
nhìn ra xung quanh với một nỗi đau khổ nặng nề, rồi tiếp tục
thì thầm:
- Ôi tòa dinh cơ đẹp đẽ của tôi, những căn phòng của tôi, phòng
khách ấm cúng của tôi, tôi phải thực sự từ giã chúng sao?
Bà đã muốn các người giúp việc đặt cạnh giường bà một tấm
thảm Ba tư quí báu, bà vuốt ve nó và như mất hút trong suy
tưởng, bà nhắc đi nhắc lại:
- Nó đẹp quá! Tại sao tôi lại phải từ giã nó?
Với Don Antôn Sala, người tỏ ra ái ngại đi ngửa tay xin tiền từ
thiện, Don Bosco nói cách kiên quyết:
- Cha hay can đảm đi đi. Những người giàu có giúp đỡ chúng
ta, nhưng chúng ta cũng giúp đỡ họ khi tạo cho họ cơ hội để
giúp đỡ những người nghèo.
Trong năm 1876, khi đi ngang qua Chieri, Don Bosco thấy ông
Giuseppe Blanchard, người bạn nhỏ của ngài thường trút hết
giỏ trái cây của gia đình mình để giúp nuôi sống ngài khi xưa.
Ông ta bây giờ cũng đã trở thành một cụ già nhỏ bé rồi. Ông ta
đi qua đường phố tay cầm một chiếc đĩa và một chai rượu. Don
Bosco liền giã từ các linh mục mà ngài đang nói chuyện, để
đến gặp người bạn cũ cách vui tươi:

65.8 Page 648

▲back to top
- Blanchard thân mến! Mình sung sướng quá khi được gặp cậu.
Khỏe chứ?
- Tốt, tốt, thưa nhà hiệp sĩ – Blanchard bối rối trả lời.
Khuôn mặt Don Bosco trở nên buồn rầu:
- Sao cậu gọi mình là Hiệp sĩ? Chúng ta không nói chuyện “tớ,
cậu” với nhau nữa sao? Mình chỉ là một Don Bosco khốn khổ,
luôn luôn nghèo như khi cậu còn cho mình ăn đấy.
Rồi Don Bosco quay mặt về phía các linh mục đang tiến lại
phía họ:
- Thưa các ngài, đây là một trong các vị ân nhân của Don
Bosco nghèo khó đấy. Này Blanchard, mình muốn các vị ấy
biết cậu. Bởi vì cậu đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm
được cho mình. Vậy cứ mỗi lần cậu lên Torino, thì cậu tuyệt
đối phải dùng bữa ở nhà mình nhé.
Mười năm sau đó, tức năm 1886, Clanchard nghe tin sức khỏe
của DonBosco xấu đi. Ông ta đến Torino để thăm ngài. Trong
phòng đợi, vị thư ký mới nói với ông ta:
- Don Bosco đau ốm và đang nghỉ. Ngài không thể tiếp đón
một ai.
- Xin cha cứ nói với ngài là có Blanchard; cha sẽ thấy là ngài
sẽ đón tiếp tôi.
Don Bosco ở sau cửa nhận ra tiếng của ông ta. Ngài cố gắng
đứng dậy và tới gặp ông ta. Ngài cầm lấy tay ông ta, đưa ông ta
vào, rồi ngồi gần ông ta:
Bạn Blanchard tuyệt vời, bạn đã nhớ tới Don Bosco nghèo khổ.
Sức khỏe của bạn ra sao, và gia đình bạn thế nào?
Hai người nói chuyện với nhau một lúc lâu, và đã tới giờ ăn:

65.9 Page 649

▲back to top
Bạn thấy đó, mình đã già rồi và lại ốm yếu nữa. Mình không
thể xuống phòng ăn để dùng bữa với bạn được. Chân của mình
không chịu nổi cảnh bước xuống cầu thang nữa. Nhưng mình
muốn bạn xuống ăn với các Salêdiêng.
Ngài gọi cha thư ký:
- Cha hãy dẫn người bạn của tôi xuống phòng ăn các bề trên và
đặt ông ta ở chỗ của tôi. Mình cầu nguyện cho bạn nhé,
Blanchard ạ! Và bạn đừng bao giờ quên Don Bosco khốn khổ
nhé.
- Vô cùng bối rối, người bạn già nhỏ bé ở vùng Chieri xưa đã
dùng bữa hôm đó ở giữa Ban Thượng Hội Đồng của Tu Hội và
kể lại tình bạn của ông ta với Gioan Bosco tại Chieri và cuộc
gặp gỡ của họ 10 năm về trước.
Xuống Roma trong vòng mười ngày
Sang tháng Năm 1887 thánh đường Thánh Tâm coi như đã
được hoàn tất, sắp được cung hiến. Trong các bức tường đền
thờ này, Don Bosco đã có bẩy năm gồm những công việc,
những khổ cực và sức khỏe bị tàn tạ.
Don Bosco lý ra đã chẳng thể nào đến được Roma. Người ta đã
nghĩ cách để hoàn thành chuyện này qua những chặng hành
trình ngắn, với nhiều dịp dừng lại. Ngài lên đường sáng 20-5-
1887. Don Lazzero viết: Ngài rời khỏi nhà, và có vẻ như ngài
chẳng chịu nổi ngay khi vừa tới Moncalieri, một chặng dừng
ngay ngoài Torino. Don Rua và Don Viglietti đồng hành với
ngài. Đây là lần đầu tiên Don Bosco cho phép mình đi trên toa
xe hạng nhất. Ngài thực hiện nhiều chặng dừng chân tại các
nhà Salêdiêng ở dọc theo bước hành trình của ngài và tại các
nhà của các ân nhân đã được báo trước.

65.10 Page 650

▲back to top
Tại Firenza, ngài gặp nữ bá tước Ugucácioni. Don Bosco thì
được Don Viglietti nâng đỡ, còn nữ bá tước thì ngồi trên ghế
bành. Don Bosco nói đùa:
- Rất sung sướng được gặp lại Bà bá tước! Chúng ta thử làm
một cuộc đi dạo bằng vũ điệu nhé?
- Ồ, Don Bosco! Cha không thấy con đang ở trong tình trạng
như thế này sao...
- Được, được, Bà bá tước đừng sợ. Cuộc dạo bằng vũ điệu này
chúng ta sẽ thực hiện ở trên Thiên đàng!
Tại nhà ga Arezzo có một cuộc gặp gỡ bất ngờ. Ngay khi thấy
ngài, ông chủ nhà ga đã chạy tới, ôm hôn ngài và vừa nói vừa
khóc vì sung sướng:
- Don Bosco, cha không nhận ra con sao? Con là một đúa bé
ngỗ nghịch ở Torino, không cha, không mẹ. Cha đã tiếp nhận
con, dạy dỗ và yêu mến con. Bây giờ con có một gia đình tốt
đẹp và địa vị này chính là nhờ cha mà con có được.
Don Bosco tới Roma vào buổi sau trưa ngày 30 tháng 04.
Người ta đưa ngài đi thăm chủng viện Lombardia. Họ xin ngài
nói chuyện với các chủng sinh. Ngài chỉ nói ra được một câu
thôi:
- Các con hãy luôn luôn nghĩ đến điều Chúa có thể nói với các
con, chứ đừng để ý đến điều người ta sẽ nói về các con, dù là
lời nói tốt hay lời nói xấu.
Đức Thánh Cha đã tiếp ngài và để ngài ngồi bên cạnh và đặt
trên hai đầu gối ngài miếng da chồn lớn. Ngài nói thì thầm:
- Tâu Đức Thánh Cha, con đã già. Đây là lần hành trình cuối
cùng và kết thúc mọi sự đối với con...Có quá nhiều chuyện
phải làm, nhưng con không cần căn dặn các con cái của con

66 Pages 651-660

▲back to top

66.1 Page 651

▲back to top
phải làm việc. Tốt hơn con phải căn dặn họ sự chừng mực –
đang khi nói như vậy, Don Bosco hướng ánh nhìn của ngài
sang phía Don Rua đang ở bên ngài. Có nhiều người đã làm hư
hoại sức khỏe của mình do làm việc không những ban ngày mà
cả ban đêm nữa.
- Tâu Đức thánh Cha, - Don Rua nói,- người đã làm gương xấu
này cho chúng con đó chính là Don Bosco.
Đức Thánh Cha mỉm cười và cho một lời khuyên tốt lành:
- Cha tha thiết nhắn nhủ cha và người đại diện cho cha là đừng
lo sao cho có con số đông hội viên, mà phải lo sao cho các hội
viên của mình thánh thiện. Không phải số lượng các Salêdiêng
làm tăng lên vinh quang của Thiên Chúa, mà là nhân đức, sự
thánh thiện. Do đó, hãy khôn ngoan và nghiêm khắc trong
những việc tiếp nhận.
Trong khi các ngài xuống cầu thang, thì những lính gác Thụy
Sĩ bắt đầu nói “Hãy cẩn thận đấy”. Don Bosco cười và nói với
họ:
- Cứ yên tâm. Tôi không phải là một ông vua. Tôi là một linh
mục nghèo khổ gù lưng.
Những dòng nước mắt nóng hổi
Đền thờ Thánh Tâm Chúa được cung hiến vào ngày 14-5-1887.
Ngày 15, Don Bosco muốn vào thánh đường để cử hành thánh
lễ tại bàn thờ Đức Maria Phù Hộ. Ngài vừa mới bắt đầu làm lễ,
thì Don Viglietti giúp lễ cho ngài thấy ngài bắt đầu khóc:
Những dòng nước mắt bất tận, không thể cưỡng lại được chảy
ra hầu như trong suốt buổi lễ. Cuối lễ, người ta phải dìu ngài
lên và đưa vào phòng áo. Don Viglietti lo lắng, mới nói nhỏ
với Don Bosco:
- Don Bosco, cha có gì thế? Cha không được khỏe chăng?

66.2 Page 652

▲back to top
Don Bosco lắc đầu:
- Chính cái cảnh sinh động của giấc mơ 9 tuổi hiện lên trước
mắt tôi. Tôi đã thấy lại giấc mơ ấy và nghe mẹ tôi, các anh tôi
bàn luận với nhau về điều tôi đã mơ.
Trong giấc mơ xa xôi ấy, Đức Mẹ đã nói với tôi: “Vào giờ của
, con sẽ hiểu”. Hiện tại, khi nhìn về quá khứ của ngài, Don
Bosco hình như đã thật sự hiểu hết tất cả. Chuyện này đáng để
cho ngài phải chịu biết bao nhiêu hy sinh, biết bao nhiêu lao
nhọc để cứu nhiều người trẻ.
Ngày 8-5-1887, Don Bosco giã từ Roma lần chót.
Luigi Orione: ba cuốn sổ tay ghi các tội
Ngay cả trong những năm cuối đời, bị nghiền nát bơi các cuộc
hành trình và nợ nần, Don Bosco cũng không bao giờ tách
mình khỏi đám trẻ con. Nhìn thấy chúng, lắng nghe chúng, mỗi
bước đi với chúng, đều đem lại cho ngài sức sống sau những
ngày mệt nhoài .
Vào tháng Mười 1886, một đứa trẻ 14 tuổi vùng Pontecursone
được nhận vào Nguyện xá. Tên cậu bé là Luigino Orione, con
trai của một người lát gạch vỉa hè. Chính cậu ta cũng từng qùy
ở bên bố mình, hằng giờ với đầu gối dìm vào đống cát, rồi xếp
những viên gạch này bên cạnh viên khác, vùi chúng xuống đất
bằng những cú gõ nhẹ của búa. Cậu ta đã thử trở thành sư
huynh La Salle tại Voghera, nhưng rồi bị ốm và buộc phải trở
về nhà. Các Salêdiêng tại Valdocco đã tiếp nhận cậu.
Louis thích Don Bosco lắm và bị thu hút bởi ngài. Khi cha đi
xuống sân chơi "nhưng kể từ đó họa hiếm lắm cha mới xuống",
thì các trẻ em từng toán mười hay cả trăm em chen nhau bao
quanh ngài, tranh nhau chỗ gần ngài nhất, sung sướng tiếp
nhận lấy mỗi lời Luigino lấn mạnh nhất để có chỗ ở hàng đầu.
Don Bosco nhận diện cậu bé, và mỉm cười với cậu, hỏi cậu ta

66.3 Page 653

▲back to top
rằng tại xứ cậu, mặt trăng có to lớn như ở Torino chăng, và khi
ngài thấy cậu bé cười, thì ngài nói đùa rằng: “Con là thằng bé
làm cho tuyết rơi, một thằng bé ngây thơ”. Luigino nẩy sinh
một khao khát là được xưng tội với Don Bosco. Nhưng làm sao
để làm được chuyện này?
Don Bosco hầu như mất hết sức lực rồi. Cha chỉ giải tội cho
một vài Salêdiêng và cho các học sinh lớp 12 đang chuẩn bị
vào nhà tập. Nhưng bằng một phương cách rất đặc biệt nào đó,
Luigino được cha nhận giải tội cho. Vậy cậu ta nghĩ là mình
phải chuẩn bị cho thật kỹ. Sau đây là lời chính Don Orinoe kể
lại: “Trong việc xét mình của tôi, tôi viết đầy ba cuốn sổ”. Để
không quên một điều gì, cậu tra hỏi các công thức xưng tội.
Cậu chép lại hết, cáo mình về mọi sự. Chỉ có một câu hỏi cậu
trả lời là không có mà thôi: đó là “Con có giết người không?
Thì cậu viết lại rằng “thưa con không!”. Thế rồi cậu đút cả ba
cuốn sổ vào túi, tay đặt trên ngực, mặt cùi xuống đất, xếp hàng
để đợi phiên mình. Cậu run lên vì cảm động.
Don Bosco sẽ nói với mình cái gì đây khi ngài sẽ đọc hết các
tội này?
Cậu đưa tay chạm vào các cuốn sổ đó. Và phiên của cậu đã
đến. Cậu quì gối xuống. Don Bosco nhìn cậu mỉm cười.
- Con đưa các tội của con cho cha.
Cậu bé rút ra cuốn sổ tay thứ nhất. Don Bosco cầm lấy nó, xem
ra ngài đang thử xem nó nặng bao nhiêu rồi ngài xé nó đi.
- Con đưa cho các cuốn khác.
Cả hai cuốn sổ khác cũng chung số phận như vậy. Đứa bé tiếp
tục nhìn, bối rối không biết làm gì nữa.
- Bây giờ thì việc xưng tội đã xong - Don Bosco nói - Con
đừng nghĩ gì nữa về những gì con đã viết.

66.4 Page 654

▲back to top
Rồi ngài mỉm cười với cậu. Luigino sẽ không bao giờ quên
được nụ cười ấy. Sau lần xưng tội này, cậu còn thành công
được vài lần khác xưng tội với Don Bosco.
Một hôm Don Bosco nhìn vào mắt cậu:
- Con hãy nhớ là chúng ta hai người sẽ luôn là bạn của nhau
nhé.
Luigi Orione sẽ không bao giờ quên được lời hứa đó. Khi cậu
biết là Don Bosco sắp kết thúc cuộc sống, cậu đã dâng hiến
cuộc sống của mình để đổi lấy mạng sống của Don Bosco. Khi
cậu sẽ trở thành Cha của một Tu Hội với các Nguyện Xá và các
nhà cho các trẻ con nghèo khổ nhất, thì ngài còn lên tiếng nói
khi nghĩ về Don Bosco:
- Để có thể được thấy ngài một lần nữa và nói với ngài tiếng
cám ơn, tôi sẽ sẵn sàng bước đi trên than hồng.
Ngài luôn luôn gọi ba năm ở Valdocco là “Mùa sự sống sung
sướng nhất của cuộc đời tôi”.

66.5 Page 655

▲back to top
Chương 51
CHÀO BIỆT TRÁI ĐẤT
Vào cuối tháng Tám 1887, có các khóa tĩnh tâm tại Valsalice,
trên đồi Torino, cho các người trẻ xin gia nhập Tu Hội
Salêdiêng. Don Bosco tới đó sẵn sàng tiếp nhận những ai muốn
xưng tội với ngài.
Kể từ ngày 25 tháng Năm, ngài đã không còn chủ trì các cuộc
họp của Ban Thượng Hội Đồng của Tu Hội nữa, mà để lại
nhiệm vụ này cho Don Rua, phó bề trên đại diện ngài. Nhưng
ngày 12 tháng 9 năm 1887, ngài tham dự khóa họp tại
Valsalice.
Vào giữa tháng Chín năm đó, ngài cảm thấy cơn bệnh đến.
Những cơn sốt và các cơn đau đầu kinh khủng tấn công ngài.
Có những ngày ngài không thể cử hành thánh lễ. Don Viglietti,
thư ký của ngài, đã ghi nhận trong sổ nhật ký rằng: “Tuy nhiên
ngài vẫn luôn luôn vui vẻ, làm việc, viết lách, tiếp nhận người
ta đến gặp gỡ. Đáng lý ngài cần sự an ủi của những người khác,
thì ngài lại luôn an ủi mọi người”.
Một buổi chiều vào cuối tháng Chín, trong khi ngài cố gắng
dùng bữa tối tại phòng, thì cha giám đốc trung tâm nông nghiệp
của xứ Mogliresno Veneto, Don Veronesi, đến ở bên ngài. Don
Bosco thình lình nói với vị đó:
- Tôi chỉ còn sống được ít lâu nữa thôi. Các bề trên của Tu Hội
không tin điều đó, họ nghĩ rằng Don Bosco còn sống lâu hơn...
Tôi không tiếc vì phải chết. Điều làm tôi đau lòng là những
món nợ của thánh đường Thánh Tâm Chúa và nghĩ đến biết
bao nhiêu tiền cần phải quyên góp. Don Dalmazzo thân mến là
một người tốt lành, nhưng không phải là một quản trị
viên...Các con cái của tôi sẽ nói gì khi thấy nhiệm vụ đó được

66.6 Page 656

▲back to top
trao cho họ gánh vác?... Cha hãy cầu nguyện cho tôi. Năm tới,
vào dịp tĩnh tâm năm, tôi sẽ không còn nữa.
Cha cảm thấy nỗi cô đơn dần dần bao trùm lấy cha
Don Albera, Giám Tỉnh các nhà Salêdiêng tại Pháp, phải lên
đường. Ngài tới chào Don Bosco. Don Bosco trìu mến nhìn
“Paolino nhỏ bé” của ngài và thì thầm với nước mắt tràn mi:
- Cả con nữa, con cũng đi, tất cả các con đều bỏ cha. Cha biết
Don Bonetti sẽ đi chiều nay. Don Rua nữa cũng sẽ đi. Người ta
để cha lại một mình.
Ngài bắt đầu âm thầm khóc; đó là một người khốn khổ, nhọc
mệt đang cảm thấy sự cô đơn dần dần bao phủ lấy mình, sau
biết bao nhiêu công việc. Don Albera khóc lên vì cảm xúc. Don
Bosco tiếp lời:
- Cha không quở trách con đâu, con biết rõ đấy. Con phải làm
bổn phận của con. Nhưng cha nay là một người già khốn khổ...
Cha sẽ cầu nguyện cho con, để Thiên Chúa đồng hành với con.
Trước khi xuống núi trở lại Valdocco, Don Bosco qua một vài
phút với Don Barberis, giám đốc Valsalice. Ngài nhìn hồi lâu
vào chiếc cầu thang lớn và nói cách thanh thản:
- Kể từ giờ phút này cha sẽ ở dưới sự che chở của nhà này...
Sau đó một lúc, ngài nói:
- Hãy cho sửa soạn họa đồ đi.
Don Barberis nghĩ là Don Bosco có ý nói đến phần cuối cùng
của một tòa nhà đang xây cất:
- Con sẽ sửa soạn bức họa đồ và con sẽ trình lên cha.
- Không phải vào mùa đông này mà là vào mùa xuân sắp tới.
Bức họa đồ cha sẽ trình bày với Don Rua.

66.7 Page 657

▲back to top
Rồi ngài tiếp tục nhìn về phía cầu thang.
Trên những bậc của chiếc cầu thang lớn đó, bốn tháng sau,
người ta sẽ đào một chỗ để chôn Don Bosco. Bức họa đồ về
một bia đài nhỏ bé để tôn vinh Don Bosco được Don Barberis
trình bày cho Don Rua vào đúng mùa xuân năm 1888. Khi ấy
cha Barberis nhớ lại những lời huyền bí của Don Bosco.
Giống như cây nến dần tắt
Don Bosco trở về Valdocco ngày 2 tháng Mười. Các học sinh
hồ hởi đón ngài. Các em sung sướng đi theo ngài từ sân cho tới
tận cầu thang lên phòng của ngài. Các em lớn giúp ngài bước
lên phòng, đi từng bậc thang một. Lên tới trên đó, Don Bosco
xuất hiện tại ban-công vẫy tay chào các học sinh. Chúng vẫy
tay đáp trả lại và hô to: “Don Bosco muôn năm!”.
Ngài giống như một cây nến dần tắt.
Ngài cử hành thánh lễ tại phòng riêng, nhưng luôn luôn có một
linh mục giúp lễ. Ngài nói và thở rất khó. Ngài đùa giỡn với
các người tới thăm viếng:
- Cha tìm thêm hai ống bễ (ống thổi) để thay đổi. Những ống
bễ của cha không còn hoạt động nữa.
Ngày 4 tháng 12, Don Cerruti, người đứng đầu Nguyện Xá lên
nói chuyện với ngài. Don Bosco nói với cha:
- Tôi thấy cha xanh xao. Sức khỏe của cha ra sao? Cha phải săn
sóc lấy mình. Cha hãy làm cho cha điều cha muốn làm cho
Don Bosco.
Don Cerruti cảm kích. Don Bosco lại lên tiếng:
- Can đảm lên nhé, Don Cerruti yêu mến, trên Thiên đàng
chúng ta sẽ thật sự sung sướng.

66.8 Page 658

▲back to top
Các thư ký đem đến cho cha rất nhiều các lá thư gửi tới. Ngài
mới viết vài chữ để hướng dẫn câu trả lời cho các thư, nhưng
chính ngài thì không thể đích thân trả lời thư cho một ai. Lá thư
cuối cùng trên đó, chính tay ngài viết hai dòng gửi tới cho bà
Broquier: “Chúng ta hãy cho đi nhiều, nếu chúng ta muốn nhận
thật nhiều. Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta và hướng dẫn
cho bà”.
Trong Thánh Lễ, ngài không thở được. Ngài cử hành thánh lễ
vào ngày mùng bốn. Ngày Chúa Nhật, tức là ngày 11 tháng
Mười Hai, ngài cố gắng cử hành thánh lễ một lần nữa, nhưng
vào cuối lễ ngài đã gục xuống. Đó là thánh lễ cuối cùng của
ngài.
Đức Cha Cagliero đến
Chiều ngày 7 tháng 12, 1887, Đức Cha Cagliero từ Mỹ Châu
trở về. Don Rua đã đánh diện tín cho ngài rằng: “Bố trong tình
trạng báo động”. Ngài đã lập tức lên đường.
Trong khi Đức Cha đi qua sân, các học sinh ra đón mừng ngài.
Ngài liền ngước mắt nhìn lên các cửa sổ mà ở trong đó Don
Bosco đang sắp chết. Ngài vào phòng. Don Bosco ngồi trên
một ghế xô-pha nhỏ. Đức Cha Cagliero qùi xuống ôm hôn
ngài, siết chặt ngài vào lòng, tựa đầu vào vai ngài. Sức mạnh
và lòng can đảm của một trong những người con đầu tiên của
ngài đem lại sức sống cho Don Bosco. Ngài xoa xoa trên ngực
nơi Đức Cha Cagliero đã bị gẫy hai chiếc xương sườn trong
một tai nạn ngã nặng nề tại giải núi Andes:
- Bây giờ con khỏe chưa?
- Và khi Đức Cha trả lời, thì ngài đưa mắt quan sát Don Bosco:
trông cha mình bây giờ già quá, yếu quá sau ba năm trời!
Họ qua buổi chiều bên nhau, cùng ngồi trên ghế xô-pha. Vị
Giám mục kể lại tất cả những điều ngài có thể kể ra về cuộc

66.9 Page 659

▲back to top
truyền giáo, các Salêdiêng làm việc tại đó, về các người dân
bản địa mà họ đã dạy dỗ, rửa tội lên tới hằng ngàn. Thình lình,
giống như khi còn nhỏ, Đức Cha nói yêu cầu:
- Don Bosco, xin cha giải tội cho con.
Những lời khuyên của Don Bosco chiều hôm đó đã được vị
Giám mục viết lại trên một tờ giấy để đem sang Châu Mỹ. Don
Bosco đặc biệt nói với ngài:
“Cha ước mong là con ở lại cho tới khi mọi sự giải quyết xong
sau khi cha chết”.
“Con hãy nói cho tất cả các Salêdiêng là họ hãy làm việc với
lòng nhiệt thành và hăng say: làm việc và làm việc!”.
“Các con hãy yêu thương nhau như những người anh em: hãy
yêu thương nhau, hãy giúp nhau, hãy chịu đựng nhau.”
Ngày hôm sau, Don Bosco còn nói chuyện lâu dài với Đức
Cha. Thình lình, Don Bosco âu lo, thốt lên với ngài:
“Cha đang ở những thời gian cuối của cuộc sống. Bây giờ tới
lượt các con làm việc để cứu giới trẻ. Nhưng cha phải thú nhận
với các con một nỗi lo sợ của cha. Cha sợ rằng một số trong
các con sẽ cắt nghĩa sai tình thương yêu mà Don Bosco có đối
với các trẻ, rằng Don Bosco để cho mình bị lôi cuốn tới chúng
do quá nhiều tình cảm; và rồi họ dựa vào cái cớ đó để biện
minh cho một số những tình cảm yêu thương đáng nghi ngại
đối với bất cứ trẻ em nào.
- Don Bosco xin cha cứ yên lòng. Không ai trong chúng con lại
cắt nghĩa sai cách thức cha đối xử với các thanh thiếu niên.
Còn về nỗi sợ hãi của cha là có thể có nhưng ai đó mượn cớ đó
để làm sai, thì cha cứ để cho con lo liệu: những lời nhắn nhủ
này của cha chúng con sẽ nhắc nhở lại cho tất cả mọi người”.

66.10 Page 660

▲back to top
Ngày 16 tháng 12, bác sĩ ra lệnh cho Don Bosco thực hiện một
cuộc đi dạo bằng xe ngựa: không khí thông thoáng sẽ làm cho
Don Bosco dễ chịu. Don Rua và Don Viglietti nâng đỡ ngài từ
trong cầu thang và đi theo ngài. Khi trở về, trong khi chiếc xe
ngựa leo lên trên đại lộ Victore Emmanuel trở lại, thì Don
Viglietti nhìn thấy Đức Hồng Y Alimonda ở phía dãy cột hành
lang. Don Bosco mới nói với Don viglietti:
- Con đến xin Đức Hồng Y đến đây một chút. Cha muốn nói
chuyện với ngài, nhưng cha không thể đi tới đó được.
Vừa nghe cha Viglietti nói, Đức Hồng Y liền vội tiến ra phía
xe ngựa, giang rộng hai cánh tay và thốt lên:
- Ôi! Don Bosco, Don Bosco!
Ngài bước lên xe ngựa, ôm áp má Don Bosco với biết bao tình
thương mến. Don Rua xuống xe. Đức Hồng Y và Don Bosco
nói chuyện với nhau nửa tiếng đồng hồ trong khi chiếc xe ngựa
chậm rãi lăn bánh yên tĩnh trên đường phố Cenaria.
Các ý tưởng đậm hương vị cõi đời đời
Ngày 17 tháng 12, 1887. Sức lực bắt đầu rời bỏ Don Bosco
hoàn toàn. Ở ngoài cửa có khoảng 30 em đợi xưng tội với ngài.
Ngài mới nói với Don Viglietti:
- Tôi không cảm thấy muốn... giải tội cho các em...
Nhưng rồi sau một lúc:
- Tuy vậy, đây là lần cuối cùng tôi có thể giải tội cho các trẻ
em. Đây chính là lần cuối cùng... Cha hãy nói là chúng hãy lại
đây.
Ngày 19 tháng 12. Don Eugenio Reffo, thuộc Tu Hội Thánh
Giuse, đến gặp Don Bosco. Don Bosco dịu dàng nói:

67 Pages 661-670

▲back to top

67.1 Page 661

▲back to top
- Người bạn thân mến, cha luôn thương yêu con và cha sẽ mãi
mãi thương yêu con. Cha đang ở trong những ngày cuối cùng
của cuộc đời. Con hãy cầu nguyện cho cha, và cha sẽ cầu
nguyện cho con.
- Ngày 19 tháng 12. Don Viglietti thấy ngài rất thanh thản, nên
cha xin ngài viết vài lời trên một vài bức hình để rồi cha sẽ gửi
chúng cho các Cộng Tác Viên. Don Bosco trả lời : “Tốt lắm!”.
Ngài ngồi dậy trên chiếc đi-văng, với một tấm bảng gỗ trước
mặt ngài, ngài viết phía sau lưng hai bức ảnh:
“Ôi Mẹ Maria, xin hãy xin Chúa Giêsu ban cho con sức khỏe
thể xác, nếu nó có lợi cho linh hồn con, nhưng xin hãy đảm bảo
cho con ơn cứu độ đời đời”.
“Hãy sớm thực hiện các việc thiện, vì người ta có thể thiếu thời
gian để làm”.
Viết tới đây, cha dừng lại.
- Nhưng con biết đấy – Don Bosco ngỡ ngàng lên tiếng nói với
cha Viglietti – cha chẳng còn biết viết gì nữa? Cha mệt quá.
Don Viglietti gợi ý là ngài nên dừng lại, nhưng Don Bosco lại
nói:
- Không, cha phải viết tiếp. Đây là lần cuối cùng cha cầm bút
để viết.
Và Don Bosco tiếp tục viết ra những ý tưởng của mình trên các
bức ảnh. Những tư tưởng này có tất cả cái hương vị của cõi đời
đời.
“Phúc cho những người đã dâng hiến mình cho Thiên Chúa
ngay từ thời niên thiếu”.

67.2 Page 662

▲back to top
“Ai dâng hiến mình cho Thiên Chúa muộn màng, thì liều gặp
nguy hiểm lớn là để mất linh hồn”.
Các con nhỏ của cha, các con hãy gìn giữ tốt thời gian, và thời
gian sẽ gìn giữ các con trong cõi đời đời”.
Chúng ta làm tốt, chúng ta sẽ vui sướng ngay trong đời này và
cả đời sau”.
Ai gieo các công việc lành, thì thu hoạch hoa trái tốt”.
Vào cuối đời con người thu hoạch hoa trái của các việc lành
của mình”.
Don Viglietti ở bên cạnh cha, khi đọc câu cuối cùng này,
không cầm nổi nước mắt, liền lên tiếng:
- Don Bosco ơi, cha hãy viết cái gì đó vui vẻ hơn - Còn Don
Bosco thì pha trò:
- Nhưng con là đứa bé thế nào, bé Carlucácio thân mến của
cha... Con đừng khóc nữa. Cha đã nói với con đây là những lời
cuối cùng mà cha viết đó Sapo? Dẫu sao, thì cha cũng phải tìm
cách để vâng lời con.
- Và rồi Don Bosco tiếp tục viết:
“Chớ gì Thiên Chúa chúc lành cho chúng ta và cất đi mọi sự dữ
khỏi chúng ta”.
“Hãy cho và anh em sẽ nhận được”.
Xin Thiên Chúa chúc lành cho chúng con, và Đức Trinh Nữ
Maria sẽ là Đấng hướng dẫn chúng ta khỏi tất cả mọi nguy
hiểm của cuộc đời”.
“Những người trẻ là các bạn hữu thân thiết nhất của
Chúa Giêsu và Đức Mẹ Maria!”.

67.3 Page 663

▲back to top
Tới đây, Don Bosco lại tự nhiên tái viết lại những tư tưởng của
cõi đời dời:
“Ai cứu rỗi linh hồn mình, thì cứu rỗi tất cả. Ai mất linh hồn
mình thì mất tất cả”.
“Ai bảo vệ các người nghèo, thì sẽ nhận lãnh phần thưởng lớn
lao từ nơi Tòa Án Thiên Chúa”.
Chúng ta sẽ nhận lãnh phần thưởng to lớn biết mấy vì những
việc thiện chúng ta làm trong cuộc sống!”.
“Ai làm tốt trên trái đất, thì sẽ hưởng sự tốt lành trong giờ
chết”.
“Trong cõi Thiên đàng người ta sẽ được hưởng mọi sự tốt lành,
đời đời, mãi mãi”.
Đấy là câu cuối cùng Don Bosco đã viết lên, bằng những
chữ nghuệch ngoạc hầu như không đọc ra được.
Sự im lặng ở khu sân lớn
Sáng hôm đó, Don Bosco tiếp nhận các cuộc thăm viếng cuối
cùng. Từ gần 40 năm nay, Don Bosco dành cả buổi sáng để cố
vấn, chúc lành, an ủi, cứu giúp, khích lệ tất cả những ai muốn
đến nói chuyện với ngài. Đó là một nhiệm vụ nặng nề trong
suốt cả cuộc đời ngài. Cả một chuỗi dài các cuộc thăm viếng
này khép lại với lần thăm viếng của nữ bá tước Mocenigo vào
12g30 ngày 20-12-1887.
Buổi chiều bác sĩ yêu cầu một cuộc dã ngoại mới trong xe
ngựa. Ngài tuyệt đối cần hít thở không khí ngoài trời. Bất chấp
sự phản đối của ngài, người ta đã khiêng ngài xuống trên chiếc
ghế bành. Trong khi chiếc xe ngựa lăn chậm rãi trên phố
Regina Margherita, có một người lạ dừng xe lại. Đó là một
người từ miền Pinerolo, một học sinh của thời đầu Nguyện Xá.
Don Bosco nhận ra người này và ôm hôn ông.

67.4 Page 664

▲back to top
- Con yêu quí, công việc của con ra sao?
- Cũng thường thường thôi, cha ạ. Xin cha cầu nguyện cho con.
Người ta đã nói với con ở cổng Nguyện Xá là cha đã đi qua
đây và con muốn đến chào cha.
- Tốt lắm! Còn phần linh hồn con có tốt đẹp không?
- Con đã cố gắng luôn luôn giữ mình cho xứng với danh học
trò của Don Bosco.
- Tốt lắm, tốt lắm! Thiên Chúa ân thưởng cho con. Con hãy cầu
nguyện cho cha. Con hãy sống luôn luôn là một Kitô hữu tốt.
Không khí ngoài trời xem ra khiến cha dễ chịu, nhưng vừa khi
cha trở về nhà, bác sĩ Albertotti thấy cha rất khó chịu. Ông liền
buộc cha lên giường. Thầy Festa có mặt, mới hỏi Don Bosco:
- Cha cảm thấy thế nào?
- Bây giờ cha chỉ còn đợi thực hiện một sự kết thúc tốt đẹp.
Giữa những ngày 20 đến 31 tháng Mười Hai, bước kết thúc
xem ra rất gần.
Sư huynh Pietro Enria, người đã thức suốt nhiều đêm, tóm tắt
các ngày cực nhọc của cha bằng hai tiếng: “Ngài chịu đau khổ
và giữ im lặng”.
Nhiệt độ trong người cha lên cao, hơi thở khó khăn. Bác sĩ nói:
- Ngài tuyệt đối cần phải ăn uống thứ gì đó.
Ngồi gần giường cha, Don Viglietti cho cha ăn một chút cháo
nhẹ. Don Bosco đưa tay là cầm lấy bát cháo, nhưng cha
Viglietti muốn mình cầm bát cháo thay cho cha. Don Bosco
bông đùa:
- Thế đấy, con muốn ăn cháo thay cha chứ gì?

67.5 Page 665

▲back to top
Trong sân lớn đầy ắp các học sinh. Một bầu khí im lặng bao
trùm cách nặng nề. Ngay cả những chú bé cũng nhìn lên cửa sổ
đằng sau đó có người bạn vĩ đại của chúng sắp chết.
“Tới lượt cha, cha phải xin người ta nói câu ấy cho cha”
Ngày 23 tháng Mười Hai. Ban trưa, người ta coi như là giờ
phút chót của ngài. Don Bosco thì thầm:
- Cha xin có ai đó chuẩn bị cho cha chịu phép xức dầu kẻ liệt.
Don Bonetti ở gần giường ngài. Don Bosco thình lình nắm lấy
tay cha siết mạnh:
- Con hãy luôn luôn là chỗ dựa vững chắc cho Don Rua.
Khi Don Cagliero tới, ngài tập hợp tất cả sức lực của mình và
nói với Đức Cha:
- Con sẽ nói cho Đức Thánh Cha là Tu Hội và các Salêdiêng,
dù bất kỳ họ ở đâu hay làm việc gì, cũng đều có mục tiêu đặc
biệt là nâng đỡ quyền bính của Tòa Thánh… Được sự bảo vệ
của Đức Thánh Cha, các con sẽ lên đường đi Phi Châu… Các
con sẽ vượt qua đó…Các con sẽ đi Á Châu và những chỗ
khác…Hãy có niềm tin.
Giusepe Buzzetti đang ở đó, gần bên ngài, với bộ râu đỏ oai
nghi. Don Bosco không còn nói được nữa, nhưng cố pha trò
cười trong khi cử hành một cái chào nhà binh. Sau đó ngài có
thể thì thầm những lời:
- Ôi! Người bạn của tôi! Con luôn luôn là một người bạn thân
thiết của cha!
Vào buổi chiều, Don Cassini, một nhà truyền giáo vừa trở về
cùng với Đức Cha Cagliero, ngồi gần Don Bosco. Don Bosco
thì thầm vào tai cha này:

67.6 Page 666

▲back to top
- Cha biết mẹ của con nghèo. Con cứ nói thật đơn sơ với cha và
với cha mà thôi, đừng nói lại với ai những bí mật này. Cha sẽ
cho mẹ của con tất cả những gì con nghĩ là mẹ con cần.
Pietro Enria phục vụ ngài trong những việc nhỏ nhất, Don
Bosco nói với anh ta trong tiếng thều thào rằng:
- Pietro vất vả của cha, con kiên nhẫn nhé!
- Ồ, Don Bosco! Con sẵn sằng dâng hiến mạng sống con để
cho cha được khỏi bệnh. Cha biết đấy, không phải chỉ có con,
mà nhiều bạn khác cũng yêu mến cha như vậy.
Don Bosco cố gắng trả lời cho cậu ta bằng những lời:
- Điều cha đau đớn nhất khi chết, chính là phải chia tay với các
con.
Trời đã về khuya khi Đức Hồng Y Alimonda tới. Người ta đã
báo với Don Bosco rằng đêm nay có thể là đêm cuối cùng. Don
Bosco xiết chặt Đức Hồng Y vào gần trái tim mình và ôm lấy
ngài. Don Bosco cố gắng nói với Đức Hồng Y vài lời:
- Thưa Đức Hồng Y, xin cha cầu cho con được cứu linh hồn
con.
- Nhưng cha, cha không phải sợ chết. Cha đã từng căn dặn
những người khác là hãy chuẩn bị mình cho kỹ mà!
- Vâng… và tới lượt mình cũng cần người ta phải nói với con
như vậy.
Vào lúc 24 giờ sáng người ta mang của Ăn đàng đến và Đức
Cha Cagliero ban cho ngài bí tích xức dầu bệnh nhân.
Người ta chứng kiến có một sự gì đó tiến bộ về sức khỏe của
cha.

67.7 Page 667

▲back to top
Ngày 26 tháng Mười hai, Carlo Tomatis, một cựu học sinh
cùng thời với Đaminh Saviô đến gặp cha. Ông ta đem theo đứa
con trai của ông để Don Bosco chúc lành cho nó, nhưng ông ta
không ngờ rằng mình tìm thấy cha trong tình trạng hoàn toàn bị
hủy hoại bởi cơn bệnh như vậy. Ông ta quá bối rối bên giường
cha và chỉ thốt ra được những lời: “Ôi, Don Bosco! Ôi! Don
Bosco!” Khi ông ra khỏi căn phòng, Don Bosco ra dấu hiệu
cho Don Rua cúi xuống và ngài thì thầm với cha:
- Con biết ông ta đang gặp khó khăn. Con hãy trả cho ông ta
tiền đi đường thay cho cha.
Cùng ngày hôm đó, Mẹ Caterina Daghero đến thăm ngài. Mẹ
xin Don Bosco chúc lành cho các Con Đức Me Phù Hộ. Don
Bosco thì thầm:
- Được, được. Cha chúc lành cho tất cả các nhà Con Đức Mẹ
Phù Hộ, cha chúc lành cho Bề Trên Tổng Quyền và tất cả các
sơ ... Các con hãy làm sao để cứu được thật nhiều linh hồn.
Bác sĩ ra toa buộc bệnh nhân phải hoàn toàn im lặng và cấm
mọi cuộc thăm viếng. Don Bosco qua cả ngày thiếp ngủ, liên
tục trong cảnh nửa mê nửa tỉnh.
Ngày 19 tháng Mười Hai. Vào cuối ngày Don Bosco cho gọi
Don Rua và Đức Cha Cagliero. Ngài cầm lấy tay họ và nói
cách bình tĩnh:
- Các con hãy thương yêu nhau như anh em. Hãy thương yêu
nhau, giúp đỡ và chịu dựng nhau như anh em. Thiên Chúa và
Đức Mẹ Phù Hộ không quên giúp đỡ chúng con... Các con hãy
hứa cùng cha là thương yêu nhau như anh em.
Trong đêm hôm đó, ngài xin anh Enria cho một ngụm nước.
Sau đó ngài nói thêm:
- Cần phải học sống và học chết.

67.8 Page 668

▲back to top
Giờ phút “những con vật ghê gớm” trở lại
Tất cả xem như đã hết. Nhưng ngược lại ngày 20 tháng Giêng,
thật ngoài sức tưởng tượng, Don Bosco khỏe hẳn lại. Sức khỏe
của ngài coi như đã trở lại, gốc cây già nay lại tái trổ bông. Đó
là một phút giây Thiên Chúa ban cho, nhưng niềm hy
vọng phút chốc tiêu tan.
Ngày 21 tháng Giêng, Đức Cha Cagliero vào phòng Don
Bosco:
- Don Bosco ạ, xem ra mối nguy hiểm chúng con e ngại đã bị
đẩy lui. Người ta gọi con tới Lu để mừng lễ thánh Bổn mạng
của họ. Đó là một xứ sở đã cung cấp cho chúng con biết bao
nhà truyền giáo tốt và nhiều nữ tu. Sau đó con sẽ đi một vòng
thăm các học sinh của chúng con tại Borgo San Marino.
- Con cứ đi, cha rất vui lòng. Nhưng con lo thực hiện chuyện
này nhanh lên đấy.
Sáng ngày 22 tháng Giêng, tất cả mọi hy vọng tiêu tan. Bệnh
tình mau quay lại tình trạng nghiêm trọng.
Sau trưa ngày 24 tháng Giêng, bệnh tình Don Bosco lại càng
nghiêm trọng. Các bác sĩ nói rằng có thể mất Don Bosco vào
bất cứ lúc nào. Cơn hôn mê lại chụp xuống ngài, trong đó có cả
việc mê sảng.
Anh Phêrô Enria, luôn luôn có mặt, thấy Don Bosco thình lình
vỗ tay và anh hiểu rằng ngài sẽ la lên:
- Hãy chạy lại, hãy mau chạy lại cứu các bọn trẻ!... Lạy Mẹ
Maria rất thánh, xin giúp chúng... Lạy mẹ, lạy Mẹ!
Có người nói trong các câu ngài nói trong cơn mê sảng này,
Don Bosco nói lên nỗi sợ cho các thanh thiếu niên, chứ không
phải là một tình cảm tín nhiệm nơi Đức Mẹ. Một khoa tâm lý
học tốt đẹp ngày nay quả quyết rằng: những nỗi sợ hãi, những

67.9 Page 669

▲back to top
tình cảm bị dồn sâu vào đáy tâm hồn bởi một cố gắng to lớn
của ý chí trong cuộc sống của ngài, xem ra tái phát sinh trở lại
vào lúc đó. Đó là “những bóng ma”, “những con vật ghê gớm”
tái xuất hiện trở lại, xuất phát từ những độ sâu của sự vô ý thức
khi mà ý chí (đã từng cột trói chúng) vào lúc đó đã bị tê liệt,
phá hủy đi bởi một giấc mơ do cơn bệnh tạo nên.
Trong những năm xa xưa của thời chủng sinh, Don Bosco đã
duy trì (ở chốn sâu xa của chỗ vô ý thức) một khung giáo dục
được cô đọng trong hai chữ sợ hãi và tin tưởng. Nhưng trong
suốt đời sống của ngài, ngài đã quay sang một danh từ kép
khác: đó là tình bạn và sự tin tưởng. Ngài đã cảm nhận tình
bạn và tin tưởng ấy một ít thời gian trước đó bằng cách thức
giải tội cho một em bé hãi sợ là Luigi Orione.
Nghịch lý thay, vào lúc sắp chết này, hình như cái mà ngài đã
chiến thắng trong suốt cả cuộc sống của ngài, thì nó lại tái hiện
mạnh mẽ trở lại.
“Hãy nói với các con của cha”
Ngày 26 tháng Giêng, Đức Cha Cagliero trở lại. Ngài lập tức
tới bên đầu giường của bệnh nhân. Ngài hiểu rằng mọi chuyện
giờ đã rất xấu rồi, nhưng ngài muốn “biết" bởi chính Don
Bosco xem còn có được chút hy vọng nào chăng:
- Người ta gọi con tới Roma. Con có thể đi chăng?
- Con sẽ đi, nhưng sau này thôi.
Giọng nói sang sảng của ngài bây giờ chỉ còn thều thào. Những
nỗi đau đớn đôi khi không thể nào chịu nổi. Don Lemoyne gợi
ý:
- Cha hãy nghĩ đến Chúa Giêsu trên Thánh giá. Chính Chúa đã
chịu đau khổ mà không thể nào cử động được.
- Phải, đó là điều cha vẫn liên tục làm!

67.10 Page 670

▲back to top
Ngày 27 và sáng ngày 28 Don Bosco mê sảng liên tục.
Sau trưa ngày 28, vào một trong những lúc cuối cùng, Don
Bosco lại thoát khỏi cơn mê sảng và hoàn toàn sáng suốt. Ngài
bập bẹ:
- Hãy nói cho các đứa trẻ của cha là cha đợi chúng trên Thiên
đàng,
Rồi với ánh mắt nhìn bất định:
- Ngày mai?... Ngày mai?... Cha sẽ đi một chuyến hành trình
dài...
Trong những giây phút đầu canh đêm, ngài nói to:
- Paolino bé nhỏ, Paolino bé nhỏ, con đang ở đâu? Tại sao con
không đến?
- Paolino tức là Don Paolo Albera, Giám Tỉnh của các công
cuộc Salêdiêng bên Pháp, vẫn còn chưa tới.
Ngày 30 tháng giêng, trong một lúc tỉnh táo, ngài thì thầm với
Don Rua:
- Hãy làm cho con được yêu mến.
Vào một giờ sau trưa, Giuseppe Buzzetti và Don Viglietti ở
bên cạnh Don Bosco. Don Bosco mở thật to đôi mắt, cố gắng
mỉm cười, đưa tay lên chào họ. Buzzetti khóc nức nở.
Ngày 31 tháng Giêng, vào lúc hai giờ sáng, Don Rua thấy rằng
mọi chuyện đang dồn dập tới. Ngài đeo dây Sto-la [dây áo linh
mục], và bắt đầu cầu nguyện cho người lâm tử. Các bề trên
khác của Tu Hội được triệu tập khẩn cấp.
Khi Đức Cha Cagliero tới, Don Rua nhường dây Sto-la cho
ngài, bước sang phía bên phải, ghé sát tai Don Bosco và nói với
ngài:

68 Pages 671-680

▲back to top

68.1 Page 671

▲back to top
- Don Bosco, chúng con, các con của cha, ở cả đây. Chúng con
xin cha tha thứ vì tất cả những nỗi đau khổ cha phải chịu đựng
vì chúng con. Như dấu của sự tha thứ và tình yêu thương phụ
tử, xin cha ban cho chúng con một lần nữa phép lành của cha.
Con đưa tay cha lên và công bố công thức chúc lành.
Don Rua nâng tay phải cha đã không cử động được lên và công
bố các lời ban phép lành cho các Salêdiêng hiện diện và những
người ở xa.
Trong phòng vang lên tiếng thở ồn ồn của người hấp hối. Vào
bốn giờ rưỡi sáng, những hơi thở dồn dập bỗng dưng ngưng lại.
Hơi thở ngắn lại trong một lúc rồi lịm đi. Don Belmonte hầu
như kêu to:
- Don Bosco đã chết
Ba tiếng thở vất vả nối tiếp nhau nặng nề và khó khăn... Đức
Cha Cagliero lớn giọng đọc kinh cầu mà ngài đã học từ Don
Bosco khi còn là một đứa bé.
Giêsu, Maria, Giuse, Con xin phó thác trái tim và linh hồn
cùng mạng sống con.
Giêsu, Maria, Giuse, xin cứu giúp con trong giờ hấp hối.
Giêsu, Maria, Giuse, xin cho con được tắt thở bình an trong
sự hiện diện của các ngài.
Ngài cất dây Sto-la khỏi cổ và đặt lên vai Don Bosco, người đã
vào trong Ánh Sáng.

68.2 Page 672

▲back to top
(1) Thánh Quan Don Bosco qua thăm Việt Nam
(2) Hình cuối đời cho thấy Don Bosco đã tiêu hao đời mình vì
giới trẻ nghèo khổ như thế nào!
MỤC LỤC

68.3 Page 673

▲back to top
CHƯƠNG 01 : XA NHÀ LÚC 12 TUỔI 7
Một tay nải trong tuyết lạnh . 8
Giấc mơ dự báo tương lai 10
180 trang đầy những kỷ niệm............................ 13

68.4 Page 674

▲back to top
CHƯƠNG 02 : NHỮNG BI KỊCH NHỎ VÀ LỚN . 14
Một thời vụ xui xẻo . 15
Một biến cố sẽ làm thay đổi cục diện thế giới 16
Vị đại tướng 27 tuổi: Napoléon . 18
Một ông Vua vặn cho đồng hồ lui lại 15 năm .. 20

68.5 Page 675

▲back to top
CHƯƠNG 03 : NHỮNG NĂM SỐNG TRONG TỔ ẤM 23
Một Đấng Vĩ Đại. 24
Đánh khăng và đổ máu . 25
Cây roi trong góc nhà . 27
Con quỷ trong kho chứa đồ cũ . 29
Vết dầu loang . 31
Mẹ là mẹ của con, chứ không phải là một bà mẹ ghẻ 33

68.6 Page 676

▲back to top
CHƯƠNG 04 : NHỮNG NGÀY THÁNG BA . 35
Đôi chân người Ăn mày . 36
Bọn cướp trong khu rừng cây . 37
Mẹ tôi đã dạy tôi cầu nguyện . 39
Trường học trong thời vụ chết của vùng nông thôn. 40
Một con nhồng nhỏ xíu xìu xiu . 43
Vùng đất của ngài 44

68.7 Page 677

▲back to top
CHƯƠNG 05 : DIỄN VIÊN XIẾC TÍ HON 45
Hồi kèn vang dội trên đồi 46
Màn trình diễn trên đồng cỏ . 48
Rước lễ lần đầu . 49
Mùa đông ảm đạm nhất đời cậu . 50

68.8 Page 678

▲back to top
CHƯƠNG 06 : BA NĂM SỐNG Ở TRẠI VÀ MỘT NĂM
TẠI NHÀ XỨ 52
Hai hạt giống và bốn bông lúa 53
Cậu Micae . 56
Bốn đồng xu để thưởng cho một bài giảng . 58
Với cái chết của Cha Calosso, mọi hy vọng tắt lụi 60

68.9 Page 679

▲back to top
CHƯƠNG 07 : ĐƯỜNG ĐI CASTELNUOVO . 62
Bữa ăn trong “ gà men” 62
“Ở xóm Becchi chỉ lớn lên toàn một lũ lừa mà thôi” 64
Bóng áo dòng đen xa cách và lạnh lùng . 66

68.10 Page 680

▲back to top
CHƯƠNG 08 : “TÔI CẦN PHẢI HỌC” . 69
Giấc mơ chín tuổi năm xưa” lại trở lại 71
Nỗi gớm ghiếc phải ngửa tay xin bố thí 73
Bánh xe lịch sử vẫn tiến tới 73
“Hãy đến nói với hoàng tử...” 75
Là vua nhờ ơn Chúa chứ không nhờ ai khác . 76
Cao và buồn như một mùa chay . 77

69 Pages 681-690

▲back to top

69.1 Page 681

▲back to top
CHƯƠNG 09 : THỜI THIẾU NIÊN TẠI CHIERI 79
Một cây cột giữa bọn trẻ nhỏ . 80
Bỗng đâu xảy ra một sự kiện nhỏ… . 82
Hội Vui 84
Bốn màn tỷ thí với tên mãi võ . 86
Lần đầu đến Torino . 89

69.2 Page 682

▲back to top
CHƯƠNG 10 : MÙA CỦA NHỮNG TÌNH BẠN CAO
ĐẸP 92
Hai cái tát dành cho Lu-y Comollo . 92
Cây gậy sống . 94
Hầu bàn . 95
Jacques Lévi, gọi là bạn Giona. 96
Những trái táo của ông Blanchard . 97

69.3 Page 683

▲back to top
CHƯƠNG 11 : TUỔI HAI MƯƠI 99
Tính sổ với sự nghèo khó . 99
Một người đàn bà với khăn choàng vai màu đen . 101
Một giấc mơ lạ . 102
Sao không đến hỏi ý kiến Don Cafasso . 103

69.4 Page 684

▲back to top
CHƯƠNG 12 : CHỦNG VIỆN: NHỮNG ĐIỂM SÁNG
ĐIỂM TỐI 105
Bảy quyết định làm đảo lộn cuộc sống . 105
Những lời ấy, tôi sẽ không bao giờ quên . 107
Một thời biểu sắt thép . 108
Các điểm tối của chủng viện . 109
Ngụm khí oxy mỗi ngày thứ năm .. 110
Giữa bọn trẻ nhà giàu . 111
Vẻ hấp dẫn của Lu-y Comollo . 112
Một chủng sinh mới đơn độc . 114

69.5 Page 685

▲back to top
CHƯƠNG 13 : GIOAN BOSCO ĐƯỢC ĐÀO TẠO LÀM
LINH MỤC THẾ NÀO? . 115
Đưa liềm cắt lúa . 115
Việc huấn luyện linh mục . 116
Đánh giá về thời đại của ngài 118
Đâu rồi các nhân sĩ Cavour, Mazzini, Garibaldi? . 120

69.6 Page 686

▲back to top
CHƯƠNG 14 : GIOAN ĐÃ TRỞ THÀNH DON
BOSCO 123
Quần chúng không hiểu . 123
Một giao ước với cõi bên kia . 124
Bánh mì trộn hạt kê với rượu vang vùng Barbera . 126
“Linh mục không lên Thiên Đàng một mình” 127
Linh mục đời đời 128

69.7 Page 687

▲back to top
CHƯƠNG 15 : NHỮNG BƯỚC ĐẦU ĐỜI LINH MỤC 130
Don Bosco sẽ làm gì bây giờ? . 130
Khám phá đầu tiên: cảnh cơ cực của vùng ven đô . 131
Chợ mua bán những tay thợ trẻ . 132
Cuộc cách mạng công nghiệp . 133
Sự tiến bộ lớn lao được cống hiến cho thế giới 135
Cái giá khủng khiếp mà con người đã trả . 136
Thảm cảnh của các trẻ em vô tội ở Ý . 137
Việc tính sổ . 138

69.8 Page 688

▲back to top
CHƯƠNG 16 : "CON TÊN LÀ BARTHELÉMY
GARELLI" 140
Những đứa trẻ đằng sau các song sắt. 140
Don Bosco quyết định, trong khi các cha xứ thì chờ đợi 142
Kinh nghiệm của cha Cocchi 143
Một kinh Kính Mừng để khởi sự . 145
Ngay bây giờ nhé: Đó là một lời đánh dấu cả một hành
trình 148

69.9 Page 689

▲back to top
CHƯƠNG 17 : NGUYỆN XÁ CỦA CÁC CHÚ BÉ THỢ
HỒ 150
Những mẫu ảnh nhỏ, và cả những ổ bánh nhỏ . 151
Mười hai cung nhạc Kính Đức Mẹ . 152
Thằng bé đến từ xứ Caronno . 153
"Nếu cha chỉ còn lại mỗi một miếng bánh…" 153
"Quyền lãnh đạo thuộc về Đức Giáo Hoàng, thanh gươm thuộc
về Đức Vua Carlo Alberto" 155
"Cha có một chiếc áo dòng quá mong manh" 156
Ngài thanh thản nói về Chúa . 157

69.10 Page 690

▲back to top
CHƯƠNG 18 : BÀ HẦU TƯỚC VÀ “ÔNG CHA NHỎ”
[CHA BOREL] 159
Chiếc áo nhặm dưới bộ xiêm y sang trọng . 160
Những chú chiên hoá thành những chàng chăn chiên tí
hon 162
Don Bosco đâu? Nguyện Xá ở đâu?..................... 163
Thất bại ở Nhà thờ Thánh Phêrô bị trói 166

70 Pages 691-700

▲back to top

70.1 Page 691

▲back to top
CHƯƠNG 19 : NGUYỆN XÁ LƯU ĐỘNG . 169
“Hỡi các con yêu thương, Những cây cải bắp...” 170
"Lấy đi, bé Micae, lấy đi" 171
Những cuốn sách viết trong những đêm thức dài... 173
Ba phòng trong nhà Cha Moretta . 173
Một dấu chấm hỏi lớn về Nguyện Xá . 174
Một Nguyện Xá hoàn toàn khác . 176
Vụ treo cổ ở Alexandria . 178
Lần nữa, lại bị đuổi 179

70.2 Page 692

▲back to top
PHỤ CHƯƠNG : VĂN ĐỐI THOẠI CỦA DON
BOSCO 181

70.3 Page 693

▲back to top
CHƯƠNG 20 : VÔ VỌNG TRÊN ĐỒNG HOANG MỪNG
PHỤC SINH DƯỚI HẦM MÁI CHE . 183
Bà hầu tước và các cảnh vệ . 185
Don Bosco điên rồi chăng? . 186
Vô vọng trên đồng hoang . 189
Một cái gốc chẳng ai biết đến là khởi nguồn mọi sự . 190
Khi từng hồi chuông đổ . 192

70.4 Page 694

▲back to top
CHƯƠNG 21 : PHÉP LẠ BỌN TRẺ THỢ XÂY KÊU XIN
CHÚA 194
Ngài là linh mục . 194
Chia tay nhau tại Bùng Binh “Rondo” 195
Don Bosco ho ra máu . 197
"Lạy Chúa, xin đừng để ngài chết" 199
"Hoặc túi tiền hoặc nộp mạng cho tao!” 201
Những kẻ tha hương tay không, túi rỗng . 204

70.5 Page 695

▲back to top
CHƯƠNG 22 : MỘT KHO THUỐC SÚNG SẴN SÀNG NỔ
TUNG 206
Những phòng lớp sáng choang đầy các trẻ em .. 206
Đức Giáo hoàng Mastai – Ferreti lấy danh hiệu “Piô IX” 207
Cuộc đụng độ của Don Bosco với “các linh mục yêu nước” 210
Một trận mưa gạch đá . 211
Một linh mục ăn trộm .. 212
Những lời ca và những tiếng la ó của bọn dân nhậu . 214
Các giáo viên trẻ và những cộng sự viên người đời 215

70.6 Page 696

▲back to top
CHƯƠNG 23 : “CON MỒ CÔI, QUÊ Ở VALSESIA” 217
Cây dâu và sương mù . 217
Một thằng bé ướt sũng và lạnh cóng . 219
Chú bé thợ cạo run như tầu lá . 221
Cú đánh đầu của Đức Tổng Giám Mục . 224
Phù hiệu ba màu đeo trên ngực [cờ Ý Thống Nhất] trong thánh
lễ đại triều 225
Ngọn lửa ấm trong phòng áo . 226

70.7 Page 697

▲back to top
CHƯƠNG 24 : CƠN SỐT ĐỘC LẬP VÀ THỐNG NHẤT
NĂM 1848 228
Các phe tự do, ái quốc, thợ thuyền sát cánh nhau trong các
chiến tuyến phòng thủ 229
Hiếp pháp sẽ được gọi là “Pháp chế” 230
Don Bosco và vị Hầu tước Roberto D’ Azeglio mặt đối mặt
232
Những băng nhóm chống giáo sĩ tràn ra khắp nơi 233
Chiến tranh chống lại nước Áo . 235
Những trận đánh thật và những trận đánh giả ở Valdocco 236
“Hãy để tôi quay về nhà mình” 237
Cuộc chiến tranh tại ý tại xứ Lombardia . 238

70.8 Page 698

▲back to top
CHƯƠNG 25 : HY VỌNG SỤP ĐỔ . 239
Chấm dứt sự hiểu lầm .. 239
Gà-men và “khẩu phần” tại nguyện xá . 241
Lòng trung thành với Đức Thánh Cha và cái giá phải trả 242
Những tin tức bi thảm .. 244
Súng nổ tại nhà Pinardi.................................... 245
Làm việc nhằm đào tạo một lớp linh mục khác . 246
Những tin buồn đến từ La Mã . 248
Hai tín hiệu đầy hy vọng ở Valdocco . 249

70.9 Page 699

▲back to top
CHƯƠNG 26 : DON BOSCO CHÍNH TRỊ VÀ VẤN ĐỀ XÃ
HỘI 251
Chính trị của tôi là kinh lạy Cha . 251
Don Bosco và vấn đề xã hội 254
“Gạt sang một bên mọi thứ chính trị” có nghĩa là gì? 256
Và nếu sự chọn lựa của ngài đã khác đi thì sao? . 260

70.10 Page 700

▲back to top
CHƯƠNG 27 : 1849, NĂM GAI GÓC MÀ PHONG
PHÚ 262
Tờ báo “Bạn của Giới Trẻ”, một thất bại! 263
Lại chiến tranh . 264
Những tàn tích cuối cùng của tự do . 265
Sự thất bại của “các linh mục yêu nước” 266
33 lire dâng kính Đức Thánh Cha . 266
“Hai quả tim nhỏ để tạ ơn” 267
Bốn đứa trẻ và một khăn mùi xoa trắng.............. 267
Đại đội ở Borgo Vanchiglires 268
Một bao đầy lá khô.......................................... 269
Bốn xu cháo bột ngô . 270
“Tôi đã gọi đích danh anh ta: Carlo!” 272
Một giỏ hạt dẻ không bao giờ cạn . 273

71 Pages 701-710

▲back to top

71.1 Page 701

▲back to top
CHƯƠNG 28 : MỘT NGÔI NHÀ VÀ MỘT NHÀ THỜ 275
Đức Tổng Giám mục bị bắt giữ . 276
Một ê kíp 4 người khác . 278
30.000 lire và một thoáng chóng mặt. 279
Và giờ đây, một Thánh đường nguy nga tráng lệ . 280
Ma quỉ, có lẽ thế . 283

71.2 Page 702

▲back to top
CHƯƠNG 29 : VÀ CHÚA ĐÃ GỬI ĐẾN MỘT CON
CHÓ 285
Đối Thoại Giữa Những Kẻ Điếc . 286
Rượu Và Hạt Dẻ . 287
Họ Vồn Vã Chào Đón Tôi................................... 289
“Con Xám” 290
Ngủ tại tiệm giầy............................................ 292

71.3 Page 703

▲back to top
CHƯƠNG 30 : NỬA TÁ XƯỞNG THỢ . 294
Một ngón tay trên nhiều ung nhọt 295
Đơn độc, không được bảo vệ, trong tay ông chủ . 296
Hai bàn thợ mộc đã bắt đầu . 297
Một năm để có xưởng in . 298
Bốn cách thức để tìm ra cách thức tối ưu . 299
“Ai không hoàn toàn nghèo thì không có chỗ trong Nhà này”
300

71.4 Page 704

▲back to top
CHƯƠNG 31 : NHỮNG HỌC SINH KHOÁC ÁO NHÀ
BINH 302
“Ngủ trong chiếc thúng đựng mì dòn” 303
“Con sẽ đi qua biển Đỏ và sa mạc” 305
Bảo hành năm mươi năm .. 306
Bọn “con ông cháu cha” và đám học sinh khoác áo nhà
binh 307
“Cha thấy mình thoải mái được ở giữa bọn trẻ” 308
“Don Bosco không có thể hiểu hết giá trị của gia đình...?” 310

71.5 Page 705

▲back to top
CHƯƠNG 32 : 1854: CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC GỌI LÀ
SALÊDIÊNG 312
Dàn dây leo và những bông hồng . 313
“Cha trả lương cho tôi ra sao?" 315
Thần chết trên các đường phố ở Khu Borgo Dora . 317
Những tên khổng lồ mặt mày rầu rĩ 319
Tám phút đã thuộc hết một trang . 320
Một tấm biển treo tường bí ẩn . 323
Những bóng đèn tròn muôn mầu trên hai bờ sông Pô 324
Đứa bé mô côi ở khu phố Thánh Đa Minh . 326

71.6 Page 706

▲back to top
CHƯƠNG 33 : 1855: NHỮNG THIẾU NIÊN "PHẠM PHÁP"
Ở KHÁM LỚN 329
"Những đám ma lớn tại triều đình!" 330
Người Salêdiêng thứ nhất 332
Đối đầu trực diện với Bộ trưởng . 334
Một ngày tự do . 336
Chín trang để trình bày phương pháp của mình . 338
Giấc mơ về “đời sống Nguyện Xá xưa” như một lời kêu gọi
339

71.7 Page 707

▲back to top
CHƯƠNG 34 : VĨNH BIỆT MẸ GIÀ VÀ MỘT CẬU BÉ 344
Một tờ giấy với năm từ . 344
Hội Bạn “Đức Mẹ Vô nhiễm” 346
Mẹ Margarita ra đi về cõi vĩnh hằng . 348
Một cậu bé trò chuyện với Chúa . 350
Trên Thiên Đàng, con có thể thấy các bạn của con chứ? 352
Một băng giải màu máu . 354

71.8 Page 708

▲back to top
CHƯƠNG 35 : THẦY TU HAY KHÔNG, TÔI SẼ VẪN Ở
LẠI VỚI DON BOSCO . 357
Bản Phác thảo viết tay về một Tu Hội mới đang phát sinh 358
Cuộc gặp gỡ với Đức Thánh Cha . 360
Một tuần lễ để quyết định cuộc sống của Tu Hội 362
“Nếu không làm linh mục, cậu sẽ làm gì tại Nguyện Xá?” 364
Cơn khủng hoảng của Giuse Buzetti 365
Người sư huynh Don Bosco có trong trái tim ngài 367

71.9 Page 709

▲back to top
CHƯƠNG 36 : MICAE MAGONE: MỘT ĐỨA BÉ VÀ BẢY
CẢNH SÁT 369
Phải mất xe lửa hay là mất đứa bé . 370
Nỗi buồn của một đứa bé . 372
Những cú đấm tại Quảng Trường Castello . 374
Don Bosco đặt tay trên đầu Magone . 376
Nền “chính trị vĩ đại” tức là Việc Thống Nhất Nước Ý . 377
“Nếu cần thì hãy dựng các hàng rào cản tại Torino” 379
Thảm cảnh Hỏa ngục trong suốt 12 giờ............... 380
Sự thành công của “chính trị thực dụng” 382

71.10 Page 710

▲back to top
CHƯƠNG 37 : NHỮNG CUỘC DÃ NGOẠI TỚI CÁC
VÙNG MIỀN MONTEFERRATO VÀ CUỘC SỐNG TẠI
NGUYỆN XÁ 385
Một em bé lên năm tuổi có tên là Philip Rinaldi 387
Một cậu bé có mái tóc hung và trời mưa . 388
Cô gái xứ Mornese có tên là Maria Mazzarello . 390
Thánh lễ đầu tiên của Don Rua . 391
400 chiếc bánh mì trong một thúng bánh . 393
Thi hành đức ái vì các người nghèo mà thôi 395
“ Một ban được qui tụ bí mật” vào năm 1861 . 396

72 Pages 711-720

▲back to top

72.1 Page 711

▲back to top
CHƯƠNG 38 : ĐỀN THỜ LỚN ĐƯỢC NHÌN THẤY
TRONG GIẤC MƠ 401
Giấc mơ ba nhà thờ . 401
"Đây sẽ là Nhà Thờ Mẹ cuả Tu Hội chúng ta” 403
Những biến cố tại Spoleto và Đức Maria Phù Hộ . 404
Một Tên gọi của Thánh Đường khiến người ta phải nhăn mặt
408
Bắt đầu với tám đồng xu . 409
Đức Mẹ đi quyên góp cho Don Bosco . 411
Người mẹ, đứa trẻ thơ và những đồ trang sức của người
nghèo 412
Người làm công nhật xứ Alba . 414

72.2 Page 712

▲back to top
CHƯƠNG 39 : DON RUA: TỪ MIRABELLO CHO TỚI HỒI
KHÁNH THÀNH VƯƠNG CUNG THÁNH ĐƯỜNG ĐỨC
MẸ PHÙ HỘ 420
Bốn trang giấy mang giá trị của một di chúc . 421
Những lời nói rỉ vào tai của Don Bosco . 424
Một bà mẹ, và biết bao nhiêu chuyện phải làm .. 425
Bức họa Đức Maria Phù Hộ . 425
Chào biệt Don Alasonnati sang thế giới bên kia và chào đón
Don Rua trở lại Nguyện Xá 427
Ban sáng Don Bosco phải gặp gỡ liên tục khách viếng
thăm 428
Ông De Amicis nhìn thấy tượng Đức Mẹ Phù Hộ vĩ đại trên
vòm của Đền Thờ 429
Đây chính là lúc những lời tiên tri “điên” đã trở thành hiện
thực 431
Cha Rua suy sụp . 432

72.3 Page 713

▲back to top
CHƯƠNG 40 : MỘT GIAI ĐOẠN MỚI CHO CÁC NGƯỜI
SALÊDIÊNG 435
Lịch sử diễn ra ở bên ngoài cổng lớn của Nguyện Xá . 435
Cuộc chiến chống lại bọn cướp và cuộc di dân vĩ đại 437
Chiến tranh du kích tại Torino............................ 438
Cơn khủng hoảng tôn giáo: Kinh Thánh và lớp học về thị
trường chứng khoán 440
Lịch sử không chính thức của giới thợ thuyền . 441
“Thuế đánh trên cảnh đói của dân chúng” 443
“Những Trường Trung Học Salêdiêng” phát sinh . 444
Năm trường trung học đầu tiên . 445
Một bước ngoặt đánh dấu cho một nguyên tắc nền tảng 448

72.4 Page 714

▲back to top
CHƯƠNG 41 : MORNESE CŨNG GIỐNG NHƯ
VALDOCCO 449
Dịch bệnh sốt nổi mụn, những tên phù thủy và con mắt soi mói
450
Bốn con mắt vẻ đầy hãi sợ . 453
Một vị linh mục đi tìm việc làm .. 453
Cuốn vở nhỏ bị lạc mất 455
Khi không còn bột bắp để làm món cháo bắp . 456
Ý kiến của Đức Thánh Cha và sự bực bội của dân xứ đó 458
Mùi thơm của nắm hạt dẻ . 460
Cái chết gõ cửa . 461
Họ lập thành nhóm ba người, lên đường dưới cảnh tuyết rơi
462
Cái chết đến với những bông hoa của tháng Năm .. 463

72.5 Page 715

▲back to top
CHƯƠNG 42 : CUỘC CHINH PHỤC ROMA VÀ CƠN
RÙNG MÌNH CỦA SỰ CHẾT
465
Công đồng ở Roma và phản-công đồng tại Napoli 465
“Trời Cao nói với vị Mục tử của các mục tử” 466
Những lời đe dọa đen tối trên Nước Pháp . 467
Liệu Đức Thánh Cha có thể bất khả ngộ? . 469
Lính thiện xạ Ý ở Cổng Porta Pia của thành Roma . 470
Cơn rùng mình của sự chết tại Varazze . 472
Những lá thư đầy tràn tình yêu thương dịu dàng . 473

72.6 Page 716

▲back to top
CHƯƠNG 43 : CÁC CỘNG TÁC VIÊN: TỨC CÁC
SALÊDIÊNG GIỮA TRẦN THẾ . 476
Chào biệt cha Borel 476
Những người nam nữ thiện chí 477
Các người Salêdiêng ngoại trú: một ý tưởng bị gạt bỏ 478
Các Cộng Tác Viên Salêdiêng . 479
Tờ “tập san Salêdiêng” cũng đã vươn tới các vùng Sotto il
Monte 481

72.7 Page 717

▲back to top
CHƯƠNG 44 : FRANCESCO, EUSEBIO,
FILIPPO, MICHELE VÀ NHIỀU BẠN HỮU KHÁC . 483
“Tôi đã ăn cắp hai ổ bánh mì tròn” 484
Eusebio Calvi di Palestro . 487
Don Bosco không mấy hạnh phúc vì sự từ chối 488
Khi Don Bosco quyết bước vào một cuộc chiến . 490
Vị Kinh sĩ ngưng công việc để nghỉ ngơi 491
Những người thợ xây trẻ của Nguyện Xá Chúa nhật 493
Michele Unia, một nông dân . 495

72.8 Page 718

▲back to top
CHƯƠNG 45 : ĐI XA HƠN . 497
Những con người tình nguyện mới sẵn sàng liều mạng 498
Đi tìm một chi tiết: Hai con sông và một vùng sa mạc 500
Một thư luân lưu để tìm những người tình nguyện . 501
Người dẫn đầu đoàn truyền giáo là đứa trẻ có hai người Da đỏ
khổng lồ đu lên 504
Hai mươi lời kỷ niệm viết bằng bút chì 506

72.9 Page 719

▲back to top
CHƯƠNG 46 : PANTAGONIA, ĐẤT HỨA . 509
Còn những người man rợ thì sao? . 510
Những bạn trẻ đến từ Torino . 512
Pampas......................................................... 514
Pantagonia . 514
“Thánh giá tiến bước sau lưỡi gươm. Kiên nhẫn thôi!” 515
Cuộc săn lùng con người 518
“Cha đã thấy tận trong bụng của các núi non” 520
Giấc mơ cuối cùng của Don Bosco . 523

72.10 Page 720

▲back to top
CHƯƠNG 47 : DON BOSCO VÀ ĐỨC TỔNG GIÁM MỤC
GASTALDI 526
Sự lạnh nhạt của Đức Cha Ricácardi 527
“Nếu con muốn, thì cha ban điều đó cho con” 529
Ngài là một vị Giám mục vĩ đại 531
Sai lầm nền tảng của Don Bosco . 533
Trách nhiệm của báo chí 535
Quyền lực đúng mức và quyền lực đi quá mức . 536
Yếu tố thứ nhất: Nguyện Xá của Don Bosco thiếu kỷ luật 538
Một lý do khác của sự căng thẳng . 539
Luật Tu Hội được phê chuẩn vĩnh viễn . 540
Các danh sách “những biện pháp trừng phạt” 541
Tiến trình xét xử tại Vatican . 545
Chén đắng dành cho Don Bosco . 546
Thanh thản nhưng hoàn toàn suy sụp . 547

73 Pages 721-730

▲back to top

73.1 Page 721

▲back to top
CHƯƠNG 48 : CÁC CUỘC HÀNH TRÌNH LỚN: QUA
PHÁP VÀ TÂY BAN NHA . 549
“Cha gánh vác nhà thờ Thánh Tâm Chúa trên đôi vai” 550
Paris bừng lửa nhiệt tình . 552
Một bức hình chụp Don Bosco Tại Pháp............... 553
Một ngày của một linh mục nghèo . 554
Đức Hồng Y, người mang đến hòa bình................ 556
Nếu cha không trở lại nữa . 557

73.2 Page 722

▲back to top
CHƯƠNG 49 : GIOAN CAGLIERO LÀM GIÁM MỤC 561
“Ai có thể đảm nhận chỗ của cha?”..................... 561
Một cái ôm hôn nồng thắm người con giám mục đầu tiên 563
Don Rua Phó Bề trên đại diện Don Bosco . 564
Don Bosco cầm lấy tay của ngài......................... 564
Nhà của Đức Giám Mục là một nhà gỗ nhỏ bằng thân cây 566
Phỏng vấn Don Bosco . 568

73.3 Page 723

▲back to top
CHƯƠNG 50 : NHỮNG GIỌT NƯỚC MẮT NÓNG HỔI 571
Một vị linh mục nghiêm chỉnh và suy tư . 572
Một bông hoa giúp nghĩ về cõi đời đời 572
“Đức Mẹ ở đây” 573
Don Bosco và những người giàu có . 574
Xuống Roma trong vòng mười ngày . 579
Những dòng nước mắt nóng hổi 581
Luigi Orione: ba cuốn sổ tay ghi các tội 582

73.4 Page 724

▲back to top
CHƯƠNG 51 : CHÀO BIỆT TRÁI ĐẤT . 585
Cha cảm thấy nỗi cô đơn dần dần bao trùm lấy cha . 586
Giống như cây nến dần tắt 587
Đức Cha Cagliero đến . 588
Các ý tưởng đậm hương vị cõi đời đời 590
Sự im lặng ở khu sân lớn . 593
“Tới lượt cha, cha phải xin người ta nói câu ấy cho cha” 594
Giờ phút “những con vật ghê gớm” trở lại 597
“Hãy nói với các con của cha” 598
[1] Đồng tiền Ý gọi là đồng lire.
[2] Khu Nguyện Xá của Don Bosco nằm ở khu có tên là
“Valdocco”.
[3] Castello có nghĩa là Pháo đài
[4] Là nơi có thủ phủ là thành phố Milano
[5] Nơi này Don Bosco đã xác định chính xác, là nơi hiện tìm
thấy trong nhà nguyện các hài cốt của Vương Cung Thánh
Đường Đức Mẹ Phù Hộ. Trên nền đá có ghi dấu chữ thánh giá
mạ vàng.
[6] Umbria nằm ở miền trung nước Ý, giáp Tuscanà về phía
Tây, Marche về phía Đông và Lazio về phía Nam. Vùng này
chủ yếu là đồi núi. ..
[7] Em I 553-554.
[8] A Pio IX, 10 marzo 1863, Em I 561.

73.5 Page 725

▲back to top
[9] Lett. Del 5 giugno 1862 di Cesare Chiala (1837-1876). Piu
tardi salesiano, al cav. Federico Oreglires di S. Stefano, ASC A
0050401, Fdb 929 C 10-D1; P. Stella, Don Bosco nella storia
della religiosità catolica II, 547-554.
[10] Em I 1629.
[11] Ghi Chú:
Các giấc mơ của Don Bosco
Trong

73.6 Page 726

▲back to top
Chương này, chúng ta đã nói tới ba giấc mơ của Don Bosco:
Đó là những giấc mơ “Một Nhà Thờ Lớn trên cánh đồng bắp”,
“Ba ngôi Nhà Thờ”, “Hai cột trụ”.
Xin cho phép tôi được có một nhận xét cá nhân của mình.
Về các giấc mơ của Don Bosco, người ta đã viết rất nhiều, nói
chung là nghiêm chỉnh và có uy tín. Khốn thay, cũng có người
bàn đến một cách kỳ quặc khiến cho người đọc phải tự hỏi
những người viết đó có mơ nhiều hơn là Don Bosco đã mơ
chăng.
Để cắt nghĩa các giấc mơ này và để loại bỏ tất cả tính chất “phi
thường” của cuộc sống của Don Bosco, người ta đã sử dụng cả
đến các giả thiết cắt nghĩa theo lối khoa học, chẳng hạn dựa
trên khoa nghiên cứu các hiện tượng thần kinh ngoài lãnh vực
tâm lý bình thường (nhưng những cách thức cắt nghĩa đó ngày
nay đã bị hoài nghi một cách nghiêm chỉnh và bị các nhà thông
thái loại bỏ), hay coi những giấc mơ là một thứ “huyền thoại
hóa” mà những người kể lại các sự việc và các lời nói của Don
Bosco đã rơi vào, để rồi họ minh nhiên lên án các giấc mở trên
như là các chứng từ giả.
Chúng tôi chân nhận rằng người ta có quyền đặt ra những giả
thiết để làm việc và nghiên cứu hầu có thể kiệm nghiệm cách
thích đáng các giấc mơ này. Nhưng chúng tôi không thấy chính
đáng khi người ta chấp nhận mọi thứ giả thiết đưa ra để nghiên
cứu về chúng, chỉ trừ duy nhất cái giả thiết coi chúng chính là
sự can thiệp của Thiên Chúa trong đời sống của Don Bosco.
Nếu người ta hành xử đàng hoàng, thì người ta cũng buộc phải
đưa cả cái giả thiết siêu nhiên này vào để nghiên cứu một cách
nghiêm chỉnh. Vậy một sự kiểm nhận nghiêm chỉnh của sử gia
buộc phải lưu ý đến việc chọn lựa các chứng từ đã tuyên thệ
trước tòa án phong á thánh cho Don Bosco về lời chứng của
mình. Việc chối bỏ một cách tiên thiên các chứng từ được thực

73.7 Page 727

▲back to top
hiện với lời thề, chỉ vì muốn bảo về các lý thuyết đáng hoài
nghi trên, cho thấy rằng công việc điều tra lịch sử ấy đã không
được theo đuổi một cách nghiêm chỉnh, trái lại nó xuất phát từ
các thiên kiến muốn loại trừ ánh sáng siêu nhiên. Làm như vậy
là rơi vào các tín điều của chủ nghĩa thực chứng (cho rằng
không thể nào tiếp nhận những cái gọi là siêu nhiên cả, và do
vậy vô ích nếu chúng ta muốn nhận định về nó).
Chúng tôi không phải là những chuyên viên trong lãnh vực
này. Nhưng chúng tôi tin rằng để có một ý niệm chính xác về
các giấc mơ của Don Bosco, thì vô cùng quan trọng phải biết
Don Bosco thực sự đã nghĩ gì về các giấc mơ của ngài, và
những người sống cùng ngài đã nghĩ gì. (Điều này dĩ nhiên là
chưa phải là tất cả các dữ kiện mà một sử gia cần đến, nhưng
nó chính là một bước xuất phát cho một cuộc nghiên cứu
nghiêm chỉnh).
Vậy chúng tôi xin cho mình quyền kể lại một số câu nói của
Don Bosco và của những người đã sống bên cạnh ngài trong
nhiều năm trời. Chúng tôi không sửa lại bản văn của các nhân
chứng này, dù cho làm thế có thể khiến cho những người
không quen với lối diễn tả bằng tiếng Ý của những năm 1800
(tức là trong thế kỷ XVII) sẽ gặp khó khăn để hiểu được các
câu văn thời xưa đó.
Giấc mơ 9 tuổi. Chứng từ tự thuật của Don Bosco
“Bà nội biết khá đủ về thần học – vì bà hoàn toàn không biết
chữ - để tuyên bố phán đoán cuối cùng như sau: “Đừng bận
tâm về mộng mị”. Cha cũng đồng quan điểm với bà nội; tuy
nhiên cha không hề cất bỏ giấc mơ đó khỏi tâm trí cha được.
Những điều cha sẽ kể lại sau đây sẽ trao cho giấc mơ một cái ý
nghĩa của nó” (Hồi Ký Nguyện Xá, do cha E. Ceria xuất bản, tr.
25).

73.8 Page 728

▲back to top
Giấc mơ về ngôi nhà thờ lớn trên cánh đồng bắp: Chứng
từ tự thuật của Don Bosco
Giấc mơ này làm tôi suốt đêm trằn trọc suy nghĩ; nó kéo theo
nhiều chi tiết. Tôi không hiểu nổi ý nghĩa của nó vào thời điểm
đó, bởi lẽ tôi không tin vào nó lắm; nhưng tôi dần dần hiểu ra
hiệu quả của nó khi các sự việc thành sự. Thậm chí sau này,
cùng với một giấc mơ khác, tôi đã sử dụng nó làm

73.9 Page 729

▲back to top
Chương trình cho các quyết định của tôi” (Hồi Ký Nguyện Xá,
do E. Ceria xuất bản, tr. 136).
Chứng từ của Don Bosco do cha Lemoyene thuật lại
Trong những năm đầu tôi dần dần đặt tin tưởng vào những
giấc mơ này như chúng đáng được hưởng. Rất nhiều lần tôi đã
coi đó là trò do trí tưởng tượng của tôi tạo ra. Trong khi kể lại
những giấc mơ này, trong khi loan báo những cái chết sắp tới,
tiên báo tương lai, rất nhiều lần tôi tư lự không dám chắc chắn,
vì không tin tưởng rằng mình đã hiểu chúng và sợ rằng mình
nói những chuyện dối trá. Tôi tới mức đã phải thú nhận cùng
cha Cafasso về mối nguy hiểm nếu tôi nói chúng ra. Ngài nghe
tôi, suy nghĩ một chút rồi nói: “Bắt đầu từ lúc mà cha thấy là
những điều cha nói đang được thực hiện, thì cha có thể an tâm
và tiếp tục tiến bước”. Tuy nhiên chỉ sau đó một năm khi chàng
trai Casalegno chết, và tôi đã được thấy cậu nằm trong quan tài,
đúng hệt như tôi đã mơ, thì tôi mới không còn ngần ngại để tin
rằng những giấc mơ này thực sự là những lời cảnh cáo của
Chúa” (M. B., Cuốn V, tr. 376).
Chứng từ của cha Lemoyne
Cho tới khoảng năm 1880, khi kể lại các giấc mơ này, Don
Bosco đã không bao giờ nói đó là những thị kiến. Nhưng với
riêng tôi, vào những năm sau cùng này, tuy rằng ngài không
bao giờ nói chính tiếng “thị kiến”, nhưng ngài để cho tôi sử
dụng chúng trong các cuộc trao đổi thân mật giữa chúng tôi”
(M. B. Lời dẫn nhập, Cuốn XVII).
Chứng từ của cha Berto, thư ký của Don Bosco trong suốt 20
năm
“Ngài tiên báo trước khi nó xẩy ra về cái chết của hầu hết các
trẻ em của Nguyện Xá, một cách chính xác về thời điểm và các
hoàn cảnh của việc các em trẩy sang thế giới bên kia. Có những

73.10 Page 730

▲back to top
lần này hay lần khác, ngài cảnh báo các cậu bé một cách rõ
ràng; có khi ngài nêu những vần đầu của cái tên những người
sẽ chết. Những lời tiên báo đó, như tôi nhớ lại, đã hoàn toàn
xẩy ra như vậy; tôi có thể xác nhận được chúng. Chỉ họa hiếm
mới có những luật trừ, nhưng đúng như chúng diễn ra, chúng
khẳng định về tinh thần tiên tri của Don Bosco. Chính tôi là
linh mục Berto, là nhân chứng mắt thấy tai nghe, viết ra những
lời này” (M. B., Cuốn V, tr. 387).
Cảm nghĩ của cha Ceria
Người viết 9 cuốn sách Hồi Sử cuối cùng trong tiểu sử Don
Bosco này đã gia nhập Tu Hội 3 năm 8 tháng trước khi Don
Bosco qua đời, trong bài Dẫn Nhập cho cuốn XVII, đã phân
loại các giấc mơ của Don Bosco thành ba nhóm:
- Những giấc mơ chỉ thuần túy là những giấc mơ như chuyện
chúng ta mơ vào những đêm bụng tiêu hóa không tốt: suy nghĩ
cho nghiêm chỉnh thì không nên liệt chúng vào trong hạnh sử
của Don Bosco. Một số chúng được đem vào trong Bộ Sách
Hồi Sử chỉ để giúp chúng ta bao có thể biết được những yếu tố
của cuộc đời Don Bosco.
- Các giấc mơ không chỉ là những giấc mơ, mà chính là các thị
kiến xẩy ra ngay giữa ban ngày, chẳng hạn giấc mơ tỏ lộ tương
lai của Gioan Cagliero.
- Những giấc mơ mơ về ban đêm biểu lộ những chuyện bí mật
hay tương lai.
Tuy nhiên cha Ceria nhận xét như sau: Khó mà phân biệt giữa
ba loại giấc mơ này. Có lần chúng ta không biết khi nào Don
Bosco mơ thấy mình đang ở trong góc phải của chính diện Đền
thờ thánh Phêrô, ở lưng chừng giữa theo đường thẳng đứng
tính từ tượng thánh Phêrô và Bức khảm ghép mảnh
đá “mosaic” ghi lại hình Đức Thánh Cha Pio IX, và Don

74 Pages 731-740

▲back to top

74.1 Page 731

▲back to top
Bosco chẳng hiểu nổi làm sao ngài lại tới được chỗ đó. Ngài
muốn xuống. Ngài gọi, la hét lên, nhưng chẳng ai tới. Sau cùng
vì khiếp sợ, ngài giật mình tỉnh dậy. Người ta sẽ nói đó là một
giấc mơ do việc tiêu hóa không tốt mà xẩy ra. Thế rồi cha
Ceria tiếp tục viết: Nhưng nếu ta nhìn hốc nằm ở chính diện
của nhà thờ thánh Phêrô này vào năm 1936, thì sẽ thấy có bức
tượng vĩ đại của Don Bosco do nhà điêu khắc Canonica đặt ở
vị trí giữa hai bức tương thánh Phêrô và Đức Thánh Cha Pio IX
đó. Thế là chúng ta hiểu rõ đây thật sự không phải là giấc mơ
được tạo ra bởi sự tiêu hóa không tốt.
[12] Sắc lệnh Công đồng được biên soạn thành một câu duy
nhất trong bản gốc. Ở đây chúng ta cắt ra thành bốn câu cho dễ
đọc. Những chữ trong ngoặc được thêm vào để diễn rõ ý nghĩa.
[13] Khu cuối cùng của Nam Mỹ nay vẫn chưa có đường xe
lửa cho tới năm 2003. Giấc mơ của DonBosco vẫn còn chờ
thực hiện.
[14] Thủ đô nước Chile
[15] Vallecrosia là một đô thị ở tỉnh Imperia trong
vùng Liguria, tọa lạc khoảng 120 km về phía tây nam
của Genoa và khoảng 30 km về phía tây của Imperia. Tại thời
điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 7.264
người và diện tích là 3,6 km².
[16] Tại Paris, chính quyền Cách mạng Công Xã theo đường
lối cách mạng, dựa trên lực lượng công nhân. Chính quyền này
bị đè bẹp bởi quân của đội quân của giới trưởng giả Pháp.
[17] Samperdarena gần bến tàu nơi các nhà truyền giáo xuống
tàu đi Nam Mỹ.